- 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ngày Cuối Tháng Tư

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Ngày Cuối Tháng Tư
    Thứ Sáu, 04/19/2024 - 10:22 — tuongnangtien


    Bây giờ là cuối tháng Tư. Một tháng tư ở Việt Nam (thường) là một ngày mưa. Một buổi chiều mưa, trời chuyển âm u thấp xám. Thời gian và không gian như ngưng đọng lại trong giây phút chuyển mùa. Rồi sấm chớp và kế tiếp là những giọt mưa nặng hạt, ào ạt, xối xả, phủ kín vạn vật.

    Mưa gội sạch cây lá, tưới mát những bãi cỏ úa vàng, thấm ướt đất khô cằn cỗi. Nước mưa, nguồn sinh lực kỳ diệu đã làm vạn vật hồi sinh sau những ngày nắng cháy .

    Rồi mưa tạnh, trời quang. Mặt trời lại hiện ra từ một nơi nào đó, rọi những tia vàng ấm khắp nơi. Đất bốc hơi thơm nồng ngai ngái. Cây cỏ sạch tươi dịu mát. Chim chóc ca hát trong trẻo líu lo…

    Những buổi chiều mưa não nề diễm tuyệt như vậy rồi cũng mất hút trong đời.

    Có những buổi chiều mưa đầu mùa bao nhiêu kẻ bỗng dưng bị bỏ rơi rồi rã ngũ. Hốt hoảng, căm hận, sợ hãi, người ta chạy tán loạn về thành phố. Những thành phố quê hương yêu dấu thoáng chốc mà ngùn ngụt khói lửa. Súng nổ râm ran ở khắp nơi. Dân chúng bồng bế dắt díu nhau để chạy.

    Chạy đi đâu nữa? Có còn nơi nào an toàn để chạy khi mà chính mình cũng đành buông súng với sự ray rứt, xót xa, đớn đau, hoang mang, sợ hãi.

    Rồi đến những buổi chiều mưa tháng Tư của những năm tháng kế tiếp. Có bao nhiêu kẻ nằm mê man chờ chết bởi những cơn sốt rét ở trại tù binh xa xôi, heo hút. Trong cái cảm giác rối loạn của một thần trí không còn tỉnh táo, người ta vẫn mơ hồ cảm nhận được cái tâm cảm não nề u uẩn vào những lúc chuyển trời u ám. Người ta vẫn cứ nghe tiếng sấm chớp ngang trời và vẫn cứ thầm mong đó là tiếng súng. Chao ôi ! Phải chi mà có những tiếng súng gầm thét vang trời vào những ngày tháng lao tù nghiệt ngã ấy thì dẫu có phải chết, chết ngay tức khắc, chắc chắn cũng có nhiều kẻ cam lòng.

    Nhưng người ta đã không chết dù phải chịu đựng hàng trăm thứ đòn thù thâm độc, dù đã trải qua bao nhiêu là cơn sốt thập tử nhất sinh. Con người còn sống được không phải chỉ nhờ vào cái kháng lực mong manh của cơ thể mà còn là nhờ vào cái ý chí khao khát được sống, cái ước mơ có ngày được trở lại thành phố quê hương của mình để nhìn cảnh khói lửa, để nghe súng đạn nổ ròn. Và lần này thì do chính tay họ siết cò…

    Cái giấc mơ đó chưa bao giờ đến. Nỗi ước vọng được nghe tiếng súng đại bác nổ vang giữa đêm tù cũng chưa hề xẩy ra trong suốt thời gian người ta bị giam cầm. Vậy mà bao kẻ vẫn cứ mãi trông chờ, ngóng đợi!

    Trong bao nhiêu đêm khuya, có người chợt thức giấc vì chợt nghe tiếng súng vọng lại từ một nơi xa xôi nào đó. Tiếng nổ mơ hồ, nhỏ bé phát ra từ một nòng súng cá nhân đến khi lọt vào thính giác của một tù binh bỗng bùng vỡ lên trong óc họ như tạc đạn.

    Tim người ta liền đập hụt đi mấy nhịp, rồi sau đó là những nhịp dồn dập, rộn ràng. Mạch máu da thịt của những người tù căng ra. Mắt người ta mở lớn, trợn trừng trong bóng đêm. Tai vểnh lên như tai của loài thú rừng khi đang rình rập. Họ nằm nín thở, nghe ngóng, chờ đợi đặt hết niềm tin hy vọng vài tiếng súng vừa phát ra. Họ chờ đợi một tiếng nổ kế tiếp, rồi một tiếng nổ kế tiếp nữa. Sau đó là hàng loạt những tiếng nổ xé gió vang trời thì càng tốt.

    Rồi họ tưởng tượng thêm, lẫn trong tiếng nổ đều đặn ấy là tiếng nổ ròn tan của những nòng súng cộng đồng. Chưa hết, bằng vào cái ảo giác của những kẻ đã bao năm trông chờ khao khát người ta như nhìn thấy được cả ánh hỏa châu soi sáng đêm tối bao la. Sau đó là bom đạn, phi pháo và nhà cửa, đồn bót cháy sáng một góc trời…

    Đã bao nhiêu kẻ ước ao, nếu có phải chết xin cho họ được chết trong bối cảnh khói lửa bom đạn ngất trời như vậy. Không ai có thể đành tâm chết mỏi mòn, khắc khoải giữa những vòng rào thép gai tù ngục. Hận thù không phải là một tình cảm tốt đẹp. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, rửa hận là một điều cần thiết và công bằng.

    Suốt những năm dài của đời sống tù binh khắc nghiệt bao người đã nhờ vào sự trông chờ hy vọng để giữ cho mình khỏi bị gục ngã. Niềm hy vọng thỉnh thoảng lóe lên khi họ chợt nghe được tiếng súng nổ; rồi tắt lịm dần trong những giây phút im lặng tàn nhẫn phũ phàng sau đó.

    Vậy mà người ta vẫn cứ không thôi trông chờ, mong đợi. Đợi mãi cho đến một lúc, lẫn trong cái tâm trạng mong chờ mòn mỏi người ta bắt gặp trong tâm hồn mình có thêm một thứ tình cảm buồn phiền oán hận.

    Người ta oán hận những kẻ đang sống ngoài vòng tù ngục. Chắc chắn họ có nhiều đồng ngũ đang sống lẩn quất bên ngoài, có nhiều đồng ngũ khác đang sống tự do ở những phương trời xa xăm nào đó. Rồi người ta cảm thấy chua chát khi biết mình đã bị bỏ quên cho chết dần mòn, khắc khoải trong vòng tay kẻ thù. Có phải rằng chính họ đã bặm môi, cắn chặt răng bắn đến viên đạn cuối cùng để cho cấp chỉ huy, để cho đồng đội có đủ thời gian “di tản!”.

    Và rồi người ta quyết định…. phải tìm cách đào thoát, không ít kẻ may mắn đã thoát thân.



    Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Tháng Tư ở một vùng đất thuộc miền ôn đới. Nơi đây bây giờ không phải là những ngày tháng bắt đầu cho mùa mưa. Ở đây bây giờ là mùa Xuân. Mùa xuân xứ người.

    Một buổi sáng mùa Xuân ở một nơi an bình và phú túc. Đường phố nhộn nhịp người đi. Những bộ quần áo ngắn, mỏng, lạ mắt và đẹp mắt. Những cặp đùi thon. Những cánh tay trần, hồng, trắng, nõn nà. Những bộ ngực căng đầy nhựa sống. Có kẻ lái xe đi giữa phố phường, hòa nhập với giòng người, giòng đời, vui lây với niềm vui của những người dân bản xứ bao quanh. Mùa Xuân đến với vạn vật với mọi người, kể cả người tị nạn.

    Bất chợt có một tiếng còi. Tiếng còi lanh lảnh ghê rợn xoáy vào thính giác. Người ta giật bắn người tắp ngay xe vào lề đường. Có một chiếc xe khác thắng gấp phía sau. Một khuôn mặt đỏ gay vì giận dữ quay lại nguýt nhìn, lầu bầu chửi rủa. Người ta không quan tâm đến điều đó. Người ta chỉ muốn ngoái người lại nhìn xem chuyện gì đã xẩy ra?

    Không có gì cả. Tiếng còi chỉ do một người vừa thổi để chận đứng giòng xe đang xuôi ngược cho những đứa bé được an toàn băng qua đường đến trường học. Thế thôi ! Thế là thở phào nhẹ nhỏm, rút khăn lau mồ hôi trán.

    Hoàn toàn chả có chuyện gì nghiêm trọng cả. Tiếng còi lanh lảnh ở đây không còn biểu tượng cho sự bắt bớ, khủng bố, giam cầm đầy ải nữa. Mọi người vẫn sinh hoạt bình thường. Ở đây mọi-chuyện-đều-luôn-luôn-rất-bình-thường.

    Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một buổi chiều Xuân. Trời xanh cao, mây trắng nõn, nắng hanh vàng. Có kẻ đứng trước sân nhà, mải mê nhìn những con bướm trắng tung tăng trên thảm cỏ xanh, những con ong bầu bĩnh lượn vòng quanh những khóm hoa… và chợt người ta nghe tiếng súng.

    Tiếng súng nổ gần. Người ta lại giật thót người. Ly rượu trên tay sóng sánh. Vài giọt tràn ra tay. Điếu thuốc đang hút dở dang tắt ngấm. Những con chim sâu nhỏ bé đang lẩn quẩn, an bình trên những cành mai hồng thắm vụt cánh bay. Người ta không thấy sợ hãi nhưng chợt cau mày với cái cảm giác bực dọc khó chịu. Không có thêm một tiếng súng nào tiếp theo đó. Không gian, khung cảnh trở lại an bình, yên tĩnh.

    Chỉ có tâm hồn người là không an bình nữa. Mặt người ta chợt đỏ lên dù ly rượu trên tay chưa kịp uống. Người ta vừa trực nhận một cái cảm giác hổ thẹn. Tại sao lại bực dọc và khó chịu nhỉ? Có phải vì tiếng súng đã làm hỏng mất một buổi chiều Xuân êm đềm và thi vị không?

    Vậy mà đã có lúc người ta thiết tha mong nhớ một tiếng súng. Một loạt những tiếng súng thì càng tốt ! Mới ngày nào tiếng súng nổ còn là dấu hiệu cho sự bạo động quật khởi, báo thù rửa hận. Bây giờ ở một nơi an bình, tiếng súng chỉ còn là biểu hiện cho sự bất an và lâm nguy !

    Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một đêm tháng Tư xứ lạ. Có kẻ buổi chiều quá chén, nửa đêm thức giấc không biết mình đang nằm ở đâu? Có tiếng máy sưởi tự động giảm nhiệt độ. Sự đàn hồi của kim loại phát ra những tiếng kêu tí tách. Trong cái cảm giác ngái ngủ người ta tưởng như mình đang nghe tiếng mưa rơi.

    Tiếng mưa rơi trên mái tôn của một căn nhà trong một con hẻm lầy lội, hắt hiu vàng ánh điện câu. Đã bao đêm mưa người ta được bao che để sống chui nhủi dưới một mái nhà tôn như vậy. Đã bao đêm người ta thức giấc nằm nghe tiếng thằn lằn tắc lưỡi, tiếng ú ớ của những đứa em thơ nói trong mơ, tiếng động lục đục của những người mẹ già tảo tần lo lắng cho gánh hàng rong bán vào sáng sớm, tiếng xe xích lô nổ ròn đầu xóm. Và đôi khi tiếng ru con ầu ơ buồn não ruột của một người đàn bà hàng xóm.

    Chiếc máy sưởi nguội dần, những tiếng kêu tí tách của kim loại đàn hồi từ từ nhỏ lại. Người ta lại nghe như là tiếng mưa rơi trên những mái tranh. Những mái tranh trống lốc, gió thổi tứ bề của trại tù Suối Máu, Cà Tum. Những mái nhà tranh của trại Minh Rồng, Đại Bình, Đại Lộc… người ta đã thức giấc bao nhiêu lần ở những trại tù heo hút đó để nghe tiếng mưa rơi, để chờ mong một tiếng súng vọng về từ rừng thẳm.

    Đêm nay ở phương trời xa xăm cũ biết trời có mưa không?

    Đêm nay trong vòng rào tù ngục có bao nhiêu kẻ (chợt) thức giấc giữa đêm trường nằm mong chờ khắc khoải trong đói lạnh một tiếng súng mơ hồ?

    Và đêm nay – ở chốn xa xôi, an bình này – ai có bạc đầu không?

    Tháng Tư 1984.

    https://www.rfavietnam.com/node/8014
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5484
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          







          
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5484
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          





          
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đồng bằng Sông Cửu Long tứ bề thọ tử

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Đồng bằng Sông Cửu Long tứ bề thọ tử
    Thứ Hai, 04/08/2024 - 12:16 — VietTuSaiGon




    Trong tác phẩm nổi tiếng Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng của tác giả Ngô Thế Vinh, dường như mọi mối lo và mọi mối nguy về đồng bằng Sông Cửu Long đã được ông đề cập, tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề khác mà không nhắc tới nó, có vẻ như chưa lột tả hết được mối nguy tứ bề thọ tử của vùng đất này, đó là đòn hiểm “thù trong giặc ngoài” mà bấy lâu nay, mảnh đất này đang gồng lưng chịu đựng.

    Thế nào là thù trong giặc ngoài? Trước nhất, có lẽ phải nhắc đến bối cảnh chung của đồng bằng Sông Cửu Long, đó là nguồn sống dựa vào con nước lớn - ròng, dựa vào mùa nước nổi của khu vực này đã bị cắt đứt kể từ khi các nước thượng nguồn sông Mê Kông liên tục xây thủy điện, chặn đứng lưu lượng nước của dòng sông này và biến đồng bằng Sông Cửu Long thành một cái túi hứng nước nếu như tình trạng vỡ đập xảy ra và ngược lại, biến nơi này thành một bãi đất khô cằn.

    Điều này chính thức cắt đứt sinh kế của người dân khu vực và chặt gãy nền kinh tế của một quốc gia lấy nông nghiệp làm chủ lực như Việt Nam.

