Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          

          
          


          

          


... Mời các bạn góp bài, cùng vui đón ...
... Xuân Giáp Thìn ...



          
          

          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Ngoc Han đã viết: Thứ bảy 06/01/24 03:12 Quá hay, nghe chừng như mới đây, bravo ban Tam ca!

:flwrhrts: :flwrhrts: :flwrhrts: :bravo: :applaud:



:giggles: ... 8 năm qua rồi !.. bây giờ tam ca này chắc vừa mềm vừa run .. :wink2:


          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Nhớ năm Thìn
    ________________
    Sơn Nam






    Gió lạnh, mưa lê thê. Tôi hay tin nạn bão lụt miền Trung quá trễ. Những con số 7000 người chết, hàng triệu người không nhà cửa đã vượt ngoài sự tưởng tượng của tôi. Từ hồi lớn khôn đến giờ, tôi chưa từng thấy hàng trăm người chết - thấy tản mát, lần nào cả. Trong nghĩa địa, có hàng ngàn ngôi mộ nhưng là những ngôi mộ sạch sẽ, xác chết nằm yên ấm trong quan tài và trước khi hạ huyệt, người thiện có được an ủi bằng nước mắt của thân nhân bạn hữu, vài cục đất, vài cánh hoa ném xuống...

    Đi viếng một nghĩa đĩa có 7000 ngôi mộ, có lẽ tôi chỉ buồn buồn cho kiếp sống, thế thôi. Tôi nghĩ đến bảy ngàn - và hơn bảy ngàn xác chết của đồng bào miền Trung, ở một vùng mà từ thuở bé đến giờ tôi chưa từng đặt chân tới. Cớ sao dãy núi Trường Sơn lại giận dữ, trở thành một hung thần? Và biển Thái Bình lại trở chứng đột ngột? Nhưng trách chi núi, trách chi biển! Nếu suy luận miền Nam như thế, tôi sẽ trở thành một người lẩm cẩm, đóng cửa rút cầu, xa thực tế. Ngày xưa, đã nhiều người làm văn tế suông với những câu rất sáo lập đi lập lại. Lại còn những nhà hiền triết ngồi yên ấm bên chén trà nhìn qua cửa sổ để cảm thông với băng giá bên ngoài. Và những thi sĩ đốt lò hương trầm, uống rượu nồng, thả hồn đến tận chốn sa trường than khóc giùm các chiến sĩ đang chinh Đông chinh Tây. Rồi thương tiếc cho những nàng chinh phụ ở nhà đang ôm gối mộng nhìn trăng.

    Không có bài văn tế nào nói hết nỗi đau khổ của kẻ chết, người sống trong trường hợp đặc biệt này. Bảy ngàn xác chết, nếu chất thành đống, ắt vun lên như quả núi. Oan ức biết là bao. Suốt 20 năm chiến tranh, họ đã sống, đã đau khổ, đã yêu nước, đã cày ruộng cuốc đất, để rồi chết vì một lý do tức tưởi như vậy, trong khoảnh khắc. Lại còn hàng triệu người không nhà. Một triệu tức là phân nửa dân số Sài-gòn, Chợ-lớn. Tôi chưa hình dung nổi một rừng người đông đảo như thế. Mấy năm nay, tôi chỉ thấy vài chục người ngủ ngoài lề phố, chung quanh nhà chú Hỏa Sài-gòn. Vài chục người không nhà, cảnh tượng ấy cũng đủ làm cho tôi chạnh lòng rồi. Một triệu là bao nhiêu! Nếu họ ngồi đâu lưng với nhau hoặc nằm gần nhau thì sẽ chiếm bao nhiêu cây số bề dài? Lố bịch quá! Giờ phút này những con người có lương tâm không được quyền "giải trí" hoặc tò mò "tìm hiểu" theo lối đó, lối tìm hiểu, giải trí của những kẻ sống ngoại cuộc, thủ lợi, ích kỷ tột độ và thông minh lặt vặt.

    Tôi cúi đầu, cầm viết. Viết hiệu triệu chăng? Tôi chưa đủ thẩm quyền để hiệu triệu: "Hỡi đồng bào, chúng ta nên...". Bấy lâu nay, tôi mang chứng bệnh "suy cổ nghiệm kim". Tôi sực nhớ đến bài vè về Bão lụt năm Thìn, đăng trong Revue Indochinoise năm 1904, một loại tạp chí ít ai còn giữ được và xưa kia chỉ lưu hành trong một số người được thực dân ưu đãi. Sáu mươi năm về trước. Hơn nửa thế kỷ. Vào thư viện để lục lạo mớ giấy đầy bụi bặm ấy chăng? Để giải trí, để hoài cổ theo lối quí tộc, sang trọng! Tôi thiếu can đảm để làm chuyện ấy. Ra ngoài Trung để chứng kiến thảm họa, tìm đề tài chăng? Tốn tiền, vô ích. Tình thế cấp bách lắm rồi. Sự thật đang diễn biến thiên hình vạn trạng. Nhiều người chết, không được người sống đếm số - vì xác họ đã mất, mất trước khi người làm "công việc đếm" chú ý tìm họ. Nhiều người không nhà đang sắp sửa xuống ngủ dưới lòng đất vì bệnh, vì đói. Nhiều người mạnh khỏe đang trở thành phế nhân. Nhiều gia đình không còn là gia đình và người gia trưởng đang chết hoặc đã chết. Vợ con của họ sắp tung ra tám hướng trời; từ buổi này phải xa nhau, tan tác để mạnh ai nấy tìm sanh kế.




    * * *
    Tôi ra đường thở dài. Sở trường của tôi là cầm bút. Cái sở trường ấy nên sử dụng như thế nào cho có hiệu quả? Viết một bài để cho người còn sống đọc lên. Những người sống ở xa trung tâm bão lụt, đủ tiền mua báo hoặc đủ thời giờ mượn báo của người láng giềng mà đọc qua loa. Trời lạnh lắm. Chưa chắc thiên hạ đọc báo. Tôi tìm một đề tài về bão lụt. Thứ lụt thường niên ở Hậu Giang, vùng làm lúa xạ, tôi đã thấy rồi. Nó khác hẳn với nạn lụt ở miền Trung. Đài khí tượng cho biết: Bão có thể thổi qua Sài-gòn nhưng vào giờ chót, bão lại di chuyển ra miền Trung một lần nữa. Sài-gòn không bao giờ gặp bão to.