    Bởi nói cho cùng, công nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đứng vào top mạnh của thế giới là nhờ vào sức cung cấp của đồng bằng Sông Cửu Long, lượng gạo xuất khẩu hằng năm hầu như dựa vào hơn 60% gạo của đồng bằng sông Cửu Long, số lúa, gạo còn lại dựa vào đồng bằng Tuy Hòa và đồng bằng sông Hồng cùng một số nơi khác. Trong tình trạng sông lạch khô cạn và nước liên tục nhiễm mặn, càng về sau càng hạn mặn nặng nề như đang thấy, thì chẳng bao lâu nữa, nơi này sẽ không sản xuất nông nghiệp được nữa, diện tích sản xuất lúa ngày càng thu hẹp và lượng gạo xuất khẩu sẽ giảm dần theo năm.

    Một khi đồng bằng Sông Cửu Long không còn cơ hội sản xuất gạo thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra và nguyên nhân này do đâu?

    Đến giờ phút này, không thể nói gì khác về nguyên nhân cái chết của đồng bằng Sông Cửu Long, đó là do Cộng sản, trong đó, cộng sản Việt Nam là tay trong, cộng sản Trung Quốc là kẻ xâm lược, và cả hai ông cộng sản này đã tha hồ xâu xé, bức tử một vùng đồng bằng trù phú, thịnh vượng, để nhanh chóng biến nó thành cánh đồng hấp hối và cuối cùng, có thể là một khu công nghiệp lớn phía Nam, hay một bãi rác thải của Nam Trung Hải.

    Từ những bước đầu tiền, những nhát dao đầu tiên tùng xẻo đồng bằng Sông Cửu Long, một mặt, các thủy điện thượng nguồn Mê Kông hình thành, lấy dần nguồn nước của vùng đất này, mặt khác, có sự tiếp tay của chính quyền Cộng sản Việt Nam, hàng triệu lít thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, hóa chất nói chung từ Trung Quốc được tuồn qua các cửa khẩu phía Bắc Việt Nam, chạy thẳng xuống miệt Tây Nam Bộ, và cuối cùng, đồng bằng Sông Cửu Long là cái nơi xả cuối cùng của hàng triệu lít hóa chất gọi là thuốc trừ sâu, thuốc dưỡng cây, thuốc kích thích sinh trưởng... Cùng hưởng lợi bằng cách tùng xẻo trên nền đất vốn phì nhiêu, trù phú này là những công ty hóa chất Việt Nam liên tục sản xuất và chạy đua giá sản phẩm với các hãng Trung Quốc. Cho đến thời điểm hiện nay, dư lượng hóa chất trong đất ở khu vực đồng bằng Sông Cửu Long có thể nói là không thể kiểm soát được nữa.

    Và hệ quả của vấn đề này vô cùng nghiêm trọng, nền sinh thái bị phá vỡ, đất đai trơ lì, cằn cỗi và không còn phì nhiêu hay trong lành nữa.

    Với mức độ bị đầu độc quá cao, liên tục bị hạn mặn và nguy cơ bị cắt nguồn nước ngày càng đến gần, liệu đồng bằng sông Cửu Long còn thoi thóp được bao lâu nữa? Và nếu tồn tại được thì tồn tại bằng cách nào?

    Nếu như đồng bằng Sông Cửu Long tồn tại, có lẽ sẽ tồn tại theo một hướng khác, hướng của du lịch hóa, thương mại hóa và công nghiệp hóa, chắc chắn, không bao lâu nữa, nền nông nghiệp lâu đời của khu vực đồng bằng này sẽ bị bức tử, đó là tương lai thấy được, không thể khác đi. Nhưng ai đứng sau cái chết của đồng bằng Sông Cửu Long?

    Như đã nói, ngay từ đầu, nếu như miền Nam không phủ sắc đỏ Cộng sản xã hội chủ nghĩa thì đồng bằng Sông Cửu Long không có sự thay đổi đáng kể. Mặc dù những con đập phía thượng nguồn Mê Kông có thể làm cạn dòng Cửu Long nhưng dòng chảy chính, đó là dòng sự sống, dòng chảy tâm hồn người miệt sông nước Cửu Long không đến nỗi cạn kiệt như bây giờ, khi mà lòng người trở nên rã rời, bại xuội, tâm hồn xơ cứng và tính thực dụng có mặt khắp mọi nơi.

    Từ chỗ một nơi thơ mộng, hiền hòa, thật thà, chân chất, không biết tự bao giờ kể từ sau 1975, miệt đồng bằng Sông Cửu Long trở thành cái nôi cung cấp chân dài cho cả nước và là cái chợ bán vợ liên lục địa của cả nước. Rồi không biết tự bao giờ, đàn ông miệt sông nước Cửu Long trở nên cay cú, hằn học và thù hận vì mất vợ, cái nhìn thiện cảm của họ đã mất.

    Giả sử miệt Tây Nam bộ chuyển loại hình kinh tế thành kinh tế du lịch, thì cũng chẳng bao lâu, nền du lịch ở đây sẽ chết yểu vì mặt bằng văn hóa thấp, dân tình không còn thuần hậu, điểm đến khô cằn, thiếu màu xanh, thiếu phì nhiêu và quan trọng nhất là khi mà đi đâu, kĩ nghệ chân dài cũng có thì miệt Tây Nam Bộ trở thành “cố đô” già cỗi... Đó là mối nguy của du lịch đồng bằng Sông Cửu Long.

    Giả sử biến nơi này thành trung tâm thương mại khu vực? Chuyện ấy đã có lâu nay và đây là điểm nút của ba nước Việt Nam - Campuchia - Thái Lan trong vấn đề giao thương hàng hóa, đặc biệt là hàng “ngoại ngạch”. Nhưng, đường sá, hệ thống giao thông vốn dĩ quen với đường sông đang chuyển đổi thành đường bộ cùng với nguy cơ sạt lở của khu vực này lại trở thành mối lo ngại của nhiều người, việc hình thành trung tâm thương mại khu vực hay cả nước là chuyện không tưởng.

    Vấn đề còn lại, khu công nghiệp lớn, có vẻ như khả thể, tính khả thể của nó không đến từ điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, con người mà hình như đến từ dự tính và âm mưu của kẻ khác, vốn đã ủ từ rất lâu.

    Khi mùa nước nổi mất đi, đồng bằng trở thành bãi cạn và mọi thứ trở nên “ổn định”, với nguồn lao động dư thừa, hằng năm phải kéo lên Bình Dương, Sài Gòn nhiều vô số kể, thì việc đầu tư tạo ra những khu công nghiệp, tận dụng nguồn lao động tại chỗ là chuyện trong khả năng.

    Lúc này, nhà đầu tư của “nước láng giềng anh em” sẽ vớ bẫm, bởi đây là kế sách lâu dài, đầu tư lâu dài của họ, đã đến lúc họ thu hái thành quả.

    Và, điều mà người Trung Quốc chưa làm được tại Việt Nam chính là thao túng miệt đồng bằng Sông Cửu Long, bởi đến thời điểm này, từ Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, miền Trung, các tỉnh miền Đông đất đỏ của Việt Nam đều đã có mặt họ, chỉ riêng miệt đồng bằng Sông Cửu Long là họ chưa cài cắm thứ gì đáng kể.

    Một khi nền kinh tế nông nghiệp của nơi này chết đi, tiếng kêu cứu về một nền công nghiệp thay thế phát ra thì họ tức tốc có mặt, và lúc ấy, mọi sự coi như đã rồi. Mà chuyện ấy, có vẻ như đang đến rất gần, bởi đồng bằng Sông Cửu Long đang hấp hối để đi đến cái chết bởi thù trong giặc ngoài. Một cái chết tức tưởi và hoàn toàn do con người (đại diện) chọn lấy!

    Có thể nói rằng, tình trạng hiện tại của nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long là Tứ Bề Thọ Tử, không lối thoát!

    https://www.rfavietnam.com/node/8004
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Đường bộ vượt biên

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Đường bộ vượt biên
    19/04/2024 _ Nguyễn Thị Thanh Dương





    Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên.
    Một hôm chị Ky ghé vào quán vui mừng báo tin con gái chị đi cùng với em gái chị ở Xóm Mới vượt biên đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan êm ru trót lọt chỉ trong vòng 3 tuần lễ, dân Xóm Mới tin tưởng đường dây tổ chức vượt biên này lắm, nhà nọ đi được giới thiệu nhà kia, tất cả ba bốn chuyến đều thành công.
    Người tổ chức là “Anh Minh bộ đội ”. Anh Minh người miền Bắc, là bộ đội từng đóng quân ở Campuchia nên anh Minh rất rành đường đi nước bước và quen biết nhiều, những chuyến xe chở khách vượt biên anh Minh đều “mua” bến bãi cả, thậm chí nếu bị lính Miên bắt anh Minh vẫn có thể “chạy” ra. Cuối cùng chỉ cần vượt qua một eo biển nhỏ là sang đất Thái.
    Nghe chuyện vượt biên là tôi mê liền, lại là đường bộ tôi càng mê vì tôi tin là an toàn hơn đường biển, nhưng tôi hơi khựng lại, vụ này vẫn phải đi qua biển. Chị Ky thản nhiên:
    – Chỉ một khúc biển nhỏ thôi, thuyền anh Minh chở người sang đó và quay thuyền về ngay như đi chợ ấy mà.
    Nghe thế tôi hào hứng muốn cho Thoa đứa em gái áp út đi dù cha và các em tôi đang có giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ. Tôi sốt ruột, đợi chờ bảo lãnh lâu quá, phí phạm thời gian tuổi trẻ của Thoa, mà đi vượt biên dễ dàng như thế này, không phải trả trước đồng nào tội gì không thử, nếu chuyến đi không thành công thì Thoa về nhà lại chờ đợi bảo lãnh, chẳng sứt mẻ gì. Tối về tôi bàn với bố và các em, tôi nói đường dây tổ chức rất tốt, nhất là đường bộ không có mưa bão sóng gió hiểm nguy, không lo hải tặc cướp bóc. Bố tôi nói nếu Thoa đồng ý đi thì bố cũng tán thành, Thoa nghe tôi ca tụng chuyện vượt biên ngon lành nó đồng ý liền, cứ làm như sắp được “du lịch” Campuchia. Thế là tôi nhờ chị Ky giới thiệu “Anh Minh bộ đội”.
    Anh Minh đến quán như một người khách vào uống nước nhưng chúng tôi đã trao đổi chuyện trò. Giá cả là 3 cây vàng, đúng như chị Ky nói không phải trả trước xu nào, khi tôi nhận được tin nhắn của người thân đã bước chân sang đất Thái Lan thì mới chung tiền. Tôi kỳ kèo trả giá mỏi miệng từ 3 cây vàng xuống…1 cây vàng rồi nhúc nhích lên từ từ tới 2 cây rưỡi. Anh Minh sốt cả ruột:
    – Tổ chức một chuyến vượt biên là bao công phu, bao tốn kém mà chị mặc cả như mua con cá bó rau ngoài chợ.
    – Tại tôi quen trả giá khi đi chợ rồi, đi vượt biên cũng có quyền trả giá chứ anh.
    Cuối cùng anh Minh chịu bớt 5 chỉ vàng. Tôi hân hoan nghĩ thầm “Anh Minh chắc giá thế, là tiền nào của nấy” chuyến vượt biên sẽ an toàn cao.

    Thoa đã sửa soạn vài thứ đồ dùng tối cần thiết cho chuyến đi vượt biên . Tôi đưa cho Thoa một chỉ vàng mà tôi đã thuê anh thợ bạc ở Xóm Mới cán mỏng ra làm mấy miếng và vài cục gum để mang theo, khi nào bắt đầu vào cuộc hành trình có vẻ gian nan thì nhai gum ra và dán dính những miếng vàng này vào trong mái tóc để tránh bị rơi rớt và tránh cả kẻ cướp. Nghĩ tới phải qua một khúc đường biển mới sang đến đất Thái tôi liền tức tốc đi mua một cái phao nhỏ và dặn Thoa, tôi nói chung chung, kiêng cử không dám nói đến cảnh nguy biến nước tràn vào thuyền vì sợ bị xui xẻo:
    – Khi nào… cần thiết thì thổi phao lên mà…xài. Nếu Thoa không đủ sức thổi cái phao thì nhờ mấy đàn ông chung chuyến thổi giùm.
    Nhưng Thoa nghĩ sao nói vậy:
    – Chị ơi giây phút đắm tàu thì ai rảnh mà thổi phao giùm mình? Có khi họ cướp cả phao của em luôn, có khi chưa kịp thổi phao thì nước đã cuốn phăng cả người và phao ra biển rồi.
    – Ấy chết em đừng nói những điều ghê gớm ấy, thuyền chỉ đi qua một eo biển nhỏ …êm đềm thôi mà.
    Tôi nào biết eo biển nhỏ ấy ra sao, chỉ nói đại cho xong, tuy trấn an Thoa thế mà lòng tôi càng thêm lo, tôi bắt Thoa thực tập thổi cái phao, nó phồng mang phồng má lên thổi mãi cũng xong.
    Gia đình chúng tôi có 2 căn nhà, một căn trong xóm để ở và một căn ngoài mặt đường là nơi kinh doanh quán cà phê giải khát bấy lâu nay. Sau biến cố buồn riêng mẹ mất và biến cố buồn chung tháng Tư 1975, cha con, chị em chúng tôi ở chung nhau, đùm bọc lẫn nhau.
    Tuy hai chị em nôn nóng chuyến vượt biên nhưng hôm chồng tôi từ nhà trong chở Thoa ra điểm hẹn ở bến xe Bà Hạt để khởi hành sang Campuchia tôi không dám ở nhà vì tôi biết giây phút tiễn đưa này tôi sẽ không chịu nổi, vội vàng đội chiếc nón lá ra quán giải khát dù hôm nay tôi chẳng còn lòng dạ nào mà bán hàng, vừa đi tôi vừa khóc, nhờ đội nón lá nên hàng xóm không ai biết tôi đang khóc. Ở nhà trong Thoa cũng khóc và chào tạm biệt mọi người, thằng Bi con tôi nằm cuộn chăn trong giường khóc nức nở, Dì cháu cách nhau 9 tuổi, dì là người từng bồng bế cháu khi nó còn bé nên hai dì cháu thân nhau lắm. Cuộc chia tay đầy nước mắt liệu có là điềm… xui xẻo gì không?
    Tôi ngồi thẫn thờ ngoài quán nước mà tưởng tượng suy đoán ra từng giai đoạn một: Giờ này Thoa đang ngồi trên chuyến xe đò Bà Hạt. Giờ này xe đò đang chạy đến Mộc Hóa Long An. Giờ này Thoa sang tới đất Campuchia. Giờ này Thoa …đang ở đâu?
    Chiều tối tôi dọn hàng về nhà trong xóm, thấy đôi dép Thoa còn để trước cửa tôi lại khóc òa, đôi dép đây mà Thoa thì đi xa. Ôi, giá mà Thoa vượt biên hụt trở về nhà ngay lúc này chắc tôi sẽ mừng vui hơn là thất vọng nữa đấy.
    Đã hai lần tiễn hai thằng em đi vượt biển, đứa đến Thái Lan đứa đến Mã Lai, nghe kể lại những ngày hãi hùng lênh đênh trên biển gia đình tôi sợ biển quá rồi, nay Thoa đi vượt biên bằng đường bộ thì đỡ lo hơn. Người đi cảm giác lo lắng hồi hộp bao nhiêu thì người ở nhà cũng bấy nhiêu. Xóm tôi có mấy vụ vượt biển thất bại đau thương, những chuyến tàu bặt vô âm tín, bác hàng xóm một lúc mất mấy đứa con, bác gầy sộc hẳn đi, buồn thảm, phờ phạc thất thần trông bác như một bà điên.

    Ngày từng ngày trôi qua, tôi ăn không ngon ngủ không yên. Tôi chờ tin anh Minh, chờ bóng hình anh cứ như là chờ người yêu. Sau ba tuần thì anh Minh bộ đội đến quán nước gặp tôi, anh đến là có hi vọng có tin vui rồi. Tôi luống cuống pha vội cho anh ly cà phê đá mang ra bàn, anh đưa tôi một mẩu giấy nhàu nhòe Thoa viết vài chữ như sau: “Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên”.
    Trước khi Thoa đi chị em tôi đã có 3 mật hiệu để báo tin về nhà:
    Mật hiệu ” Ba ơi, con vẫn bình yên” là an toàn 100% nhà cứ việc trả vàng cho anh Minh.
    Mật hiệu ”Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên” là 50/50. Tùy ..
    Mật hiệu “Anh Thu ơi, em vẫn bình yên” là xấu nhất, bị lừa hay chưa đến Thái Lan. Không trả.
    Tôi nghi ngại hỏi anh Minh:
    – Nghĩa là hiện nay em tôi cũng như khách trên chuyến vượt biên đang ở trên đất Thái Lan?
    – Phải. Chúng tôi đã làm xong nhiệm vụ giao ước. Bây giờ xin chị trả chi phí 2 cây rưỡi vàng.
    Tôi trì hoãn:
    – Hẹn anh ba ngày nữa tới đây. Tôi cần bàn với gia đình.
    Buổi tối về nhà trong, gia đình tôi cùng quây quần bàn bạc, nửa vui nửa lo cái ám hiệu “ba phải” 50/50 kia. Có nghĩa là gì? Không hoàn hảo nhưng cũng không quá xấu? Nếu không giao vàng cho người ta thì mình thành thất hứa. Nếu giao vàng mà Thoa chưa đến nơi thì coi như mất toi món tiền lớn.
    Bố tôi quyết định bảo tôi:
    – Làm người phải có chữ tín. Con cứ giao vàng cho anh Minh. Mật hiệu lửng lơ thế cũng tạm coi như an toàn rồi. Chứ chờ Thoa đến Thái ổn định viết thư về thì lâu lắm.
    Ba ngày sau anh Minh đến quán, tôi trao đủ 2 cây rưỡi vàng cho anh, mặt anh tươi rói nhưng vẫn than thở:
    – Không phải ai cũng tử tế sòng phẳng như chị, nhiều người còn đang hẹn chày hẹn cối khi nào con em họ tới Thái Lan gởi thư về có đóng dấu bưu điện Thái Lan họ mới chồng vàng cho tôi.
    Anh Minh ra về, anh khen tôi tử tế trả tiền sòng phẳng mà chẳng bớt thêm cho tôi đồng nào trong khi mấy người kia đang lấy cớ quỵt tiền công anh.

    Gần 2 tháng sau thì tôi nhận được thư Thoa gởi từ trại Panatnikhom Thái Lan, có đóng dấu bưu điện Thái Lan đàng hoàng, tôi tự hỏi không biết giờ này anh Minh có đòi thêm được người nào không? Hay họ lại hẹn chày hẹn cối tiếp khi nào con em họ qua tới Mỹ gởi thư về có đóng dấu bưu điện Mỹ mới chịu trả tiền?
    Thoa đã ổn định trong trại tị nạn do cao ủy phụ trách, gia đình tôi yên tâm. Lần lượt Thoa viết thư về kể mới biết cuộc vượt biên đường bộ cũng đầy hiểm nguy, mỗi một bước chân đi là một bất trắc đang đón chờ, anh Minh chẳng ba đầu sáu tay, anh Minh chẳng là thần thánh phù phép lo hết được khi qua những trạm lính Miên, khi băng rừng xuyên đêm và chỉ một khúc đường biển mà thật khủng khiếp. Từ thành phố cảng Kompong Som, là thành phố cảng đẹp nhất của Campuchia nhưng thuyền chở khách vượt biên của anh Minh phải tìm một “hóc bà tó” nào đó của biển bên này mà lén lút vượt qua để sang bên kia vùng biển Tha Luông tỉnh Chad của Thái Lan, nào thuyền có “hiên ngang” cặp bến biển Tha Luông như ước mong, họ chở khách ra giữa dòng, đậu lại lửng lơ con thuyền không bến. Nơi đây họ yêu cầu mọi người viết tin nhắn về cho gia đình rồi đợi chiều tối mới đi tiếp. Mọi người trên thuyền như cá nằm trên thớt họ bảo gì nghe nấy dù chỉ…sắp sửa đặt chân lên đất Thái. Đó là lý do Thoa viết mật mã “nửa nạc nửa mỡ.”
    Họ đổ khách vào một hòn đảo đá ong lúc 7 giờ chiều. Họ chỉ chỏ bờ Thái bên kia rồi vội vàng quay thuyền trở về đất liền Campuchia. Mọi người nhìn xa mờ thấy một giải đất dài nên cũng tạm yên tâm, tưởng có thể lội bộ tới, nào ngờ chưa biết tính sẽ lội bộ thế nào thì nước thủy triều bắt đầu dâng lên trong vòng một tiếng đồng hồ nước từ từ ngập phủ đảo, lên tới chân, tời đầu gối, tới đùi mọi người, cứ cái đà nước dâng thế này thì cả bọn sẽ bị nhấn chìm trong nước biển. Mọi người kêu la khóc lóc cầu nguyện.
    Chẳng lẽ cả đám chịu trận chờ chết thảm cùng nhau, anh Phương một người biết bơi tình nguyện nhảy xuống biển để bơi sang bờ Thái hầu tìm người đến cứu, nhưng anh ta vừa thò chân xuống nước đã kinh hãi vì nước quá sâu, nếu không đủ sức bơi sang bờ kia thì sẽ chết chìm như chơi. Lúc này Thoa nhớ tới cái phao cá nhân của mình liền đưa ra nhờ cánh đàn ông khỏe thổi phao cho căng phồng, đưa phao cho anh Phương Thế là anh Phương chòang cái phao vào nách yên tâm nhảy xuống biển bơi đi thật nhanh, khi anh sang tới bờ bên kia hình bóng anh xa tít mù khơi, thì ra nhìn tưởng gần nhưng đi rất xa. Nếu không có cái phao thì anh Phương không đủ sức bơi và chết chìm trước khi thấy bến bờ Thái.
    Anh Phương đã đi tìm gặp dân ở gần đó nhờ họ mang thuyền ra cứu mọi người trên đảo đá ong. Họ chẳng tử tế cứu giùm, mà phải trả công bằng vàng, trong giây phút tử sinh ai dấu vàng ở đâu cũng moi ra trả chủ thuyền để mà sống sót, một vài người thật sự không có vàng thì mượn hay đi ké theo người có vàng cũng xong.
    Những lá thư, những điều Thoa kể làm tôi kinh hãi và hối hận vô cùng, chính tôi đã có ý tưởng cho Thoa đi vượt biên, chính tôi đã nghe chị Ky kể chuyện vượt biên đường bộ mà mê tơi lên, cứ tưởng anh Minh tài ba, chở người vượt biên nhởn nhơ trên các nẻo đường Campuchia và bước chân sang Thái Lan như khách lãng du. Nếu Thoa có mệnh hệ nào thì tội của tôi to như cái đình và chắc tôi sẽ khổ đau điên dại giống như bác hàng xóm kia.
    Sau vài ngày, sau vài thủ tục khai báo tại trại nhỏ, cả đám được chuyển đến trại tị nạn lớn. Tại đây Thoa mới biết thời gian này trở đi sẽ có cuộc thanh lọc ai đủ tiêu chuẩn đậu thanb lọc mới có cơ hội đi định cư nước thứ ba.
    Người mới đến hỏi han người đến trước, truyền tai nhau những kinh nghiệm, tô vẽ cho mình một lý lịch gay go, một cảnh đời bầm dập để khai với cao ủy tị nạn. Còn Thoa chẳng tìm ra cớ gì đành khai thành thật vì chán chế độ cộng sản muốn tìm cơ hội tiến thân nơi đất nước tự do dân chủ hi vọng họ sẽ cảm thông cho đậu thanh lọc.
    Cuối cùng sau gần 3 năm qua bao trắc trở Thoa may mắn đậu thanh lọc và chờ đợi hơn một năm sau mới được đi định cư nước thứ ba như một phép màu vì có nhiều người với lý lịch rõ ràng là lính Việt Nam Cộng Hòa, là dân “phản động” từng bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù, từng bị trả thù còn bị rớt thanh lọc chờ ngày hồi hương.
    Sự may mắn của Thoa nhờ công của người này người kia, họ chỉ dẫn, họ giúp đỡ, họ cảm thương và biết đâu nhờ chút tử tế, chút điều lành của gia đình tôi trong đó. Gia đình tôi đã giữ chữ tín, chồng vàng đầy đủ cho anh Minh như đã giao ước và nhờ cái phao của tôi bắt Thoa mang theo, cái phao đã cứu sống mấy chục mạng người trên hòn đảo đá ong khi nước thủy triều dâng cao, họ không chết chìm cũng chết khát chết đói vì chẳng ai biết mà đến đây cứu họ.
    Nhưng trên hết là nhờ trời Phật, thương đế đã ban cho gia đình tôi ơn phước này.
    Thế là gia đình tôi đã tham gia vượt biên đủ cả đường biển và đường bộ, ngoài ra còn đi chính thức bằng đường bay. Sau khi Thoa đi định cư, vài năm sau đó gia đình chúng tôi cũng lần lượt sang Mỹ định cư theo diện HO và ODP đoàn tụ gia đình.
    Chị Ky “tri kỷ” hàng xóm của tôi được con gái bảo lãnh sang Mỹ đoàn tụ. Chúng tôi lại là tri kỷ của nhau trên đất Mỹ, cùng vui hưởng cuộc sống văn minh tự do với bao điều mà ngày xưa còn ở Việt Nam chúng tôi đã từng khao khát chờ mong.



    – Nguyễn Thị Thanh Dương
    (Feb. 22, 2024)


    posting.php?mode=reply&t=6652#preview
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Sao quên?

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Sao quên?



    Tưởng niệm Thu Nguyệt, tắt thở lúc 13g16, 16.9.1976
    vì chính sách đuổi gia đình có thân nhân trong QL VNCH ra khỏi thành phố.




    Ngày đưa em về đất
    Mưa rơi trên quan tài
    Huyệt vừa đào ngập nước
    Quan tài nổi!
    Bi ai!



    Nước mưa hòa nước mắt
    Vẫn mặn vị nghẹn ngào
    Căm hận bọn cuồng bạo
    Chị khắc hoài đớn đau!



    Chị sinh nhật mười tám
    Sao lại phải tiễn đưa
    Tuổi em vừa mười sáu?
    Đau khổ cả nhà ta!



    Mưa Bình Tuy ơi hỡi!
    Rơi Tân Nghĩa, Nghĩa Tân
    Cỏ cây đều rã rượi
    Thương em giữa đường trần!

    *

    Vẽ vời “Kinh Tế Mới”
    Cướp sạch hết ấm no
    Cả miền Nam rách rưới
    Dưới tay đảng bày trò!



    Ôi là cơn bão tố!
    Mưa gió hoài chưa khô
    Cả Nước được… khốn khổ
    Trong nhập nhoạng, mơ hồ!




    Ý Nga, 25.4.2024


    https://hon-viet.co.uk/YNga_thoSaoQuen.htm

              




Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bốn-chín năm!

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Bốn-chín năm!





    Bốn-chín năm, tưởng chừng mình cũng đổi
    Cả núi sông nghiêng ngửa huống chi ta!
    Huyết mạch này thừa hưởng bởi ông cha
    Dư căm giận lũ buôn dân bán nước!



    Bốn-chín năm, ngẫm suy gương người trước
    Chí kiên trung xua tan lũ bạo cường
    Máu thịt xương từng tô điểm giang san
    Giặc phương Bắc xá chi loài kiến cỏ



    Bốn-chín năm, Việt Nam ta rõ tỏ
    Khắp năm châu nào ai kết “đại đồng”
    Còn lại gì? chỉ một lũ cuồng ngông
    Thói lừa phỉnh mượn thây Hồ tấn cướp...*



    Bốn-chín năm, vẫn lũ quân khiếp nhược!
    Đầu quỵ Nga, thờ phục bọn Tàu phù
    Khởi chiến tranh gọi “Kháng chiến mùa Thu”
    Triệu sinh mạng! Dân thấm trò đấu tố!!!



    Bốn-chín năm, trời Việt Nam vẫn khổ
    Người... lẫn người, thù hận giết hại nhau
    Phá niềm tin, thiêu hủy mấy đời sau
    Lòng tự chủ, tính tự cường giống Việt



    Bốn-chín năm, dân tộc ta thua thiệt
    Lớp hậu sinh gương trung liệt nào soi
    Nhân nghĩa buông, mờ đạo lý giống nòi
    Hỏi trí nhân, đến bao giờ đứng dậy?!



    Bốn-chín năm, làm sao quên ngày ấy
    Thế bạo cường đánh đổi cả non sông*
    Nào toàn dân hợp lực tổng tiến công!
    Giành quyền sống, nước non mình làm chủ



    Bốn-chín năm, thời gian đà quá đủ
    Bài vỡ lòng hơn nửa thế kỷ qua
    Phải lớn khôn mau dựng lại sơn hà
    Ngày mai tới Việt Nam ta tươi sáng





    Dân Nam
    Lại Mùa Quốc Hận!



    https://hon-viet.co.uk/DanNam_thoBonChinNam.htm

              




Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bài thương ca tháng 4.