    Tôi bước lầm lũi, lần hồi đến một ngõ hẻm ở đường T. B. T. để gặp lão Tư Nê. Lão ở một quê xứ với tôi. Tôi nhớ rõ: vào những năm "thái bình thịnh vượng" hễ đến đâu lão cũng bàn tới bàn lui chuyện bão lụt năm Thìn, tại Gò Công. Lão khoe khoang:
    • - Tôi sống trong cảnh đó mà.

    Có người chất vấn:
    • - Năm Giáp Thìn, đời vua Thành Thái, lão mấy tuổi?

    Lão đáp:
    • - Mười lăm tuổi.
      - Bốn năm chục năm trôi qua, làm sao lão nhớ được chuyện hồi thuở mười lăm?
      - Sao không nhớ! Chuyện thiên tai, người ta nhớ đến già, đến chết, truyền tụng cho con cháu, đâu phải để quên hoặc nhớ lai rai như chuyện trai gái, chuyện thua cờ bạc. Thảm thiết lắm.

    Hồi mấy năm xưa đó, lão phổ biến hai câu hát về bão lụt năm Thìn:
    - Gặp mặt em đây, mới biết em còn,
    Hồi năm Thìn bão lụt, anh khóc mòn con ngươi.

    và:
    - Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc,
    Gió nào độc bằng gió Gò Công...

    Lão nói tiếp:
    • - Hồi trước, người ta hát: "... Đèn Châu Đốc, Đất nào dốc bằng dốc cho Nam Vang. Một tiếng em than, hai hàng lụy nhỏ. Có một mẹ già, biết bỏ cho ai." Sau trận lụt Gò Công hồi năm Thìn, câu hát sửa lại rằng: "... Gió nào độc bằng gió Gò Công. Một trận Đông Phong, xiêu vợ lạc chồng. Em ngồi đây mà nhớ lại, nước mắt hồng tuôn rơi."

    Từ hồi tạm biệt với lão Tư Nê, tôi lên Sài-gòn, thỉnh thoảng lúc túng đề tài "Chuyện xưa tích cũ", tôi gợi lại hình ảnh bão lụt Gò Công gọi là để mua vui một vài trống canh cho thiên hạ. Tư Nê lên Sài-gòn, trễ hơn tôi; hơn bảy mươi tuổi rồi còn làm ăn gì được nữa. Lão sống nhờ sự "hiểu biết" của đứa con trai út chạy xich lô máy. Thời buổi loạn lạc, còn hy sinh nuôi cha, còn sống gần cha là điều hiếm có. Nhà lão khá đông, thêm năm bảy đứa cháu nội; đứa con trai út có sức xoay trở, giành giựt từng thanh củi quế, từng nắm gạo châu. Mưa gió bấc năm ngoái, lão Tư Nê trở bệnh ho lao ho tốn gì, tưởng đâu sẽ nằm yên giấc trên nghĩa địa Chí Hòa. Ai dè trời còn bắt lão sống, sống để mà thông cảm với nạn bão lụt Giáp Thìn, sáu mươi năm đáo lại. Lần Giáp Thìn này, chắc chắn là lần Giáp Thìn cuối cùng của đời lão. Tuy ở xa trận bão, lão hay tin rất sớm nhờ cái ra-dô Transistor, nhờ hình ảnh trên báo hàng ngày, hàng chục thứ báo. Thanh niên bây giờ mê "xi-nê-ma" như hồi thuở nọ, lứa thanh niên mười lăm tuổi của lão mê hát bội. Máy bay bay rền trời, ngày như đêm, nhiều hơn tiếng sáo diều. Và chung quanh lão, xe hơi nhiều hơn trâu bò ở xóm nhỏ, thuộc tỉnh Gò Công thời xa lơ xa lắc.




    * * *
    • - Cháu muốn hỏi thêm về bão lụt Gò Công để đăng báo hả? Xưa lắm rồi. Đúng sáu mươi cuốn lịch trên nóc nhà.

    Tôi hỏi:
    • - Thưa bác có phải là mấy cuốn lịch Tàu mỗi quyển xem trọn năm, trong đó nào là tử vi, ngày tốt tháng xấu...
      - Âm lịch... nói bậy bạ vậy mà đúng. Bây giờ, thứ lịch đó còn bán lai rai ở Chợ-lớn, ghi rõ thời tiết từng ngày, phương hướng xuất hành... Mỗi năm, mình mua một cuốn, xem xong thì treo nó lên nóc nhà. Đúng sáu mươi năm, tức là sáu mươi cuốn, nếu mình treo đúng thứ tự. Giáp Thìn và Ất Tỵ, Bính Ngọ... thì cứ sao y bổn cũ mà xài, khỏi cần mua thêm cuốn nào khác. Hồi đó, bác để dành đâu được bốn chục cuốn rồi chạy giặc liên miên.
      - Bây giờ, người ta xài thứ lịch khác...

    Tôi nói lẩm bẩm như vậy. Trên nóc nhà lão Tư Nê, có đến hai tấm lịch gỡ từng ngày nhưng dường như mấy ngày rày con cháu của lão quên gỡ. Tấm lịch này, ba mươi tháng mười. Tấm kia, ba mươi tháng mười một, có lẽ vì con nít xé quá nhiều. Lại còn tấm lịch xài mãn năm, dán trên vách, sắp tróc vì keo rã hồ tan khi mưa bay gió tạt. Tặng phẩm bất ngờ của nhật báo nào đó, phục vụ bạn đọc. Thanh Nga, Thanh Thúy gì đó cười mơ hồ bên cạnh núi Phú Sĩ Sơn và đảo Hạ Uy Di. Suốt năm cười mãi.

    Lão Tư Nê vụt đứng dậy, chạy ra cửa, quát to:
    • - Hai, Ba, Hùng... vô đây. Kiếm cái áo khác bận vô. Sổ mũi đó.

    Rồi lão day lại phía tôi:
    • - Mấy đứa cháu nội. Nó liến khỉ, chịu không nổi.