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  •           
    Bài thương ca tháng 4.







    Đường chinh nhân mịt mờ gío núi,
    Xác quân thù rữa thối dưới chân.
    Ngày anh đi vòm trời mở lối,
    Bước ta về đất mới nở hoa.



    Kìa mây nước chiều nao ngừng thở,
    Cho ta về tìm bóng dáng xưa.
    Ở nơi đó còn nguyên tình cũ,
    Có tháng năm người vẫn đợi chờ.

    *

    * *

    Rồi Anh đi, Anh về đâu thế?
    Người đi cho đất vạn thiên sầu,
    Trên cao chết đứng vầng mây trắng,
    Cõi thế trao nhau tấm khăn dài.



    Giấc mộng ngàn đời, ôi sầu lắng.
    Chí cả vào đời với mộ sâu.
    Đất trời một ngày không thấy nắng.
    Cho cả thế trần vạn niềm đau.



    Kìa nàng dâu bỗng thành góa phụ,
    Dòng nước mắt nhỏ xuống giữa nhà.
    Cho lũ trẻ lạc đàn ngơ ngác,
    Đứng nhìn trời chẳng biết vì sao?



    Vì sao cho giữa đời lệ đổ,
    Vì sao bia mộ ngập tang thương?
    Rồi đón lấy mưa tuôn cát bụi,
    Cho thế trần, ngàn nỗi xót xa.



    Để nơi đây vết dài thương tích,
    Gởi cho đời dòng lệ chẳng khô.
    Cho người ở, một đời tàn héo,
    Phần người đi, sẽ thoát bụi trần?



    Hay vẫn nhớ lội rừng băng suối,
    Vả ngửi mùi lúa mới trên nương?
    Cùng bày trẻ giang tay ca hát,
    Mong ngày mai phượng đỏ sân trường.



    Kìa mái tóc còn ôm khói súng,
    Sao nằm yên lặng lẽ không lời.
    Và đôi mắt, chẳng nhìn trần thế,
    Chẳng nhìn đời, bằng hữu hay sao?

    *

    * *

    Này là những người anh yêu mến,
    Đây quán rượu binh lính hẹn hò.



    Kìa mẹ gìa cho anh bú mớm,
    Bên người cha tóc bạc rưng rưng.
    Và còn đây, lũ em thơ dại,
    Chờ anh về may áo mừng xuân.



    Rồi cô em, tay nâng chén rượu,
    Như sẵn chờ ngày hội tiến binh.
    Ngân cho vang bài ca đất nước,
    Hát cho đều những bước phong sương.



    Để cho trong cõi xa xăm ấy,
    Có tiếng quân ca đến ngàn đời.
    Vẫn có tình anh trên chiến tuyến,
    Và có hồn linh cất tiếng reo.



    Để anh đi tới rừng nắng gío,
    Đón ta đến đỉnh núi nắng reo.
    Từ nơi đó, hát vang ngày mới,
    Cho đất trời nhập cuộc hừng đông.



    Rồi ta về sau đêm tiến bước.
    Đất rừng kia sẽ nhớ khôn nguôi,
    Này sông hồ khắc ghi từng bước,
    Của bao người đi trước năm xưa.



    Nay đau thương khép lại tà áo.
    Đôi mắt rưng rưng với lệ trào.
    Ôi dương thế, đường trần lắm mộng,
    Mà người đi như qúa vội vàng!

    *

    * *

    Này nước mắt hồn côi nhỏ xuống,
    Đưa ai về trong cõi mênh mông.
    Ở đó là biển trời hoang lạnh,
    Hay rừng yêu với vạn tiếng ca.



    Ôi tất cả như là đã hết,
    Hồn anh về ôm lấy quê hương.
    Ở đó là tình yêu tổ quốc,
    Ở đó là tiếng gọi vì dân.



    Cho một lần anh vào cuộc sống,
    Rồi lớn lên trong bước quân hành.
    Chỉ mong một mai khi trời sáng,
    Non nước thanh bình với tiếng ca.



    Cho rừng đêm mai sau còn sáng,
    Cho núi đồi về sống với ta.
    Ở đó là ngàn năm nắng đợi.
    Với mây nước hòa hợp bên nhau.



    Kìa ngọn gió về ngang đất mới,
    Cuốn đi theo lớp bụi dương gian.
    Nó sẽ lau khô bao dòng lệ,
    Đã nhỏ xuống khóc kẻ ra đi.



    Mà thời gian chẳng khi ngừng lại,
    Và người đi cũng chẳng trở về.
    Bởi chiến trường ghi lời chinh phụ,
    Rằng người đi, đi mãi chẳng về.



    Cho ngàn năm bước theo vương vấn,
    Cho khúc tâm ca lỡ cuộc tình.
    Rồi lỡ cả đoạn trường phu phụ,
    Bởi Người về, về với non xanh.

    *

    * *

    Này khổ đau gởi người cô phụ,
    Và con trẻ còn bế trên tay.
    Trong từng ngày theo mơ mà bước,
    Cho vơi đầy một chữ non sông.



    Rồi ngày mai nắng hòa non nước,
    Gío vút ngang bia mộ từng hồi.
    Bao lớp bụi theo vào chốn vắng,
    Cho dòng lệ vượt nắng trôi đi.



    Bởi, người đi mộ sâu gối bóng,
    Kẻ ở lại giữa sóng cô đơn.
    Ôi, chinh phụ đêm trường gối lệ.
    Khóc chinh phu gĩa biệt sơn hà.






    Bảo Giang
    2/24



    https://hon-viet.co.uk/BaoGiang_thoBaiT ... hangTu.htm

              




Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo: Công cụ đàn áp của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo:
    Công cụ đàn áp của Đảng Cộng Sản Việt Nam

    (bài 1)
    Phan Nhân Quyền



    (VNTB) – Chia để trị

    Bài 1:
    Lý do và mục đích sự hình thành tổ chức bán chính trị và kế hoạch của ĐCSVN




    Qua loạt bài viết này về Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, UBĐKCG, một tổ chức được ĐCSVN thành lập để xâm nhập, kiểm soát, tha hóa và đàn áp Công Giáo, tôi sẽ nói về những hoạt động trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý, uỷ ban này tiếp tay ĐCSVN phá hoại giáo hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN).



    Tôn giáo là một hệ thống các quan điểm, giá trị, và thực hành liên quan đến mối quan hệ giữa con người và các thực thể thần linh, thiên nhiên, v.v., mà tín đồ tin rằng tồn tại. Tôn giáo thường bao gồm tín ngưỡng, lễ nghi, cầu nguyện, kinh thánh, và các điều răn dạy. Nó có thể được thực hành như một cách để tìm kiếm một hiện hữu cho đời sau, after-life, tìm ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, để nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa, Đấng Tối Cao hoặc để tạo ra một nền tảng giá trị đạo đức, tư duy để hướng dẫn các hành động của con người.



    Tôn giáo đối nghịch với cộng sản duy vật, vô thần tự bản chất. Tôn giáo và chủ nghĩa vô thần là hai quan niệm đối lập nhau về mối quan hệ giữa con người và thực thể tôn giáo, cách tiếp cận cuộc sống và ý nghĩa của nó.



    Cộng sản luôn coi Tôn giáo cạnh tranh quyền lực với nó nhiều lĩnh vực nhất là phương diện tập hợp dân chúng, giáo dân. Ở các địa phương nhà cầm quyền CS cũng cạnh tranh với tôn giáo, “ tại sao ông cha nhà thờ nói gì dân cũng nghe. Cần bao nhiêu tiền cũng có giáo dân vui vẻ đóng góp.” Đảng và nhà nước thì rất khó mà vận động được như thế….” Như thế tôn giáo nhân rộng sự đoàn kết trong giáo hội và lan rộng (và có thể trở thành một lực lượng đối kháng với Đảng) trong lúc cộng sản thực hành kiểu “chia để trị”, chia rẽ cá nhân với cá nhân, giữa các bộ phận trong một tôn giáo và các tôn giáo với nhau.



    Chủ nghĩa cộng sản thường tập trung vào các giá trị và lý tưởng chủ nghĩa nhân văn và xã hội chủ nghĩa, trong đó con người được đặt ở trung tâm của mọi hoạt động và quyết định xã hội. Các nhà lãnh đạo cộng sản cũng có thể sử dụng các lý thuyết vô thần để bác bỏ các tôn giáo và truyền bá các giá trị vô thần như là một phần của quyền lực và kiểm soát xã hội.



    Cũng như tất cả tất cả các đảng cs quốc tế khi cướp được chính quyền, việc đầu tiên là kiểm soát, đàn áp và tiêu diệt tôn giáo, kẻ thù số một của chủ nghĩa vô thần CS. Tôn giáo hướng thiện, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ nhân phẩm của tín đồ nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Tôn giáo thực chất có tính phổ quát toàn cầu, dậy tín đồ kính trọng và gìn giữ lịch sử dân tộc, yêu Nước và đùm bọc, tương trợ lẫn nhau giữa con người và con người. Hơn thế nữa, tôn giáo luôn đề cao phẩm giá con người, xiến dương công lý và kêu gọi hòa bình. Cộng sản luôn đề cao hận thù và đấu tranh giai cấp.



    Sau khi cướp được chính quyền 19/08/1945, tuy tự che dấu là cộng sản, chư hầu của Cộng sản Tàu (TC), nhưng CSVN đã bắt đầu thanh trừng các tôn giáo. Nói riêng về đối với đạo công giáo, họ trắng trợn tịch thu, phá nhà thờ, bắt bớ, giết hại LM và giáo dân (GD) hoặc ép bỏ đạo.



    Sau hiệp định Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, ĐCSVN cai trị hoàn toàn miền Bắc Việt Nam, họ bắt đầu kế hoạch cụ thể đối phó với GHCGVN. Họ tập hợp một số LM, tu sĩ đã bị tha hóa cầm đầu là LM Vũ Xuân Kỷ lập nên tổ chức Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo (UBLLCG tiền thân của UBĐKCG).



    Linh Mục Vũ Xuân Kỷ sinh ngày 25-12-1886 tại Khánh Thôn, Mỹ Thuận, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà, thụ phong linh mục ngày 19-12-1921.



    Tháng 8-1945, ông trực tiếp tham gia phong trào cứu quốc. Năm 1946, vào Ban Chấp Ủy tỉnh hội Liên Việt, Nam Định. Năm 1949, là Phó Hội Trưởng Hội Liên Việt Liên Khu 3. Năm 1950, ông đứng ra triệu tập Hội Nghị Công Giáo Kháng Chiến Liên Khu 3. Hội nghị này thành lập Ủy Ban Liên Lạc Kháng Chiến Liên Khu 3, ông làm cố vấn và là chủ nhiệm báo Sáng Danh Chúa. Sau đó ông lần lượt làm ủy viên Ủy Ban Liên Việt, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của Việt Nam. Năm 1955, trong Đại Hội Công Giáo Toàn Quốc, ông được bầu Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Toàn Quốc những người công giáo Việt Nam yêu tổ quốc, yêu hòa bình. Tháng 9-1955 làm Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Sau đó làm đại biểu quốc hội. Ông được trao huân chương Độc Lập hạng Ba, huân chương Kháng Chiến hạng Nhất. (1)



    Trong thư đề ngày 12/3/1955, một ngày sau khi ủy ban này được thành lập, ký chung với các Giám mục khác, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng, nguyên GM phụ tá TGP Hà Nội đã lên tiếng cảnh giác các Kitô hữu về mối nguy hại mà Ủy ban Liên Lạc những người Công Giáo Yêu Tổ quốc, yêu Hòa bình ( UBLLCG) sẽ gây ra rằng,“Phong trào Những người Công giáo Kính Chúa Yêu Tổ Quốc Và Hòa Bình, được một số linh mục hoàn toàn bên ngoài hàng giáo phẩm phát động tại Hà Nội, là một mối nguy hiểm cho sự thống nhất của Giáo hội tại Việt Nam. Hàng giáo phẩm không nhìn nhận phong trào này có liên quan đến các linh mục và tín hữu”(2) Trong thực tế, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng đã nhiều lần lên tiếng ngăn cấm các linh mục tham gia ủy ban này bằng việc rút phép thông công (3) những linh mục theo Ủy ban Liên lạc Công giáo. Có lẽ vì thế mà cho tới tận hôm nay, giáo phận Hà Nội luôn tự hào là giáo phận không có bất cứ linh mục hay tu sĩ nào tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản.



    Giáo Hội Miền Bắc bị đày ải, cực nhọc nhất với UBLLCG. Nhóm này trong nhiều năm là công cụ để phá đạo, bách hại đạo, giống kiểu Julien Apostats (4): lấy đạo chống đạo, lấy người có đạo đập người có đạo, lấy con cái chống lại cha mẹ.



    Người ta bảo, Nhà nước tôn trọng tôn giáo, những xích mích là do nội bộ các anh. Thế nhưng họ lại áp đặt rằng ai không theo UBLLCG là không theo chế độ, chống lại nhóm đó là chống lại nhà nước, bị chụp mũ là đội lốt tôn giáo, phản quốc, chống lại những người yêu nước. Người Công giáo chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này. Cũng may, cộng sản chỉ chọn được những tu sĩ, giáo dân kém đạo đức, ham quyền và lợi lãnh đạo UBLLCG, nên ít người công giáo chân chính theo; nhưng họ lại được đảng cho chút quyền, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa xa lánh bộ mặt của họ.(5)



    Tại miền nam Việt Nam (MNVN) dưới thời Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) một chính phủ tự do dân cử. Dù chưa chiếm và cai trị Miền Nam, nhưng để hỗ trợ cái “chính phủ ma “được gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam( MTGPMNVN) trong kế hoạch nhuộm đỏ Đông Nam Á hay tiến chiếm MNVN, tháng 4 /1961 một tổ chức tương tự Ủy ban Liên lạc Công và sau đó gia nhập MTGPMNVN, với mưu đồ lâu dài với GHCGVN tại miền nam .