    Tôi tìm cách gợi lại chuyện bão lụt Năm Thìn.
    • - Thưa bác...
      - À! Để tôi nói tiếp. Bây giờ khác rồi.
      - Thưa bác, nhưng người ta chết ngộp, mất xác như hồi xưa. Nhờ bác nói lại vài chi tiết... để viết lên báo. Chẳng lẽ cháu ra tận ngoài miền Trung.
      - Thì năm đó, cuối tháng Tư chớ không phải tháng Mười. Đầu mùa mưa, ai cũng tưởng là không có sao. Dè đâu, gió trở ngọn thổi mạnh, từ 10 giờ sáng đến 10 giờ đêm. Nước dâng lên. Người ta hơi lo nhưng an ủi: "Bất quá thì nó ngập tới bộ ván. Mình lên bộ ván mà ngồi". Lát sau, người ta nói: "Bất quá thì nước ngập... tới mái nhà". Trễ quá rồi. Trời tối đen như mực, vào giờ ngọ, ngửa bàn tay cung không thấy. Sóng đánh ầm ầm, bể vách nhà, vách bằng lá. Thôi thì chỉ còn cách lên xuồng ghe mà tản cư, kiếm mấy chỗ có giồng đất cao. Ghe chìm thì chết. Nếu ghe không chìm thì mình tới một chòm tre ở xa xa. Nhà nơi đó bắt đầu ngập. Thiên hạ chạy loi ngoi ra ngoài. Gió thổi mạnh, mưa quá lạnh. Họ kiếm gốc cây to hoặc vách nhà ngói nào đó mà núp. Cây ngã, vách sập. Chỉ còn một cách trốn tránh sau cùng là nhảy xuống mương, theo kiểu xuống "tăng xê". Nằm dưới mương, ít gió, không bị cây đè. Nhiều người mang theo cái nồi, cái chảo bằng gang mà đội cho chắc chắn. Nhưng nước ngập ao, ngập mương... Con nít, đàn bà, ông già thì chết tự hồi nào rồi. Mấy người đau ốm thì khỏi cần nhắc tới. Nãy giờ, tôi nói tới bọn đàn ông trai tráng, vai u thịt bắp...
      - Thưa bác, họ lội hoặc tìm khúc cây, miếng ván mà nương tựa...

    Lão Tư Nê lắc đầu:
    • - Tay chân họ tê cóng rồi. Nãy giờ ngồi đây, xa trận bão hàng ngàn cây số, cháu thấy không? Bão đã tan, bão đã đi xa mà mình hãy còn lạnh huống gì ở tại chỗ. Thí dụ như bây giờ, cháu nhảy vô lu nước mà ngâm mình, chừng vài phút đồng hồ thôi. Bụng đói, người ta chịu lạnh dở lắm. Người ta van vái Trời Phật, ông bà đất nước. Nhưng giữa ban ngày, trời tối mù mịt. Người ta đâu phải là vật vô tri vô giác, kẻ tán tận lương tâm nhứt cũng nhớ tới vợ, tôi con, tới cha mẹ. Cha mẹ chết từ nãy giờ rồi. Họ mất tinh thần. Ngoài ra, đồng ruộng ngập nước. Trâu bò là giống vật mạnh mẽ, lội giỏi nhưng không thấy con nào nổi trên mặt nước. Tụi nó chìm hết rồi. Chỉ còn vài người cuối cùng, trên biển, thứ biển đầy sóng gió, lạnh như nước đá, thứ nước đá màu đen. Họ chưa lội, chưa quơ tay quơ chân là đã chết chìm rơi xuống đáy nước như cái thây ma. Chẳng một ai nghe tiếng than khóc của ai. Lạnh tê môi, làm sao khóc ra tiếng? Vài người còn sống sót, nhờ họ cỡi trâu lúc trận bão vừa mới tới. Trâu chạy rồi trâu lội qua phía Mỹ Tho. Còn những người sống sót khác... họ có phước vì hôm đó không có mặt tại vùng biển Gò Công. Họ đi thăm bà con từ hôm trước. Lại có nhiều người từ xứ khác tới Gò Công để... lãnh đủ, một thuyền một hội.. Giáp Thìn mà! Tôi tin rằng lịch của ông bà để lại ít khi sai chạy...

    Tôi im lặng, chẳng biết hỏi lão Tư Nê điều gì nữa. Gió lại thổi, mưa rơi lắc rắc, không thêm không bớt. Mưa còn dai dẳng tới bao giờ? Lão nói to giọng, như muốn bước qua giai đoạn xã giao khác, đuổi khách:
    • - Hết rồi.
      - Thưa bác, sau trận lụt đó, thiên hạ làm sao mà sống?
      - Thì tạm vui mà sống. Năm đó, nhà nước Tây cai trị. Tây nghèo lắm. Từ Mỹ Tho, dường như chỉ có một chiếc tàu đò chạy qua Gò Công. Ở Mỹ Tho, thiên hạ cũng đói rách. Xuồng ghe đều bị quăng lên bờ. Nước rút lần hồi. Mùa màng sạch bách. Thôi thì móc củ co, câu cá, nấu canh bông súng mà ăn trừ cơm. Cá nhiều lắm. Nhiều thứ cá lạ, lội từng bầy. Nghe đâu mấy bầy cá đó từ Biển Hồ lội xuống. Đất bỏ hoang. Nhiều làng không còn một người, không còn một căn nhà. Ruộng đất vườn tược đều vắng chủ. Nhà nước Tây ra lịnh: "Ai muốn khẩn thì khẩn, ghi tên vô bộ mới, làm chủ, miễn là đóng thuế cho nhà nước". Nhưng ai thèm. Đau xót nhứt là mấy người còn sống. Họ phải sống để thấy cảnh bọn... bất lương. Họ vớt thây ma để lột vòng vàng bán ăn, khỏe thân hơn làm ruộng. Thời xưa, mấy người khá giả luôn luôn đeo vàng trong mình. Hết vòng vàng thì họ vác búa mà bủa mấy cái tủ kính, tủ cẩn trôi lều bều. Trong tủ đó, có thể còn quần áo thứ mắc tiền và tiền bạc. Nhưng trách ai bây giờ? Nhiều người lương thiện bỗng trở nên bất lương. Và nhiều người bất lương nhưng trở thành lương thiện, đâm ra tay cứu vớt... mấy xác chết đem chôn cất, suốt ngày đêm. Chôn người rồi lại chôn trâu bò. Trâu bò chết, sình hôi thúi nực nồng, quạ ăn không hết vì quạ chết trong cơn bão. Thôi! Chuyện xưa nói bao nhiêu đó cho cháu nghe, nhiều rồi. Thời nay, khác hơn. Xứ mình có giặc.