    “Thư chung 1960 của các giám mục miền Nam tiếp tục nói về vấn đề “Cộng sản vô thần” để giúp người tín hữu “thấu hiểu nó nguy hại và nham hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt đức tin của chúng ta”. Sau khi khẳng định giữa học thuyết Công giáo và Cộng sản “không thể đi đôi với nhau”, Thư chung kết luận: “Muốn cho Đạo thánh được nguyên vẹn, người Công giáo phải phủ nhận lý thuyết Cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng”. Để củng cố cho lập luận ở trên, Thư chung 1960 trích dẫn nhiều khoản của Thư chung 1951(6).



    Từ cái gọi là HNCGYN Xuất hiện “Phong trào Công giáo” chống chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Họ không chấp nhận chống Cộng sản bằng bất cứ giá nào. Nổi bật nhất là những người mệnh danh “Công giáo tiến bộ”, gồm cả linh mục lẫn giáo dân, thuộc nhiều phong trào và nhóm khác nhau. Một số sự kiện nổi bật nhất của “Phong trào” này là: Lá thư của “Một số linh mục Việt Nam trước vấn đề hòa bình của dân tộc”( phát hành 01.01.1966); việc thành lập “Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình” (24.11.1970); Thỉnh nguyện thư gửi Giáo quyền của 10 linh mục Việt Nam và 2 linh mục người Mỹ (1.10.1971) khởi đầu việc chống lại chính quyền VNCH và Các GM miền nam VIệt Nam! yêu cầu xét lại tinh thần Thư chung 1951”



    Nhìn lại lịch sử đề thấy âm mưu thâm độc của ĐCSVN đã tiến hành kế hoạch tiêu diệt Công giáo từ khi họ cầm quyền như thế nào.



    (còn tiếp)
    Phan Nhân Quyền


    ---------------------------------------

    Tham khảo:



    (1) http://baochi.nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin ... –img-txIN-

    (2) (Vietnamese Studies số 53, tr. 200).

    (3) Rút phép thông công là kiểu nói bình dân để nói về những vạ được bàn tới trong Giáo luật. Trong bộ luật này có nhiều vạ dành riêng cho từng giới. Nặng hơn cả là vạ rút phép thông công. Theo từ chuyên môn của Giáo luật thì vạ này là vạ tuyệt thông. Tuyệt thông là hình phạt Hội thánh dành cho tín hữu nào lỗi phạm trầm trọng những điều ghi trong Giáo luật. Người bị vạ tuyệt thông không được hòa nhập cùng Hội thánh, không được xưng tội rước lễ, tham dự các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng Hội thánh dành cho con cái mình và nếu là linh mục thì bị huyền chức và bị thải hồi về bậc giáo dân trong những lỗi phạm quá tai tiếng.

    1 trong 7 vạ theo các chỉ thị của Công đồng Va-ti-ca-nô II bị rút phép thông công là Bỏ đạo, rối đạo, ly khai khỏi Giáo hội Rô-ma.

    (4) Julian (sinh năm 332), cháu trai của hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, Constantine , được đào tạo như một Cơ đốc nhân, nhưng ông được gọi là tông đồ vì khi ông trở thành hoàng đế (AD 360), ông phản đối Kitô giáo. Trong Demise của Paganism , James J. O’Donnell cho thấy lập trường đặc biệt kịch liệt của hoàng đế chống lại Kitô giáo (và hỗ trợ cho các tôn giáo độc thần khác, Do Thái giáo) bắt nguồn từ giáo dục Kitô giáo của mình.

    (5) Trích hồi ký của cố GM Phaolo Lê Đắc Trọng chương V * https://saigonecho.org/main/tintuc/binh ... -1975.html

    (6) https://luongtamconggiao.wordpress.com/ ... -nam-1960/( Các giám mục miền Nam, Thư chung, ngày 2.3.1960.)

    Bài 2: những hoạt động và tác hại của UBLLCG tại miền Bắc.




    https://hon-viet.co.uk/PhanNhanQuyen_UB ... gCSVN1.htm



              
    ====================================

              










    (VNTB) – Sau bức bình phong là Uỷ Ban Liên Lạc giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.


    Bài 2
    Những tác hại của Ủy ban Liên lạc Công giáo trên thân thể giáo hội Công Giáo miền Bắc.




    Như bài 1 đã nói qua, các quốc gia cộng sản nắm quyền cai trị luôn tìm mọi cách tiêu diệt tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo (CG), cách thức đàn áp, tiêu diệt tùy theo bối cảnh chính trị và thế mạnh yếu của đảng CS lúc đó. Biết rằng CG là một giáo hội hiệp thông toàn cầu, hầu hết tín đồ Công Giáo Việt Nam (CGVN) được thấm nhuần đức tin kiên trung được tôi luyện qua thời bách đạo dưới triều Nguyễn, hàng trăm ngàn các vị thà chết để bảo vệ đức tin, làm chứng cho đạo Chúa Ki Tô. Sau gần một trăm năm nô lệ giặc Pháp. Người dân Việt Nam khao khát độc lập tự do, lòng yêu nước dâng trào, sẵn sàng hy sinh cho cho tổ quốc, gia đình, con cháu thoát kiếp nô lệ thực dân, CSVN bề ngoài mềm dẻo hơn với CG để che đậy mưu đồ từng bước tiêu diệt công giáo không kém phần sắt máu núp bóng mặt trận Việt Minh, lợi dụng chiêu bài giải phóng, dành độc lâp dân tộc chiêu dụ được một số ít LM, tu sĩ và giáo dân nhẹ dạ, không biết và không hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản; sau các người này có biết cũng đã bị tha hóa bởi danh, lợi và dục vọng quá đà không còn quay lại được nữa.



    UỶ BAN LIÊN LẠC NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU TỔ QUỐC YÊU HOÀ BÌNH gọi tắt là Uỷ Ban Liên Lạc (UBLL) được hình thành sau các phiên họp 3 ngày từ 8-11 tháng 3 năm 1955, người đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội; ông này sau bị Đức Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê treo chén (*). Cùng trong UBLL này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội, ông cũng bị Đức Cha Khuê treo chén, thêm các linh mục miền Nam tập kết ra Bắc như Hồ Thành Biên và Võ Thành Trinh.



    Uỷ ban Liên lạc đặt trụ sở tại dòng Đa Minh (Lyon), đường Hùng Vương HN. UBLL tỉnh Nam Định gồm các linh mục Nguyễn Thế Vịnh và Nguyễn Tất Tiên. Trong thực tế Uỷ ban này chỉ hoạt động hạn chế trong hai địa phận Hà Nội và Hải Phòng, có nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì hiếm hoi linh mục (Đức Cha Giuse Trương Cao Đại di cư vào Nam, kéo theo gần hết linh mục đoàn của địa phận Hải Phòng, chỉ còn lại 8 cha khi Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo về nhận địa phận (1)



    Cũng như đàn anh Trung Cộng, CSVN sao y chính sách cai trị của Trung Cộng đề ra nô lệ hóa nhân dân, củng cố độc tài toàn trị, huy động toàn bô hệ thống chính quyền vào việc tiêu diệt tha hóa CG. Sau bức bình phong là UBLL giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.



    Thành tích đầu tiên của UBLL, tiếp tay đảng mở đầu đàn áp Công Giáo miền Bắc:



    Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước Noel, trong khi trang trí nhà thờ Chính tòa chuẩn đón lễ, thì Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện. Linh Mục La San Nguyễn Văn Vinh, chính xứ Nhà thờ chính tòa Hà nội kịch liệt phản đối. Hậu quả, Cha Vinh cùng với một nhiều anh chị em trong ca đoàn nhà thờ, có một số em chỉ 15, 16 tuổi bị bắt đi tù.

    Cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội qua tay sai UBLL thực hiện. LM Nguyễn Văn Vinh là người đầu tiên bị UBLL đưa vào tù và chết trong trại Cổng Trời.



    Ông Kiều Duy Vĩnh nhân chứng sống sót trong trại giam Cổng Trời, sau kể lại (2):

    “Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên. Nó thành một cái môtif tức là cái mẫu chung của những người bị bắt”. Bắt vào đây trước tiên vì những cái gì? và cuối cùng là chết thế nào. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế.”



    Cổng Trời và Gulag



    Trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù nổi tiếng thế giới, văn hào Aleksander I. Solzhenitsyn kể lại tỷ mỷ chế độ Liên Xô lúc ấy đã tiêu diệt đạo công giáo, nếu so sánh tình trạng bách hại tôn giáo dưới thời Stalin và cộng sản Việt Nam thì người ta sẽ ngạc nhiên vì cách thức của chúng giống nhau như hai giọt nước. Solzhenitsyn viết:

    “Nguyên một hôm các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Ivangorod, cho đòi Cha Bề trên Iên. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là sĩ quan kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng, được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo, “Mời quá bộ ra đây có chút việc” và yêu cầu Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh tử đạo Savva. Mấy người Nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một hồi xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng.”



    Trong nhiều năm trời, các chủng viện khắp miền Bắc Việt Nam bị đàn áp một cách có hệ thống.



    Linh mục, tu sĩ cũng như chủng sinh và giáo dân đều là nạn nhân của chính sách này. (3)



    Tịch thu tòa Khâm Sứ, tất cả cơ sở, thánh đường Công Giáo, cầm tù các GM, LM nào không quy thuận chúng.



    Cũng như đàn anh đảng cộng sản Trung Hoa(TC) sau khi trục xuất Khâm Sứ Tòa Thánh 1951, Vụ Tôn Giáo (thuộc Công An TC) Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lập ra Hội giáo Hữu Công Giáo Trung Hoa Yêu Nước, viết tắt là CPA (theo tiếng Anh). Dĩ nhiên là do Đảng TC quản lý với nguyên tắc Tam Tự: Tự Trị , Tự Quản và Tự Phong và hoàn toàn do chính quyền TC điều hành và sai khiến, tách ra khỏi Tòa Thánh Vatican.



    Sau khi đơn phương ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chiếm giữ hoàn toàn miền bắc, và một phần miền trung Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra, CSVN không dám hấp tấp, tạo ra quá căng thẳng dẫn đến cắt đứt quan hệ với TT Vatican. Sau Hiệp định Genève 1954, Khâm sứ Dooley vẫn tiếp tục giữ cương vị đại diện chính thức của Tòa Thánh tại Hà Nội đến tận năm 1959. Khâm sứ Dooley chấm dứt nhiệm vụ tháng 3 năm 1959 do vấn đề sức khỏe. Linh mục Driscoll – thư ký Khâm sứ – tạm thời thay thế chức năng đại diện của Khâm sứ Dooley cho tới ngày 15 tháng 9 năm 1959 thì bị phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trục xuất. Trong thời gian từ Khâm sứ Dooley ở Hà Nội, Tòa thánh vẫn không công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (4)



    Âm mưu của cộng sản Bắc Việt nhằm cộng hóa GH Công Giáo hay tách CGVN ra khỏi TT Vatican, không vâng phục vị cha chung kế vị Thánh Phêrô -Ly Giáo- tạo ra một giáo hội Công Giáo trá hình là con rối của đảng csVN, phục vụ chính sách độc tài toàn trị và che dậy tội ác, góp sức vào công cuộc nô lệ hóa người dân Việt Nam đã không thành công bởi hàng giáo phẩm, các Giám Mục các giáo phận kiên trung với đức tin, vâng phục ĐTC một cách tuyệt đối. Không một Giám Mục nào ủng hộ UBLL. mà còn kiên quyết ngăn cấm các LM tham gia tổ chức này. LM nào không vâng lời thì bị vạ tuyệt thông đương nhiên. Tòa thánh thời đó cũng dứt khoát bài trừ đảng cộng sản. Đức Thánh Cha đã ban hành tông thư Divini Redemptoris (Của Đấng Cứu Thế Thần Linh). Vào ngày 15-7-1948, báo Obsservatore Romano, cơ quan ngôn luận chính thức của Toà Thánh đã đăng tải một Sắc Luật chống Cộng, nhằm công bố vạ tuyệt thông tất cả những ai “tuyên truyền các học thuyết Cộng Sản nhằm cổ võ thuyết duy vật và chống báng Kitô giáo”. Vào thời điểm đó, Sắc Luật có chủ đích ra vạ tuyệt thông cho các đảng viên Đảng CS Ý.



    Đức Giáo Hoàng Piô để lại lời phê phán nghiêm khắc nhất của ngài đối với “đại dịch Cộng Sản”. Ngài mô tả nó bằng những dòng và những đoạn như: “cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ và cuộc tận diệt tuyệt đối quyền tư hữu”; “sử dụng mỗi một và mọi phương tiện, cả các phương tiện bạo động nhất”; “sự độc ác và bất nhân của nó”; “cuộc sát hại và tiêu diệt kinh hoàng”; “nó công khai thù nghịch đối với Giáo Hội Thánh Thiện và với chính Thiên Chúa”; “đặc điểm vô đạo đức và vô đạo lý của chủ nghĩa cộng sản”; “dùng bạo lực và sát hại, nó tìm cách tiêu diệt cả xã hội”; “dọn đường cho việc lật đổ và tiêu diệt xã hội”(5)



    Giáo dân Miền Bắc lúc đó nhất mực âm thầm vâng theo lời dạy của các GM, tẩy chay triệt để các LM gia nhập UBLL. với bốn không, không đi nhà thờ, không nhận phép bí tích (từ LM UBLL), không ủng hộ, không tham gia BHG (giúp xứ) để chèo chống con thuyền Giáo Hội Miền Bắc giữa cơn phong ba bão táp. LM Nguyễn Ngọc Nam Phong viết, “GHCG Miền Bắc thật sự may mắn còn có được những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như Cha Chính Nguyễn Văn Vinh, Cha Thông, Cha Oánh, Đức cố Hồng Y Trịnh Văn Căn, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Cha Nhân (Hà Nội), Cha Hân (Bùi Chu), Cha Hy (Thái Bình), Cha Giuse Vũ Ngọc Bích, Thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số các vị ấy đã phải tù đày và nhiều vị đã chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc”.



    Chúng tôi xin ghi thêm một linh mục can trường khác nữa vào “Sổ Đoạn Trường” các vị giáo sĩ bị Cộng Sản Hà Nội bách hại trong thời kỳ này. Đó là Đức Ông Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều, linh mục Phát Diệm, biệt danh là “Cụ Sáu Việt Minh”. “Bên cạnh những vị mục tử can trường còn phải kể tới hàng trăm, hàng ngàn các ông chánh phó trương, các ông trùm họ, các ông chánh hội ca vịnh, hội thanh niên…và các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo Hội. Họ là những người tù không án, tự nhận mình là ‘thanh ngang của cây thập giá Chúa’ mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr.175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là ‘các anh hùng tử đạo’ khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ (3). Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công Giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù”.



    Có thể nói, Giáo hội Công giáo Miền Bắc không bị “cộng sản hóa” vì đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin”.(6)





    (còn tiếp)



    Kỳ 3: Âm mưu và những phá hoại của UBLL dưới sự chỉ đạo của đảng csVN trên đất Bắc)

    _____________



    Chú thích:



    (*) Một linh mục bị vạ huyền chức (bị treo chén) là linh mục đó bị tước bỏ một phần hay toàn bộ các hoạt động thừa tác như một thành viên hàng giáo sĩ, và năng quyền của linh mục đó có thể bị giới hạn. Nói một cách đơn giản, linh mục đó không còn có thể thi hành chức vụ như một linh mục giáo xứ, không cử hành thánh lễ hay mặc lễ phục cách công khai. Mỗi trường hợp lại khác nhau, tùy thuộc vào lý do bị vạ huyền chức, và được nói trong thư của Giám mục gửi đến linh mục đó.


    Giáo luật liên quan đến vấn đề này như sau:


    Ðiều 1333: (1) Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo sĩ; người mắc vạ này bị cấm:
    1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;

    2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;

    3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.
    (2) Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay tuyên bố, người bị huyền chức không thể ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.
    (3) Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:

    1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt;

    2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ

    3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức, nếu là hình phạt tiền kết.

    (4) Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình. https://gpbuichu.org/news/Phung-Vu/mot- ... -5738.html

    (1) Thái độ của các GM miền Bắc với CS (1945-1975)

    http://ttntt.free.fr/archive/vusinhhien.html.

    (2),(3)https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth ... 15316.html

    (4)https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B2a_ ... 3%B2a_Th%C

    3%A1nh_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam,

    (5)http://vietcatholicnews.org/News/Home/Article/249272

    (6)https://www.nguoitinhuu.org/sachtruyen/ ... /ch16.html

    https://hon-viet.co.uk/PhanNhanQuyen_UB ... gCSVN2.htm




              
    ============================================

              






    Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, công cụ đàn áp của ĐCSVN
    (kỳ 3)

    Phan Nhân Quyền



    Kỳ 3:
    Âm mưu và những phá hoại của UBLLCG dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN tại Bắc Việt.




    (VNTB) – Họ đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em.


    Mặt Trận Tổ Quốc sắp xếp một hội nghị trá hình (của những người CG yêu nước) bầu ra linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch, linh mục Hồ Thành Biên phó chủ tịch. Điều hành Ủy ban Liên lạc (thật ra là hoạt động dưới chỉ thị của đảng CSVN) có các linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy viên. (Chính 3 linh mục này sẽ là những người Đảng Cộng sản đưa ra làm nòng cốt cho Ủy ban Đoàn kết ở miền Nam sau năm 1975). Ủy ban liên lạc bị cha Phạm Hân Quynh chỉ trích nặng nề. Do đó, cha Quynh đã bị bắt và bị đi tù trong 30 năm.



    Tại giáo phận Hải Phòng dưới sự cai quàn của ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo, ngài cương quyết cắt các phép (Treo Chén) đối với LM Phạm Quang Phước là cha phó giáo xứ Nam An, Hải Phòng. Và sau này trở thành quản xứ sau khi Cha Già Đa Minh Lương ở Nam Am bị đấu tố cho đến chết đói trong tù.



    ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo cả quyết: “Ủy ban Liên lạc Công Giáo không do Công Giáo đứng ra thành lập mà là do Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đứng ra thành lập và trả lương cho các người tham gia. Những người như Ngô Tử Hạ (chủ tịch UBLL Hà Nội) không hề đại diện cho quyền lợi của người Công Giáo Việt Nam.” Đảng CSVN xử dụng LM Phạm Quang Phước để lôi kéo, phát triển UBLL tại GP Hải Phòng, cũng như phân hóa giáo hội, và chống đối Chủ Chăn quyết liệt khi không thể khuynh loát ngài. LM Phước hậm hực tuyên bố: “Cha Chính mời tôi về cấm phòng, tôi vâng lời, nhưng thấy Đức Cha không thay đổi thái độ, cấm phòng gì lại lễ không được làm, tội không xưng. Ở đây cấm tôi làm lễ, tôi đi Hà Nội tha hồ bánh, tha hồ rượu, khối dầu thánh. Đối với Đức Cha, tôi không có gì, tôi chỉ ở trong Ủy ban Liên lạc Công Giáo thôi. Kinh thánh có câu: Con là thầy cả dòng Melchisedech cho đến đời đời. Ai cách được chức linh mục của tôi. Tôi vẫn là linh mục của địa phận Hải Phòng, của Hội thánh. Có lời khác rằng: Dù thầy cả có tội lỗi thế nào làm lễ cũng vẫn biến bánh rượu thành Mình Thánh Máu Thánh kia mà. Tôi có tội thì tôi chịu có ai phải chịu thay tôi đâu. Đức Cha có phải chịu đỡ tôi đâu. Tôi xưng tội hàng tháng, tôi mở miệng nói một tiếng sẽ có chán thầy cả giải tội cho, còn cha Mỹ rồi sẽ chết một mình không ai làm các phép cho đâu, mà tôi về Hải Dương làm lễ lại cấm tôi. Thánh Phaolô nói trước khi chịu lễ phải xét mình xem có tội gì đã, tôi xét mình chả thấy có tội gì mà, chả cờ bạc, rượu chè, trai gái gì kia mà. Đem truyện Lutero đọc, ám chỉ thằng Phước này đấy, nhưng thằng Phước này có rối đạo đâu. Tôi có dậy có 4 Đức Chúa Giời [Trời] đâu, nếu tôi có giảng Đức Chúa Giời 4 ngôi hẳn giáo hữu họ chẳng nghe theo tôi đâu”. (1)



    Trong lúc giáo phận Phát Diệm cũng khốn đốn bởi chính sách tôn giáo nhất là Công Giáo được nhà cầm quyền CSVN theo đuổi rập khuôn đảng CS Trung Hoa. Có những LM, tu sĩ giáo dân làm tay sai chúng trong tổ chức UBLL tiếp tay đánh phá , gieo bao đau thương cho những mục tử nhân lành cụ thể như ĐC Phaolô Bùi Chu Tạo giám mục chính tòa tiên khởi GP Phát Diệm (1960-1998).



    Cha Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT, kể rằng :

    Năm 1989 lúc tôi rời Miền Bắc để vào Sài Gòn tu học thì Giáo phận Phát Diệm chính thức chỉ còn 9 cha: Trình-Sỹ-Thiều-Vọng-Tường-Quỳnh-Phúc-Hải-Lãm.



    Đã ít thì chớ, lại không được tự do làm việc. Tôi nhớ lúc tôi ở nhà thì có cha Thiều và cha Phúc đang bị nhà nước quản chế thân thể. Các cha khác không bị quản chế thân thể thì cũng bị quản chế mục vụ: các ngài chỉ được làm lễ ở nhà thờ nơi mình cư trú, nếu đến làm lễ ở nhà thờ ở xã huyện khác phải có phép của nhà cầm quyền. Phép này xin được cũng rất nhiêu khê.



    Bản thân ĐC Bùi Chu Tạo lúc đó cũng ở trong tình trạng bị quản chế không tuyên bố. Nhiều lần ngài nói với tôi rằng: “Cha bây giờ như bị giam lỏng ở Nhà Chung này rồi!”



    Ngài chỉ được phép ở Tòa Giám Mục và làm lễ tại Nhà thờ Chính Tòa. Ngài không được đến các giáo xứ. Dù chỉ đi thăm cũng không được chứ đừng nói là đi làm lễ. Chính vì vậy, từ năm 1957 khi ngài rời Tam Châu để xuống Phát Diệm cho đến lúc tôi rời Miền Bắc năm 1989 chưa bao giờ ngài được trở lại giáo xứ Tam Châu quê hương ngài.



    Cha cũng không quên thành tích của UBLL phá giáo hội, dâng đảng. Một số Linh mục và giáo dân gia nhập cái gọi là UBLLCG của đảng tích cực theo dõi và đánh phá giáo hội. Cộng sản còn tìm cách đánh phá Giáo Hội từ bên trong.



    Nhà nước cộng sản đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em. Đó là một số giáo dân làm tai sai cho cộng sản. Số này rất hung hăng. Ngay tại thôn quê tôi, tôi cũng thấy có 2 người, trong đó có một người còn kéo cả vợ con bỏ đạo và đến chết vẫn không sám hối. Trong số khoảng 30 chục cha còn lại của Giáo phận Phát Diệm đã có 2 cha đi theo cộng sản, gia nhập Ủy ban Liên lạc Công Giáo Yêu Nước, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản, tiền thân của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu Nước sau này, để chống phá Giáo Hội.



    Đó là Cha Trinh và Cha Vịnh: Cha Vịnh từng làm Chủ tịch MTTQ Việt Nam. Đức Cha Bùi Chu Tạo đã treo chức hai cha này. Tuy nhiên với sự hậu thuẫn của nhà cầm quyền cộng sản, bất chấp lệnh cấm của Đức Cha, Cha Trinh đã tự ý chiếm nhà thờ Phúc Nhạc và Cha Vịnh đã tự ý chiếm nhà thờ Ninh Bình. Khi Nhà thờ Ninh Bình bị bỏ bom sập thì ngài về họ Chẹo dưới Ninh Bình. (2)



    Tại Hà Nội LM Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tòa thánh Vatican phong Giám mục Giám Quản Tông Tòa GP Hà Nội ngày 15/08/1950. Mặc dù theo nhận xét chung thì Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê qui tụ được một số Linh mục trí thức như các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh. Họ đều du học, có thể là bậc thầy của bốn LM sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là “tứ nhân bang”. Họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, LM Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, LM Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. LM Quynh và Oánh đều bị quản thúc trên 20 năm.



    Khổ nạn chung của GHCGVN dưới sự bách hại của CSVN là UBLLCG như công cụ đàn áp (dùng LM, tu sĩ CG đễ đàn áp Công Giáo). Chính UBLLCG đã cố ý gây ra sự tiếm quyền tại nhà thờ chính tòa Hà Nội Noel 1958. Làm cớ cho nhà cầm quyền bỏ tù cha chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh và ngài đã chết rũ tù tại trại giam Cổng Trời.



    Hà Nội đã chớm cái phong trào Liên Lạc Công Giáo (Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo hiện nay). Có ông Bưởi, ông Ngô Tử Hạ là những tiêu biểu Công Giáo trí thức tiến bộ. Ông Bưởi tự xưng là Trùm xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội, đứng đầu nhóm cấp tiến bình dân, và dĩ nhiên là hung hăng.



    Ở Phương Tây người ta chỉ chú ý cái lễ đêm Noel, bởi đó sửa soạn cờ quạt, đèn sáng cho lễ đêm, dải sao lớn vv…Ở Việt Nam, thì các thành phố mới có vẻ rầm rộ vào lễ đêm. Ở Hà Nội, lễ đêm chỉ người ngoại quốc mới được vào nhà thờ. Người Việt Nam cố gắng dự lễ âm thầm ở sân trường Dũng Lạc.



    Ngày 24.12.1958 chính quyền cho giăng cờ ở trước cửa nhà Nhà Thờ Lớn. Dĩ nhiên là cờ Hội Thánh và cờ Quốc Gia. Không bàn hỏi, thông báo cho ai trong nhà thờ biết, cứ tự động làm. Lúc đó người Công Giáo đề phòng các phong trào Công Giáo tự trị tách rời khỏi Vatican, như các nước cộng sản quen làm. Tự động đem cờ quạt đèn đến trang trí, không báo cho cha xứ, có nghĩa là chiếm nhà thờ. Mọi người nghĩ thế. Để phản ứng lại, cha xứ Nhà Thờ Lớn, cha Căn (sau này là Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn) cho kéo tất cả các chuông nhà thờ trong vòng một tiếng đồng hồ để báo động. Cờ dây đã được mắc, cha Vinh trong Tòa Giám Mục chạy ra. Ngài nóng tính, tự tay giật các dây cờ, trèo lên thang giật các băng cờ trước nhà thờ. Có người phản đối Cha nói việc lễ, tự do tín ngưỡng, ai làm gì thì làm. Cha Vinh bắt chéo hai tay ra đằng sau, nói tự do thế này. Nghĩa là tự do bị trói giật cánh khuỷu. Chuông nhà thờ cứ réo lên, cho đến khi dẹp hết cờ quạt, các băng khẩu hiệu. (3)



    Nói đến thành tích tay sai của UBLLCG tại TGP Hà Nội thì không thể không kể đến Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Cha Phêrô Khải tiếp:

    “Sau khi Thầy Clemente Đạt bị bắt, cũng là thời kỳ khó khăn. Chỉ còn một mình, tôi bị cấm không được đi đâu ra khỏi Hà Nội. Xin thì cho, nhưng có người theo dõi. Dù là đi không xa. Đến nhà thờ Hàng Bột để giúp giải tội với cha Chiễu. Tôi cũng bị nhóm UBLLCG (tội gọi là nhóm lệch lạc CG) theo sát, khiến tôi phải ra về cửa sau. GX Thái Hà bị coi như là ổ gián điệp, người ra vào thăm tôi đều bị ghi số xe. Tôi bị cô lập. Không mấy ai dám đến thăm. Chỉ còn lại hai người thân cận: ông bõ, và ông kéo chuông… Trong những năm chờ đợi giải quyết việc Giám mục Phó Phát Diệm thì xảy ra việc cha Nguyễn Thế Vịnh qua đời.