    * * *
    Tôi ra về cứ ngậm ngùi nghĩ mãi về lời nói của lão Tư Nê. Bão lụt ngày xưa và ngày nay có khác gì nhau không? Có khác chăng thì chỉ khác về chi tiết, chứ cảnh chết chóc thì cũng giống như nhau. Trời cứ mưa và cứ lạnh. Xe cộ qua lại ầm ầm. Những người ấm áp. Những người lạnh lẽo. Mỗi người một số phận. Thời nay, khác hơn. Hoài cổ là vô ích và lắm khi đưa chúng ta đến một nhận định sai sự thật. Thân xác con người cũng mới, với những đòi hỏi mới, những đau khổ mới - những đòi hỏi những đau khổ thật sự hoặc giả tạo "khôn sống bống chết, mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ". Cái phương châm xử thế ấy lại hiện ra trong tâm trí tôi. Nó dã man, vô nhân đạo nhưng lắm khi nó được... đề cao, trở thành một nguyên tắc của kẻ muốn thành công trên đường đời! Tôi tin rằng giờ phút này người Việt Nam đã "xét lại" phương châm "sang trọng, khôn ngoan ấy". Nhưng chẳng lẽ mọi người đều... treo cờ tang, ngồi nhà mà mặc niệm. Lại một hình thức dối lòng, dối mà không biết rằng mình dối. Khóc lóc, rên rỉ là vô ích. Làm sao khóc được khi tình cờ trong những ngày này, có người gặp chuyện may mắn lặt vặt. Cuộc sống là cuộc sống. Tân nhạc, cổ nhạc... cứ hát lên đi! Báo hàng tuần, báo hàng ngày, cứ cạnh tranh sanh tử với nhau đi! Ai thèm rượu thì cứ uống. Ai có mền ấm thì cứ đắp! Vấn đề không phải là khóc lóc mà là một sự tổ chức khoa học. Người đang uống rượu, người đang hát, người đang đắp mền, người đang thất nghiệp đều muốn giúp đồng bào. Chỉ cần tổ chức đừng câu nệ hình thức. Kẻ hoang phí đang muốn mua giấy số.

    Gió cứ thổi. Tôi về đến nhà. Viết xong chuyện bão lụt rồi. Viết qua chuyện ma, không bao giờ có. Viết qua chuyện tâm tình gỡ rối. Tâm tư bị xé ra muôn mảnh. Và bài này có đủ năng lực hấp dẫn ai không? Tôi hy vọng nó chỉ là nén hương ngắn ngủi, đốt quá muộn, không an ủi được kẻ chết nhưng họa chăng nó nhắc nhở cho một đời người còn sống lưỡng lự khô khan... chờ đợi. Một đôi người không phải ở miền Trung, nhưng đương sống ích kỷ tại Sài-gòn. Như tôi chẳng hạn.




    SƠN NAM

    https://www.vinhthong.com/2019/09/nho-n ... n-nam.html
Hình đại diện
nắng thủy tinh
Bài viết: 3587
Ngày tham gia: Thứ sáu 15/05/15 06:14

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi nắng thủy tinh »

Cám ơn anh Hoàng Vân, anh Ngọc Hân :cafe: :cafe: :) . Mới đây mà 8 năm rồi, nghe lại cũng còn rất mới :D (y như anh Ngọc Hân nói hihi)

Cho N ghi danh bài CÂU CHÚC ĐẦU XUÂN - Vọng Kim Lang nhen anh Hoàng Vân (đơn ca). :cafe: :). Bài này hơn 5 phút mà chúc từ đầu tới cuối luôn :rotfl:
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »




Nắng thâu xong cứ bỏ vô đây. Anh hoan nghinh mọi đóng góp ... :flwrhrts: :flwrhrts: :dancing3: ..



Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           





    Thơ Xuân
    ________________________






              
    Ba mươi tết, tết lại ba mươi
    Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách
    Một tay cô cầm cái dù rách
    Một tay cô xách cái chăn bông
    Cô ra bờ sông
    Cô trông ra nước người
    Ới chú Chệt ơi là chú Chệt ơi!
    Một tay cô cầm quan tiền
    Một tay cô cầm thằng bù nhìn
    Cô ném xuống sông
    Quan tiền nặng, quan tiền chìm
    Bù nhìn nhẹ, bù nhìn nổi
    Ới ai ơi của nặng hơn người!

              
    Sáng ba mươi tết ra xe đi làm mà bài thơ thuộc lòng từ hồi còn lê đũng quần ở trường tiểu học bỗng nhiên trở lại trong đầu. ba mươi tết bao giờ cũng có cái bùi ngùi của ngày năm cùng tháng tận. Một chút tiếc nuối. Một chút xót xa. Ba mươi tết đốt vàng hương vọng về phương Bắc cúng ông chồng khác nòi giống thấy mà thảm thương. Nhưng ba mươi tết lang thang nơi xứ người vọng tưởng về quê hương còn thảm thương hơn nữa. Cái đầu nặng chĩu. cái bụng xót xa. Cái lòng nhừ nát. Đúng ngọ, tiếng chuông báo giờ nghỉ ăn cơm trưa là lúc giao mùa ở quê hương. Giao thừa tới như một vết bầm tím đớn đau. Nỗi tha hương giờ này mới thấm thía ruột gan. Chừng nào xô được mấy tên bù nhìn đang múa may quay cuồngở quê nhà xuống sông để mọi người có thể trở về hưởng một giao thừa giữa mái ấm gia đình trên đất tổ thân yêu?

    Sáng thứ bẩy, mồng một tết, mở cửa xuất hành đã thấy xuân nằm trước cửa. Không hiểu nhà thơ Luân Hoán tới cửa nhà đề thơ xuân vào lúc nào. Bài thơ được dán chênh vênh trên vuông cửa xanh. Thơ rằng:
    Chúa xuân đang thở khò khè
    Nên đành phải đứng đầu hè tặng thơ.