    Ngài là chủ tịch Ủy ban Liên Lạc Công Giáo, là gốc Phát Diệm, xuất thân từ Đại Chủng viện Thượng Kiệm, học trên Đức Cha Tạo 1 lớp. Trong lúc đưa xác cha Vịnh về quê quán Phát Diệm, tôi xin được quá giang xe của Ủy ban LLCG, bây giờ đã đổi thành Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo (ĐKCG), trên xe mọi người trong Ủy ban nhìn tôi với ánh mắt không mấy thiện cảm. Đến Phát Diệm, ban tổ chức bố trí các khách về dự tang lễ cư ngụ trong một ngôi nhà ở Trì Chính. Cha già Phaolô Nguyễn Chu Trình nói nhỏ với tôi để gợi ý là cả hai chúng tôi nên vào Nhà Chung nghỉ, nhân thể vấn an Đức Cha Chính. Nhưng có một anh ĐKCG nhất định không cho tôi đi”. (4)



    Ngày nay có những người muốn xóa nhòa lịch sử. Nói rằng Ùy Ban Liên Lạc Công Giáo do đảng CSVN không lập ra để tiêu diệt CG (công cụ đàn áp CG), không tác hại gì nhiều đến giáo hội CG miền Bắc lúc đó. Họ muốn làm nhẹ đi vấn nạn, để xí xóa. Thực chất của UBLL không kém phần thâm hiểm, và ác hại như chủ của nó là đảng CSVN (đảng không gầy dựng và nuôi dưỡng tổ chức, cá nhân nào không có lợi cho họ, và không làm theo lệnh của họ). Những sự kiện cụ thể, được nhân chứng lịch sử kể lại. Được nêu ra, trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ tội ác của CSVN và tay sai UBLL gây ra nhằm tiêu diệt CG lúc bấy giờ. GH không bị diệt vong hay trở thành Cộng Giáo như Hán Cộng giáo (Hội Công Giáo yêu nước Tam Tự của đảng TC).



    Ngoài ơn Chúa gìn giữ còn nhờ ba yếu tố quyết định: (đã nói trong bài trước)



    – Giáo Huấn nghiêm nhặt đúng đắn của tòa thánh Vatican.



    – Tất cả Giám Mục các giáo phận đồng lòng trung thành với đức tin tinh tuyền, giữ vững căn tính Công Giáo, yêu mến đàn chiên của Chúa. Các ngài không ngại hy sinh, gian khổ, đồng sinh đồng tử với đàn chiên, sẵn sàng chết để bảo vệ họ, như Mục Tử Tốt Lành Giêsu.



    – Đàn Chiên yêu mến, trung thành với giáo huấn của Giám Mục. Họ cũng dám xả thân để bảo vệ chủ chăn.



    Làm nên một giáo hội hiệp nhất đúng như lời Chúa dạy là cho UBLL bó tay vì bị cô lập, không thể thực thi lệnh của đảng là xé nát sự hiệp nhất của GHCG. Đảng CSVN cũng không thể biến CG thành một giáo hội CG trá hình như các tôn giáo khác.





    (Còn tiếp)
    Kỳ 4: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo yêu Nước hà hơi tiếp sức cho UBLLCG đang hấp hối sống lại. (Lời của ĐC Phaolô Lê Đắc Trọng).

    ____________



    Ghi chú:



    1. http://www.vietcatholic.net/News/Html/249552.htm

    2. https://nhathothaiha.net/nho-vi-muc-tu- ... em-phan-2/

    3. Chứng từ của GM Phaolo Lê Đắc Trọng/

    http://www.vietcatholic.net/News/Html/54286.htm

    4. http://www.giadinhanphong.com/trang-chi ... -hien-cau- chuyen-cua-nhung-cay-dai-thu—cha-gia-vu-ngoc-bich-cssr.

    https://hon-viet.co.uk/PhanNhanQuyen_UB ... gCSVN3.htm



    =============================




    Ủỷ ban Đoàn kết Công giáo
    – Công cụ đàn áp của ĐCSVN
    – Bài 4

    Phan Nhân Quyền






    Bài 4: Uỷ ban Liên lạc Công giáo hồi sinh và đổi tên thành “Uỷ ban Đoàn kết Công giáo yêu nước”



    Nhắc lại bài 3, đã chỉ ra thất bại của đảng CSVN, kế hoạch lập ra một giáo hội CG tự trị như các nước CS khác (tiếm danh CG, do đảng chỉ đạo). Với sự tiếp tay của UBLLCG quy tụ được một số LM, Tu Sĩ và giáo dân phản đạo. Không phải vì đảng CSVN và tay sai kém thâm độc nhưng nhờ TT Vatican, các GM, hầu hết giáo dân giữ vững tình hiệp nhất và kiên vững, không ngại hy sinh trung thành với đức tin Công Giáo thánh thiện, tinh tuyền.

    Đức Cha Phaolo Lê Đắc Trọng kể chuyện. Những giáo sứ do những LM trong UBLLCG trông coi, hoang tàn và tiêu điều. Vì giáo dân không tham gia, đóng góp và tẩy chay cha sứ. Nhiều LM phải sống một mình , nhờ vào trợ cấp của nhà cầm quyền, tự đi chợ, tự nấu ăn và tự túc mọi chuyện chẳng ai giúp. Do đó đến sau 1975, UBLLCG ngoài bắc, không còn sức sống, đang cơn hấp hối.

    Trong khi ở miền Nam VN, một số LM tập kết ra Bắc như : LM Hồ thanh Biên, Lương minh Ký, Võ thành Trinh, Nguyễn bá Lễ. Ngoài ra có LM không tập kết ra bắc ở lại miền nam “nằm vùng”. Lập ra cái gọi là "Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước”. Và sau đó gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam . Tổ chức này lợi dụng hiến pháp tự do dân chủ cùa VNCH và núp bóng Công giáo, ủng hộ MTGPMN chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Gồm có một số LM tích cực, cầm đầu như: LM Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Vương Đình Bích, Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Ái, Nguyễn Nghị …..

    Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, CSVN và cùng với UBLLCG đã lợi dụng được tình thế chính trị và tâm lý của giáo đoàn Công Giáo miền nam, mặc cảm, thua cuộc, bỏ chạy và sợ hãi. ĐC Phao Lô Lê Đắc Trọng viết: ”Người Công giáo miền bắc chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này… Cũng may là những linh mục hay giáo dân lãnh đạo được lựa chọn, ở những thành phần không đạo đức, nên ít ai theo; nhưng họ lại có quyền của nhà nước, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa biết bộ mặt của họ. Vì thế, nó đã sắp tàn nếu không có miền Nam đến tiếp sức và hồi phục nó dưới nhãn hiệu mới “Ủy ban Đoàn kết”. Uỷ ban này có lãnh đạo trí thức (các linh mục bằng cấp), tìm được đất màu mỡ ở miền Nam và sống mạnh, nhờ vào việc thay đổi chiến thuật….” (HK toàn tập, Phần Hai – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 260-261).

    Dù là lấy danh hiệu gì, thay họ đổi tên bao nhiêu lần thì UBĐKCG cũng chỉ là tập hợp những tên Giuda thời đại, là tay sai một thứ công cụ của đảng CSVN xử dụng để đàn áp Công Giáo, kiểu “Lấy củi đậu, nấu đậu” để che mắt thế giới, tránh né bị chỉ trích vi phạm nhân quyền . Sau khi chiếm được MNVN, Cộng sản say men chiến thắng, những tên Giuda thời nay cũng dựa hơi thừa thắng xông lên. 1975 là thời điểm chủ nghĩa CS quốc tế, cầm đầu là Liên Xô, và Trung Cộng cũng đang cao trào. CSVN ra tay đàn áp khốc liệt, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo không loại trừ Công Giáo. Nhà thờ, đền Chùa, thánh thất, các công trình tôn giáo không bị phá bỏ cũng bị chiếm đoạt dưới mọi hình thức. Học theo các đàn anh CS quốc tế, CSVN thu dụng những thành phẩn Tu Sĩ hèn nhát, ích kỷ, chỉ mưu cầu quyền thế lợi lộc cá nhân (tất nhiên được che đậy kỹ càng) phản lại lý tưởng tôn giáo của họ. CSVN lập ra những “tôn giáo&” song song, một bản copy hình thức, tiếm danh tôn giáo chân truyền: như Phật Giáo Việt Nam, Cao Đài chi phái 1997, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành quốc doanh. Những tổ chức này trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) hoàn toàn lệ thuộc đảng CSVN. Tương tự UBĐKCG cũng hoàn toàn dưới quyền điều khiển trực tiếp, nhận lệnh từ MTTQ.

    Nhóm “Công Giáo Tiến Bộ” (là những LM chủ chốt trong cái gọi là “Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước”) họ dùng danh xưng khác đễ chiêu dụ nhưng tu sĩ, giáo dân ngây thơ nhẹ dạ. Phát động song hành 2 cuộc đấu tranh nhắm vào 2 mục tiêu: một là trục xuất Đức Khâm Sứ; hai là buộc Đức TGM Phanxicô Nguyễn Văn Thuận phải từ chức Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn (do sắc phong của Toà Thánh ngày 25-4-1975). Nhiều sách vở đã kể về vụ Đức TGM Nguyễn Văn Thuận bởi vì Ngài quá nổi tiếng. (Giáo Hội đang xúc tiến việc tuyên thánh cho Ngài). Ở đây, chúng tôi chỉ tường thuật vụ Đức Khâm Sứ, bởi vì chủ đề loạt chuyện của chúng tôi trong sách này là của LM Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, bí thư Toà Khâm Sứ. Cha Thụ cũng là chứng nhân của các vụ việc xẩy ra liên quan tới Đức Khâm Sứ. Thành phần của “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã ký tên vào bức tâm thư “Gởi Anh Chị Em Công Giáo

    Miền Nam Việt nam” (nội dung cáo buộc Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre một số tội và đòi Ngài phải ra đi) gồm có 8 tổ chức:

    Phong Trào Thanh Lao Công Phong Trào Công Giáo và Dân Tộc Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế (rất ít)

    Nhóm Liên Tu Sĩ Trẻ (rất ít)

    Phong Trào Công Giáo Xây Dựng Hoà Bình (ma)

    Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Đại Học (rất ít)

    Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo (ma)

    Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo (rất ít)

    Thực sự thì hầu hết các tổ chức kể trên chỉ có dăm ba thành viên, thậm chí chỉ là tổ chức ma mới “thành lập” hoặc là một người mà tham gia mấy tổ chức, nhưng đã được những kẻ giật dây nặn ra, cốt để gây thanh thế.

    Hai thành phần chính yếu trong “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” là các linh mục và các sinh viên Công Giáo “tiến bộ”. Các linh mục “tiến bộ” gồm có: Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Văn Hoà, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Trinh, Nguyễn Văn Huệ, Đinh Bình Định…

    Đông hơn cả là nhóm sinh viên Công Giáo “tiến bộ” (không loại trừ là những cán bộ đảng viên do CSVN gài vào ). Những tay tranh đấu hung hăng nhất trong nhóm này là: Nguyễn Văn Ngọc, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Xuân Hàm, Vũ Sĩ Hùng, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Ziên Hồng, Phạm Văn Phổ, Nguyễn Văn Hồng, Trịnh Viết Trung, Dương Thị Hoè, Phi Nga…

    (Xem Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975 của Nguyễn Antôn. Dân Chúa xuất bản 1988. Trang 225).

    Theo một số tác giả từng là chứng nhân tình hình sau 30-4-1975 thì Cộng Sản đã dùng chiến thuật dùng chính người Công Giáo để đánh phá Giáo Hội Công Giáo Miền Nam, mà tên giáo gian đầu sỏ chính là Nguyễn Đình Đầu.

    Một trong số các tác giả ấy là Lữ Giang, tức thẩm phán Nguyễn Cần (VNCH), đã viết: “Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đứng đàng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này” (Lữ Giang. Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam. 1994. Trang 200)…

    Ông viết tiếp: “Trong cuốn ‘30 tháng 4’ do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản” và “… Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giật giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công… đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu” (Lữ Giang. Sđd. Trang 220, 221). Để đạt mục tiêu trục xuất Đức Khâm Sứ, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã tổ chức 3 cuộc biểu tình đấu tranh:

    – Lần thứ nhất: Ngày 02-4-1975, họ kéo tới biểu tình trước Toà Khâm Sứ đường Hai Bà Trưng. Họ đòi Đức Khâm Sứ phải ra đi. Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và can đảm. Ngài từ chối yêu sách của nhóm tranh đấu và dứt khoát không rời khỏi Việt Nam nếu chưa có lệnh của Toà Thánh. Lúc này, Cộng Sản chưa chiếm được Sài Gòn, cho nên “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” chưa có hành động thô bạo.

    – Lần thứ hai: Ngày 14-5-1975, tức là lúc Miền Nam đã lọt vào tay Cộng Sản, nhóm đấu tranh tỏ ra hết sức hung bạo. Đi đầu là Nguyễn Phúc Khánh, bọn họ trèo tường đột nhập Toà Khâm Sứ, dùng búa đập bể ổ khoá cổng để đám đông tràn vào. Mấy tay xông xáo hơn đã trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ cờ Toà Thánh xuống. Bọn họ dùng lời lẽ của phường bất hảo để thoá mạ, hò hét. Mỗi lần hô “Đả đảo! Đả đảo!”, “Henri Lemaitre cút đi, cút đi…!” thì cả bọn đồng loạt giơ lên cao những nắm đấm, y hệt một hoạt cảnh bần cố nông đấu tố địa chủ ở Miền Bắc hồi 1954. Sau đó, họ dùng vũ lực xô đẩy Đức Khâm Sứ, linh mục phụ tá nguời Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi cổng Toà Khâm Sứ, rồi đóng cửa lại.

    Trong đợt đấu tranh bạo động này, người ta nhận diện 3 linh mục nổi bật: LM Phan Khắc Từ xách động bên trong Toà Khâm Sứ, LM Huỳnh Công Minh chụp hình liên tục (để báo cáo), còn LM Thanh Lãng thì đứng bên kia đường để “lược trận”. (2)

    Rập theo chủ trương của Cộng Sản là dùng bất cứ phương tiện nào miễn là đạt mục đích. Trong những lần đối thoại giữa đôi bên, những tay cầm đầu “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” bất chấp tất cả, đã dám đe doạ Đức Khâm Sứ: “…nếu Đức Khâm Sứ không chịu từ chức và ra đi, thì người ta bắt buộc phải dùng đến một biện pháp “rất đáng tiếc”. (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 220).

    – Lần thứ ba: Tối ngày 03-6-1975, “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” lại tổ chức biểu tình tại Toà Khâm Sứ.

    Lần này xẩy một sự việc đau lòng. Đó là khi nghe tin Toà Khâm Sứ lại bị “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” quậy phá, hàng ngàn giáo dân trẻ thuộc giáo xứ Bùi Phát kéo nhau đi giải vây cho Đức Khâm Sứ. Đoàn người bị bộ đội Cộng Sản ngăn chặn tại cầu Trương Minh Giảng, một giáo dân bị bắn chết, LM Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt giữ.