              
    Bèn phôn hỏi sự tình. Đầu dây bên kia có tiếng cười hề hề. Năm giờ sáng mồng một tết, cả nhà còn ngủ, nhà thơ pha trà ngồi thưởng xuân một mình. Bên ngoài từng cụm tuyết lớn như những cánh hoa mai rơi ngổn ngang trắng xóa cả bàu trời. Thi sĩ tính lấy giấy khai bút đầu năm nhưng cảnh đẹp kéo nhà thơ ra khỏi nhà xuất hành khai bút giữa trời. Cứ nhà bạn bè trực chỉ lái xe tới. Vừa lái xe trên những con lộ vắng người sáng thứ bảy vừa làm thơ. Thú vị vô cùng. Chỉ có trời đất và ta. Xuân trong lòng thấm vào những vần thơ. Thơ đượm tình bè bạn. Tới từng địa chỉ thân quen, chép thơ lên giấy, dán vào cửa rồi lẳng lặng ra đi. Một mình chịu rét mướt mang cả mùa xuân ấm áp tới cho bạn bè. Thơ nằm trên cửa nhà Lưu Nguyễn, Hồ Đình Nghiêm, Lê Quang Xuân, Nguyễn Đông Ngạc, Song Thao. Tới nhà Phạm Nhuận loanh quanh tìm không có chỗ đậu xe đành tiếp tục ra đi. Định tới nhà Hoàng Xuân Sơn, Trang Châu, Đỗ Quí Toàn, Lê Tấn Lộc... nhưng bị nhiễm lạnh nên phải lái xe về. Xuân trong lòng chẳng át được đông ngoài trời khiến thơ xuân đành cam dang dở. những câu thơ tặng bạn bè Luân Hoán cũng chẳng còn nhớ. Muốn ghi lại đây những vần thơ trên cửa tôi phải điện thoại hỏi từng người được tặng thơ. Thơ trên cửa nhà:
              
    - Nguyễn Đông Ngạc & Nguyên Ngọc:
    Chúa xuân đến thưởng giọng ca
    Gõ vào cửa, ngại bạn già hưởng xuân


    - Lưu Nguyễn:
    Không ra đón chúa xuân vào
    Phạt bạn uống cốc rượu đào phần ta


    - Lê Quang Xuân:
    Chúa xuân mang nặng thơ xuân
    Bạn bận soạn máy chụp lưng mắt đời


    - Hồ Đình Nghiêm:
    Chúa xuân đến trước cửa nhà
    Làm tình kỹ quá không ra rước vào

              
    Thơ xuân Luân Hoán dắt tôi trở về nét xuân một tuần trước đó trong Hội Tết của Cộng Đồng Người Việt ở Montreal.ên lầu hai của Hội Tết, báo Tết của sinh viên nằm la liệt trên một chiếc bàn dài. Dễ thường có tới gần chục tờ.. Ngoài báo của Liên Hội Sinh Viên Vùng Montreal còn có báo của sinh viên Việt Nam của hầu hết các trường Đại Học ở Montreal. Đã mười tám năm ly hương mà giới trẻ còn hăng say viết báo tiếng Việt thì quả thật là một điều đáng mừng. Gần chục tờ báo nằm bên nhau trông thật mát mắt. Báo không chỉ nằm trên bàn mà còn được các sinh viên nam nữ ôm bên mình len lỏi khắp khuôn viên Hội Tết mời đồng bào mua báo. Giá báo năm đồng một số ngang ngửa với giá tiền của các báo xuân chuyên nghiệp. Vậy mà người người đều vui vẻ móc hầu bao mua báo với nụ cười khuyến khích. Xuân thật xuân!

    Tuổi xuân, tuổi xanh, tuổi xuân xanh. Có ranh giới nào qui định những loại tuổi không tính bằng con số này không? Tám tuổi thì chắc chưa được là tuổi xuân, chưa hẳn là tuổi xuân xanh, nhưng chắc là tuổi xanh, cái tuổi có nhiều điều ngộ nghĩnh. Tôi vừa đọc được một bài báo viết bằng tiếng Pháp khá duyên dáng. bái báo viết về người bà dưới cặp mắt của các em bé tám tuổi. Tôi nhặt được trong bài báo những câu bất ngờ như sau:
    • - Bà là một người không có con. Vì vậy bà phải yêu thương con của người khác.
      - Bà không làm gì cả. Bà chỉ hiện diện thôi.
      - Bà không yếu đuối như bà thường than thở đâu tuy rằng các bà thường hay chết hơn chúng ta.
      - Thường thường thì các bà mập mạp nhưng không quá mập đến nỗi không có thể cột dây giầy cho chúng ta.
      - Bà mang kính lão và thỉnh thoảng còn có thể lấy được cả hàm răng ra khỏi miệng.
      - Bà biết giả bộ điếc đúng lúc để không làm cho chúng ta mắc cở khi chúng ta nói điều gì vụng về.
      - Bà luôn luôn biết là chúng ta muốn ăn thêm một miếng bánh nữa và lúc nào cũng cho chúng ta miếng bánh lớn nhất.
      - Khi kể chuyện cho chúng ta nghe bà không bao giờ bỏ sót một chi tiết nào cả và nếu chúng ta đòi bà kể đi kể lại nhiều lần một chuyện bà chẳng bao giờ từ chối cả.
      - Tất cả mọi người đều nên thử có một người bà, nhất là những người không có ti vi trong nhà.


    Đó là hình ảnh ngộ nghĩnh của những người bà Pháp dưới những đôi mắt nai của các em bé Pháp. Còn hình ảnh người bà Việt Nam “ di tản” ra sao?

    Cũng tại Hội Tết tôi bắt gặp hai bà cháu dắt nhau đi ăn quà vặt trong khu bán đồ ăn. Bà mặc chiếc áo dài thêu thật nhã, cháu mặc áo dài gấm đỏ điểm những bông mai vàng. Cô cháu chừng bảy, tám tuổi líu lo nói chuyện bằng tiếng Việt thật rành rẽ, giọng dẻo quẹo dễ thương. Cô bé lanh chanh chạy trước, cụ bà hối hả theo sau như sợ lạc mất đứa cháu cưng. Thỉnh thoảng bà lại cầm tay cháu kéo lại, khẽ mắng yêu rồi lại vội vàng nhoài mình theo cái kéo tay của cô bé đang nhậm lẹ len lỏi giữa đám đông. Và bà chỉ được dừng chân khi cô cháu đã có ly chè trên tay. Hai bà cháu lại tiếp tục chen lấn khi ly chè đã chui hết vào bụng cô bé, và mất hút trong rừng người.

    Tôi không có dịp nắm áo cô bé dễ thương lại hỏi xem cô nghĩ về bà như thế nào. Nhưng hình ảnh hai bà cháu trước mắt tôi đã nói được nhiều điều. Cuộc sống tất bật ở bên đây đã lấy hầu hết thời gian của cả cha lẫn mẹ. Con cái đành phải thả cho nhà trẻ, trường học. Nhưng nếu trong gia đình có một người bà thì sự thể sẽ lại khác lắm. Bà luôn luôn ở bên cạnh các cháu, dạy cháu nói tiếng Việt, giữ gìn lễ phép theo khuôn thước Việt Nam, ôm ấp cháu trong tình cảm Việt Nam, nhắc nhở tới phong tục, tập quán Việt Nam, kể cho các cháu nghe cuộc sống ở quê nhà, nấu nướng cho các cháu những món ăn nồng đượm hương vị quê hương... Người bà chính là quê hương theo gót các em trên bước đường lưu lạc.




    Từ quê hương, thư xuân của một người bạn văn còn ở lại đến tay tôi vào một chiều đông tuyết rơi tráng xóa ngoài trời. Trong thư anh cho biết là ở Việt Nam các báo đều trả nhuận bút cho thơ. Khoảng năm chục ngàn đồng mỗi bài. Nếu là thơ dài thì từ một trăm đến một trăm năm chục ngàn đồng một bài, ngang tiền nhuận bút của một truyện ngắn. Đây quả là một chuyện lạ. Tôi nhớ trước kia báo chí miền Nam không có lệ trả nhuận bút cho thơ. Ở hải ngoại bây giờ cũng vậy, trừ một biệt lệ là thơ của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Các nhà thơ của chúng ta thường chỉ nhận được một số báo biếu nếu có thơ được đăng.

    Cái đầu tôi có cái tật cơ khổ là cứ hay thắc mắc lôi thôi. Chẳng lẽ mấy anh Cộng Sản lại “ đánh giá “ thơ cao hơn chúng ta hay sao? Chắc phải có lý do gì chứ? Vắt tay lên trán một hồi tôi mới “ngộ” được một điều khá lý thú. Khi tôi còn ở Việt Nam, trong trại tù cũng như ngoài xã hội, tháng tháng nhà nước thường bán cho ít đồ tiêu thụ vặt vãnh gọi là nhu yếu phẩm. Lúc đầu còn vét trong kho cũ của “ngụy” nên số` lượng hàng bán ra còn kha khá. càng ngày nhu yếu phẩm càng teo lại đến thảm hại. Nhưng có một thứ lúc nào cũng có mặt là thuốc lá. Hút hay không hút, nhà nước không cần biết, cứ bình quân phân phối hết, Người người ôm thuốc lá, nhà nhà ôm thuốc lá. Khó khăn tới đâu nhà nước cũng lo cho dân có thuốc lá hút dù chỉ là thứ thuốc lá khét lẹt, hôi rình, phải mồi lửa mỏi tay mới hút hết điếu thuốc. Tại sao như vậy? Khói thuốc lá có làm đầy được cái bao tử lép kẹp đâu? Mấy tên bạn cùng ở tù với tôi nghĩ tới rụng râu mới phát hiện ra chân lý. Tại vì “bác” nghiện thuốc lá hạng nặng. “Bác” đã hút thuốc lá thì cả nước được hút theo.

    “Bác” cũng khoái làm thơ dù chỉ là thứ thơ khẩu hiệu, thơ vè và thơ... thuổng của người khác. Thế là sinh ra cái mốt làm thơ theo “bác”. “Bác” Tôn mỗi dịp xuân về ghép đôi ba khẩu hiệu thành mấy câu vè lễ mễ ôm lên ti vi run rẩy đọc cho cả nước nghe. Các “đồng chí” Trường Chinh, Lê Duẩn, Xuân Thủy, Lê Đức Thọ... thành “thi sĩ” tuốt luốt hết. Mấy chú tép riu nhà báo sức nào mà chẳng hồ hởi quý trọng thơ, cụ thể là trả tiền nhuận bút đàng hoàng. Cái gì lãnh tụ đã sờ tới thì cái đó đã được “thánh hóa”. Siêu việt là ở chỗ đó!

    Nếu cứ theo cung cách này thì dưới “triều đại” Clinton, toàn dân Mỹ chắc phải đua nhau thổi kèn saxophone hết!




    Song Thao
    Nắng Mới, Montréal, số 18, tháng 3 năm 1993


    http://www.songthao.com/phiem-chu/phiem-thoxuan.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

  •           







    Phong tục Tết
    của người dân Nam Bộ xưa

    ____________________
    Kha Tiệm Ly






    Nguyên Đán là ngày Tết truyền thống thiêng liêng và trọng đại của dân tộc; vì thế để đón chào một năm mới, người dân khắp nơi đều chuẩn bị chu đáo. Ở mỗi miền đều có tập quán riêng, tuy nhiên xét về tổng thể thì không khác nhau mấy. Trong bài nầy chúng tôi chỉ nói về phong tục “ăn Tết” của người dân Nam Bộ ngày xưa.

    Từ đầu tháng chạp, cũng là lúc gặt hái xong, nhà nhà đều nao nức chuẩn bị đón mừng năm mới, mà tiếng quết bánh phồng rộn rã là âm thanh báo hiệu đầu tiên; tiếp theo đó là chuối sứ ép phơi khô. Trước kia ở nông thôn bánh mứt từ tỉnh thành về rất hiếm hoi, vả lại người dân thời ấy cũng rất rảnh rang sau vụ lúa (mỗi năm chỉ có một mùa lúa 6 tháng) nên dư thì giờ chuẩn bị đãi khách bằng cây nhà lá vườn; môt mặt là tiết kiêm, một mặt là để các chị khoe tài gia chánh của mình: Bánh phồng nướng và mứt chuối là hai “đặc sản” không thể thiếu của mọi nhà thời ấy. Phần các anh thì nhà cửa cũng bắt đầu dọn dẹp ngăn nắp, sơn phết từ từ; nếu có cây mai trước cửa thì phải lặt sạch lá, và canh làm sao cho đến mồng một thì hoa phải nở rộ. Đến sáng ngày hăm ba đến hăm lăm âm lịch thì tất cả phải tươm tất, nhất là bàn thờ tổ tiên phải coi rôm rả, đẹp mắt với bộ lư đồng được chùi sáng loáng, mâm ngũ quả phải đầy ắp, lọ hoa tươi rói và không thể thiếu một nhành mai.

    Cũng từ hai mươi đến hăm lăm tháng chạp (ít khi trễ hơn), mọi người đi tảo mộ ông bà. Những gia đình có đất rộng thì ông bà được nằm ở một nơi nào đó ngay trong mảnh vườn hay thửa ruộng của mình; còn những người ít đất thì ông bà được nằm ở chòm mả chung (không gọi là nghĩa địa). Cũng nên nói thêm, trước khi quét mộ, mọi người đều phải đem nhang đèn, giấy tiền vàng bạc, trà hay chút rượu thịt đặt trước mộ mà khấn vái để xin phép, vì vô duyên vô cớ mà “động mồ động mả” là điều tối kỵ. Quét mộ xong, người ta phải dằn trên mộ một ít giấy tiền vàng bạc; đây là dấu hiệu để báo với tốp người “chạp mả” biết là mộ nầy đã được quét rồi, (Thực tế mả chưa quét và quét rồi rất dễ dàng phân biệt, nhưng việc làm nầy là do thói quen). “Chạp mả” theo nghĩa được giải thích của bà con là “quét mả từ thiện vào tháng chạp”. Trong những ngày nầy, vì nhiều lý do mà có những mấm mộ không được người nhà chăm sóc (có mả bị bỏ hoang từ năm nầy qua năm khác), thì những thanh niên trong làng, sẵn cuốc xẻng đó, họ … “chạp mả” luôn! Dù là nghĩa cử từ thiện, nhưng trước khi “chạp mả”, họ cũng không quên thắp vài nén hương cung kính khấn vái người quá cố. Đây là một việc làm rất đáng trân trọng và vẫn còn cho tới ngày nay.

    Ngày hăm ba là ngày đưa ông Táo và chư thiên về trời, cũng là ngày đánh dấu Tết đã cận kề. Lễ vật không thể thiếu để đưa ông Táo là chè, tốt nhất là chè trôi nước (sau nầy là thèo lèo, bánh in) Theo bà con giải thích thì ông Táo thích ăn ngọt, hơn nữa là để lúc tâu lên Ngọc Hoàng Thượng Đế, ông luôn nhớ mà nói tốt cho chủ nhà vì vị ngọt còn thừa lại ở lưỡi môi nhắc nhở; có người còn cẩn thận trét chút nước đường ở miệng ông Táo trong bộ hình nhân “ cò bay ngựa chạy” (!). Chè trôi nước cũng không ngoài mục đích mong muốn mọi việc ông Táo tâu rỗi đều trôi chảy như dòng nước (!). Sau ngày đưa ông Táo, bàn thờ ông Táo và “ông Thiên” không được thắp nhang, vì không muốn cho quý ngài bận bịu nhớ về hạ giới trong lúc ở thiên đình!

    Chiều hăm chín Tết là mọi việc chuẩn bị phải hoàn tất để sáng hôm sau làm lễ rước ông bà. Nhìn bàn thờ tổ tiên, người ta có thể đánh giá được thành bại của gia chủ trong năm qua. Nhưng dù thế nào, trên bàn thờ cũng phải có dĩa trái cây ngũ quả; hồi trước ngũ quả là cam, quýt, bưởi, dừa, xoài với ý nghĩa tượng trưng sự sung mãn tròn đầy theo hình dáng chúng. Sau nầy vì kiêng cử âm gọi , nên bà con bỏ cam (cam phận nghèo), quýt (húyt háy), bưởi (bưởi bồng) nên có đổi khác hơn; là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, tượng trưng theo tên phát âm Nam Bộ của nó : “cầu vừa đủ xài sung”. Có người thay trái sung bằng trái thơm: thơm tho; trái bắp: đều đặn và … “chắc ăn như bắp”. Một cặp “dưa nhứt”, tức dưa hấu loại to nhứt được dán giấy hồng đơn nằm trang trọng hai bên (bàn thờ) tượng trưng cho sự no đầy và nhành mai ở bình hoa tượng trưng cho sự may mắn, dường như nhà nào cũng có.

    Sáng ba mươi là lễ rước ông bà đồng thời rước ông Táo và chư thiên về ăn Tết với gia đình. Mọi nơi thờ phụng như Ông Táo, Long thần Thổ Địa, Thần Tài, Ông Thiên, Phật, thì đơn sơ với bánh tét, hoa quả, nhưng khói hương nghi ngút. Riêng hai mâm cơm dành cho cửu huyền thất tổ và đất đai thì thịnh soạn hơn tùy theo khả năng của gia chủ, nhưng không thể thiếu tô cơm, bánh tét tượng trưng cho sự no đủ, mùa màng đắc lợi; dưa hấu tượng trưng cho sự viên mãn, may mắn; bánh phồng tượng trưng cho sự phát triển dồi dào (“phồng” ra); và chủ yếu vẫn là thịt kho tàu, tượng trưng cho sự vuông tròn (vuông của thịt, tròn của trứng). Mâm cửu huyền được dọn sáu chén, sáu đôi đũa; bàn đất đai thì năm. Mọi nhà cũng không quên dành một mâm đặt ở ngoài sân để dành cho những kẻ xiêu mồ lạc mả, vị quốc vong thân, hay những tiền nhân khai sơn phá thạch. Đặc biệt mâm nầy phải có chén muối, chén gạo; cúng xong thì đem rải bốn phương. Cùng lúc, giấy hồng đơn (cắt từng miếng vuông nhỏ đều nhau) được dán ở cột nhà, cửa tủ, cửa ngõ và cây trái quanh vườn để cho mọi việc sang năm đều thuận lợi.

    Cuối cùng thì ông bà, cha mẹ dặn dò con cháu những điều cần thiết và những kiêng kỵ vào những ngày đầu xuân như tiền bạc và quần áo phải lấy sẵn ra ngoài, vì mồng một mà mở tủ lấy tiền là điều “không nên” (suốt năm tiền cứ ra mà không vô); con cháu không được gây gỗ (năm mới sẽ gây gỗ hoài); với ly tách, chén đũa, nhất là gương soi mặt, cầm nắm cũng phải cẩn thận, không được vuột tay đổ bể (vì chuyện làm ăn sang năm sẽ bị đổ vỡ), trẻ em không được làm gì phạm lỗi để bị đánh đòn (suốt năm bị đánh đòn liên tục). Dù vậy, nhưng nếu lỡ có em nào quậy phá, thì bậc trưởng thượng cũng xí xóa bỏ qua cho những ngày đầu năm được suôn sẻ.

    Chiều ba mươi còn có tục “Tết Giếng”: Gia chủ bày một mâm lễ vật gồm bánh tét, trái cây, trầu cau, hoa quả, nhang đèn ngay bên giếng, van vái tạ ơn … ông bà Giếng đã cho nguồn sống. Sau đó họ múc nước cho đầy vào tất cả dụng cụ chứa nước trong nhà đến tràn trề, rồi dán vào thành giếng một mảnh giấy hồng đơn; điều nầy mang ý nghĩa là “không được mở nắp giếng trước ngày mùng ba để ông bà Giếng nghỉ ngơi”: Trong ba ngày Tết mà “khai giếng” là điều đại kỵ. Song song vào đó, ở trong nhà lu gạo, hũ đường, hũ muối, hành tỏi, đều phải đầy ăm ắp để cho sang năm cái ăn cái ở luôn được no đầy. Tục nầy nhiều nhà vẫn còn duy trì đến tận giờ.

    Cũng trong chiều ngày nầy, cây nêu được dựng lên trước cửa: đó là một cây tre được tiện hết nhánh chỉ chừa một ít ở trên. Trên đầu cây tre người ta thường treo một khánh đất, một giỏ trầu cau, một bầu rượu, một bó lá dứa hay một nhành đa, một lá bùa bát quái để xua đuổi tà ma; những vật vừa nêu có thể thiếu một vài món, nhưng mảnh vải vàng tượng trưng cho áo cà sa của Phật thì không thể không có (nhiều nơi treo mảnh vải đỏ e không đúng lắm). Dựng (thượng) nêu , theo truyền thuyết là để trừ yêu quái trong mấy ngày Tết, đến mùng năm hay mùng bảy thì hạ nêu. Trong dân gian có câu:“Cu kêu ba tiếng cu kêu / Mong cho đến Tết dựng nêu ăn chè”. Có người thượng nêu vào chiều hai mươi ba, viện lẽ ngày đó ông Táo chầu trời, nên ma quỷ thừa cơ lẻn vào nhà; điều nầy sai với truyền thuyết: Khi yêu quái thua trí Phật, chúng phải chạy về biển đông, và Phật cho phép chúng chỉ được về thăm tổ tiên vào ba ngày Tết mà thôi. Trên thực tế, phần đông đồng bào cũng thượng nêu vào chiều ba mươi.

    Tục dựng nêu là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, tiếc thay ngày nay còn tồn tại rất ít ở các vùng quê

    Đến mười hai giờ khuya gọi là “giao thừa”, tức thời điểm từ năm cũ chuyển sang năm mới. Đây là thời điểm trọng đại; mỗi nhà đều có sẵn một mâm bánh trái, hoa quả, nhang đèn dọn trước sân để tống cựu nghinh tân gọi là “cúng giao thừa”.

    Mùng một Tết dù có thức dậy sớm để chuẩn bị cơm canh cúng ông bà nhưng không ai mở cửa trước mặt trời mọc vì sợ ma quỷ lẻn vào nhà. Buổi cúng cơm sáng đầu năm xong thì cả gia đình quây quần ăn uống vui vẻ. Xong xuôi, trẻ con mặc đồ mới “mừng tuổi” ông bà, cha mẹ; em nào cũng vẻ mặt hân hoan khi được trao bao lì xì! Mùng hai, mùng ba ngày ba bữa cũng “dâng cơm” cho tổ tiên y như ngày mồng một vậy. Chiều mùng hai thì mấy chị gói bánh tét để chuẩn bị ngày mùng ba “tiễn (đưa) ông bà”.

    Sáng mùng ba nhà nhà đều “cúng gà ra mắt”. Hỏi “ra mắt” ai thì hầu hết bà con đều … cười trừ, nói “ông bà dạy sao thì mình nghe vậy”. Sau nầy có người giải thích là “ra mắt” ngài Việt Vương Hành Khiển, nhưng lại không dựa vào một căn cứ nào! Đặc biệt gà cúng mùng ba là gà giò; nhưng không phải do ngài Việt Vương Hành Khiển nào đó thích gà giò mà vì qua mấy ngày Tết mọi người đều không còn tha thiết với mọi loại thịt nữa!

    Chiều mùng ba cũng là ngày đưa ông bà. Lễ vật gồm cơm canh như những ngày trước; đặc biệt là những đòn bánh tét to đùng gói ngày hôm qua (có thành ngữ là “bánh tét mùng ba”), để ông bà mang theo cho được no đủ trong suốt cuộc hành trình vạn dặm nước sông (thời khai hoang ông bà đi bằng ghe xuồng)

    Sáng mùng bốn là lễ khai Giếng: Lễ vật y như chiều ba mươi, chủ nhà khấn vái xin ông bà giếng phù hộ cho cả nhà đủ nước sinh hoạt suốt năm và bình an khỏe mạnh; xong, miếng giấy hồng đơn bên thành giếng được gỡ ra, cho phép mọi người múc nước bình thường.

    Tết Nguyên Đán là một phong tục thiêng liêng đầy màu sắc văn hóa của dân tộc. Mấy ai đã từng xa quê mà ngày Tết không về nhà được mới thấy thấm thía nỗi buồn nhớ quê hương, nhớ cha mẹ, họ hàng . Ngày nay, tuy những tục lệ trong những ngày Tết có đơn giản đi nhiều, nhưng nhìn chung những nét cơ bản thì vẫn còn tồn tại, và chúng tôi chắc rằng nó mãi mãi tồn tại theo thời gian.




    Kha Tiệm Ly

    http://haibogiay.net/index.php?nv=thova ... Bo-Xua-998
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20273
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Re: Xuân .. Xuân .. Xuân .. Giáp Thìn ...

Bài viết bởi Hoàng Vân »

          
... mượn Xuân Ca của
MiMi - Nắng Thủy Tinh - Vịnh Nghi
:flwrhrts:

          





Xuân Ca
Phạm Duy
MiMi . Nắng Thủy Tinh . Vịnh Nghi


:flower:

          
Trả lời

Quay về “Chuyên đề”