    Chiến dịch đánh phá của “Nhóm Công Giáo Tiến Bộ” đã lộ nguyên hình họ là những tên “Giu Đa bán Chúa” bởi vì hành động của họ tạo nên cái cớ rất tốt, rất đúng lúc để chính quyền Cộng Sản ra tay. Thật vậy, ngay sáng hôm sau, ngày 04-6-1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời MNVN đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đến để bảo cho biết: “Ngài nên lánh khỏi Việt Nam trong một thời gian, và càng sớm càng tốt, nếu không sự hiện diện của Ngài sẽ không còn được bảo đảm” (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 221). Theo ngôn ngữ ngoại giao phải hiểu đây là lệnh trục xuất. Đức Khâm Sứ phải lấy máy bay để rời khỏi Sài Gòn vào hôm sau 05-6-1976.

    Đức Khâm Sứ đi rồi, linh mục phụ tá người Ba Lan yêu cầu linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ phải vào ở thường trực trong Toà Khâm Sứ để phụ với ông đối phó với tình hình mới.

    Nghe biết tin này, từ Vatican, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Jean Villot gửi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà MNVN một bức thư nói: “… rất đau lòng khi hay tin… và sẵn sàng mở những cuộc tiếp xúc cần thiết…” (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 222).

    * http://vietcatholic.org/NewsComposer/Ho ... cle/221147

    Trên đây là chiến công đầu tiên của UBDKCG (lúc còn chưa đổi tên ) công khai chống lại giáo hội CGVN, dâng đảng làm quà mừng chiếm được MNVN, thống nhất quyền thống trị của đảng CSVN trên cả nước vực dậy tinh thần cho UBLLCG ở Bắc Việt. Để cùng nhau cung cúc tận tụy, phục vụ csVN, cùng tiến đến thống nhất dưới danh xưng Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước . Ngày 10 tháng 11 năm 1983, quyết định thành lập Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam. Chủ tịch là linh mục Nguyễn Thế Vịnh, các phó chủ tịch gồm các linh mục Phạm Quang Phước, Phêrô Võ Thành Trinh , Vương Đình Ái, Huỳnh Công Minh.

    Bắt đầu từ thời điểm đó UBĐKCG với những thành phần LM, Tu Sĩ, và Giáo dân phản lại GHCGVN, chính thức tiếp tay CSVN kiểm soát, khống chế TGM Phao lô Nguyễn Văn bình và các đời TGM sau này. Đến nỗi Cố GM Phaolô Lê Đắc Trọng phải than: ” Ôi ! thế là Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi ….” Đức Cha nói thế này “Một Đức Giám Mục nói về Tổng Đại Diện của mình đang thao túng mọi việc trong Giáo

    phận mà vị đó đã là và nay vẫn còn tinh thần patriot, Toà Thánh đã biết, dư luận chống đối, muốn vị đó từ chức ». Đức Giám Mục nói: "Ông ấy tốt, giúp nhiều việc, làm sao bãi chức ông được. Khi nào tôi chết, tức khắc ông ấy hết quyền”. Bi đát làm sao! Truyện thật 100%! Những ấn loát muốn được ra mắt, phải dán nhãn hiệu “;Đoàn Kết” Các tác phẩm mất giá một phần, bị nghi ngờ. Nay dưới nhãn hiệu “Xuất bản của Toà Tổng Giám Mục”

    Đức cha cay đắng kết luận: “Lãnh tụ đã vào ngự toà rồi!”; (trang 261-262 hồi ký GM Phaolo Lê Đ Trọng ) như thế mọi người hiểu rằng TGM nào rồi? Tổng đại diện HCM còn ai vào đây (được mệnh danh là TGM không ngôi ).

    ** https://www.saigonecho.org/main/doisong ... phaolo-le- c-trng.html

    Đương nhiên những chuyện như thế TGM không dám công khai tố cáo với công luận với giáo dân. Ép buộc TGM từ bỏ tên cũ TGP Sài Gòn.

    Phải lấy tên của một tên vô thần, tay sai CS quốc tế, giết dân lành không chớp mắt, rước chủ nghĩa Cộng Sản tàn độc chống lại Thiên Chúa, vào cưỡi đầu cưỡi cổ dân tộc khốn khổ Việt Nam. Lấy Hồ Chí Minh đặt tên cho TGP (chỉ có TGM được yêu cầu Tòa Thánh đổi tên).

    Ôi! xấu hổ thay. Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ than: “Tôi là một LM Công Giáo, rất là xấu hổ, đau đớn việc một Tổng Giáo Phận của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải mang tên của Hồ Chí Minh là lãnh tụ của một chế độ đã và đang thẳng tay đàn áp tất cả các tôn giáo tại Việt Nam, là một điều đau khổ và tủi nhục cho những người Công giáo Việt Nam chân chính. Đã 29 năm qua, những người Công giáo Việt Nam phải cúi đầu im lặng trước tình trạng này dưới áp lực của một số giáo sĩ trong Tổng Giáo Phận Sài Gòn cấu kết với chính quyền Cộng sản gây ra.”

    *** http://www.tonggiaophansaigon.org/index.html

    Kỳ 5: Những thành tích chống phá GHCGVN của UBĐKCG. 15/08/2023 (nhớ 48 năm ngày nhóm Giuda thời nay giao nộp TGM phó FX Thuận cho CSVN)
    [email protected]

    https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban- ... svn-bai-4/




    ================================================






    Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo:
    Công Cụ Đàn Áp của Đảng Cộng Sản Việt Nam
    Bài 5

    Phan Nhân Quyền



    Bài 5. Những thành tích chống phá Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (Tiếp theo bài 4)




    3/ Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (UBĐKCG) chống lại giáo luật. Canon (Giáo Luật) 285, §3 viết rằng: “Giới Giáo Sĩ không được phép đảm nhận các chức vụ công, có liên quan đến sự tham dự vào việc thực thi công quyền.”
    Tức các linh mục (LM) không thể đảm nhận các vị trí công quyền vốn đòi hỏi việc thực thi các quyền hành về mặt hiến pháp, hành chánh và pháp lý.
    Canon 287, §2 viết rằng: “Giới Giáo Sĩ không được phép đóng một vai trò tích cực trong các đảng chính trị và theo khuynh hướng của các công đoàn trừ phi nhu cầu để bảo vệ các quyền lợi của Giáo Hội hay để cổ võ lợi ích chung mà qua đó có được sự suy xét/quyết định hay phán đoán của giới giáo quyền…”
    Hiện nay rất nhiều LM tham gia UBĐKCG, một tổ chức chính trị của ĐCSVN, do Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) trực tiếp cai quản. Ngoài ra còn tham gia cơ quan công quyền, cụ thể là Hội đồng Nhân dân và Quốc Hội.

    4 / Bôi nhọ, bịa đặt kết tội các Thánh Tử Đạo VN (TĐVN). Cổ động, tiếp tay và xuyên tạc chống lại quyết định phong thánh của Tòa Thánh Vatican cho các Thánh TĐVN. Trang Web Vietcatholic viết, “Nhưng lại có một thế lực khác phản đối việc tuyên thánh, phản đối kịch liệt và hùng hổ hơn cả nhà nước. Nhóm này phản đối có vẻ làm cho người dân tin hơn, vì họ tự xưng là Công Giáo. Đó là UBĐKCG yêu nước mà người dân hay gọi là “ỷ ban đàn két”, và tờ báo giả danh Công Giáo, có tên là “Công Giáo và Dân Tộc” (CG&DT). Vì có từ “Công Giáo”, nên một số người lầm tưởng họ là Công Giáo thật. Nhóm ấy và báo ấy dùng những lời lẽ cực kỳ thâm độc, nặng nề để thóa mạ Tòa Thánh và các chủ chăn ở Việt Nam. Họ cũng ra sức nói xấu các Thánh Tử Đạo.”(1)

    5/ Đức Tổng Giám Mục (TGM) Huế Philipphê Nguyễn Kim Điền có thái độ cương quyết với những LM tham gia UBĐKCG, sẵn sàng kỷ luật những LM không vâng lời (đã có treo chén một vài LM). Nhà cầm quyền CSVN sợ UBĐKCG tan vỡ và để răn đe giáo quyền. đã đầu độc giết chết Ngài. Tuy không có bằng chứng rõ ràng UBĐKCG trực tiếp nhúng tay vào vụ án này nhưng đó chính là nguyên do mà nhà cầm quyền cố tâm giết ngài.


    Đây là lời chứng của cha Tadeo Nguyễn Văn Lý:

    “Ngài lặp đi lặp lại nhiều lần, tại nhiều nơi, “VN chưa có tự do tôn giáo thực sự. Nhiều lần, Ngài viết thư cho Hội Ðồng Giám mục Việt Nam và Linh mục Nguyễn Hữu Vịnh, Chủ tịch UBÐKCG chứng minh rằng GHCGVN đang bị bách hại thực sự; và Giáo Hội đã có Hội Ðồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt Giáo hội, liên lạc với Chính quyền Cộng sản, không cần có thêm một Ủy ban nào hết. Nếu UBÐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HÐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong Giáo hội.” (Tại nhiều giáo phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBÐKCG nầy lèo lái, sắp đặt). Ngài viết: “Ai không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp” (Ga 10,1).

    Đức TGM Nguyễn Kim Điền phải tìm cách chuyển các tài liệu ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây ra bao nhiêu đau khổ. Rất tiếc, hiện nay tất cả các tài liệu này có lẽ đã bị một LM của Tòa TGM Huế thiêu hủy năm 1994 (đành phải dấu tên cho linh mục ấy). Khi đó, có một nữ tu thấy và biết, khóc lóc xin đừng làm như thế, nhưng LM này vẫn không nghe, vì cho rằng những tài liệu ấy không phù hợp và có hại (?!). Tôi chưa thể có đủ điều kiện kiểm chứng lúc này được. Hy vọng vẫn có ai đó trên trái đất này còn cất giữ được. Nhiều linh mục, tu sĩ khác bị triệu tập làm việc rất căng thẳng. ÐTGM Ðiền càng đau buồn. Ngài đã nói một câu rất thời danh: “Xưa nay đã có nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đã chết vì Ðạo, nhưng đã có mấy ai dám chết vì quyền con người?” Như thể ngài đã chết, như thầy chí thánh Giêsu của ngài cũng bị treo trên thập giá vì con người và nhân phẩm.”.

    Sáng 6-6-1988, cả 2 linh mục Huế: Vệ và Hoàng theo chăm sóc ngài đều vắng mặt. Ngài có người em ruột là Nguyễn Thị Thủy, Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (quen gọi là Dì Sáu) thường trực bên cạnh ngài rất chu đáo, cẩn thận, không để ngài uống thuốc gì mà không kiểm tra chặt chẽ. Nhiều nữ tu Huế xin được vinh dự chia sẻ gánh nặng túc trực chăm sóc Ngài. Sáng hôm đó, nữ tu Nguyễn Thị Quí, Dòng Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm Huế, xin phép thay nữ tu Thủy để được săn sóc Ngài. Sơ Thủy không chịu, hai người giằng co nhau, nên Ðức Tổng nói: “Thôi em để cho người ta săn sóc một lát, em về nghỉ ngơi đôi chút”. Lợi dụng chỗ sơ hở này, khoảng từ 10 giờ đến 11 giờ ngày 06-06-1986, một cô y tá đến trao cho Ngài một nắm thuốc. Ngài hỏi cô y tá: “Cô cho tôi uống thuốc gì vậy?“. Cô trả lời rất cộc cằn lỗ mãng: “Nhiệm vụ của ông là phải uống những gì chúng tôi điều trị ông, không được hỏi lôi thôi gì cả“. Ngài rất phân vân. Cuối cùng Ngài bằng lòng uống. Uống xong, ngài cảm thấy rất đau đớn. Ngài hỏi cô y tá: “Cô biết tôi mấy giờ nữa thì chết không?“. Cô y tá ấy hốt hoảng và run sợ trả lời: “Con lạy cụ, xin tha lỗi cho con. Việc này là do cấp trên.” Ðức Tổng trả lời: “Không những tôi tha lỗi cho cô mà thôi, tôi còn tha thứ cho cả cấp trên sai cô làm, tôi tha thứ hết“. Sau đó, thấy dì Sáu vào, ngài nói với Dì Sáu: “Chén đắng Chúa trao anh đã uống xong. Xin trọn theo ý Chúa“. Dì Sáu báo cho cô y tá biết ngài đau đớn lắm. Khoảng 12 giờ 30 trưa, cô y tá ấy trở lại cho ngài uống một liều thuốc khác. Sau đó ngài bị tiêu chảy liên tục cho đến chết, không cầm lại được. Các nhân chứng hiện nay đều còn sống, một số nữ tu cần tạm dấu tên một thời gian.(2)

    6/ Giả mạo truyền thông Công Giáo, dùng tờ báo CG&DT để lừa mị giáo dân, giáo quyền, cắt nghĩa sai lạc đức tin Công Giáo. Đôi khi bài bác cả Đức Thánh Cha và Tòa Thánh Vatican. Với danh xưng “Công giáo và Dân tộc”, tờ báo này đã khiến nhiều người nghĩ rằng, nó được điều hành bởi Giáo Hội Công Giáo. Cộng thêm được một số giáo sĩ nổi tiếng cũng tham gia viết bài, tiếp tay cho tờ báo này như Đức TGM Bùi Tuần, LM Thiện Cẩm, LM Nguyễn Hồng Giáo lại càng làm cho nhiều người xác tín hơn đó là tờ báo của Giáo Hội Công Giáo. Trong lúc Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt trả lời “Viết cho báo ấy xấu cả người, loại Công Giáo nhãn mác “giả mạo” khi xin bài của GM”. Trang bách khoa Wikipedia cho biết báo này chưa hề được Công Giáo VN công nhận: “CG&DT là một tờ tuần báo Công Giáo xuất bản tại Việt Nam, ra đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1975. Tờ báo này mặc dù mang nội dung Công Giáo nhưng chưa hề được Giáo Hội Công Giáo (GHCG) công nhận là cơ quan truyền thông của họ. Hiện nay, báo này không thuộc bất kỳ tổ chức nào của GHCG mà nó thuộc sự quản lý của UBĐKCG”.
    Cũng xin ghi chú: UBĐKCG là một tổ chức của Nhà Nước, của Đảng Cộng Sản, không có liên quan gì đến Giáo Hội. Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh có lần nói nhà cầm quyền có đặt vấn đề với ngài, cung cấp mỗi năm 2 tỷ đồng để tổ chức ủy ban này mà ngài từ chối. Lý do thì bấy giờ ai cũng biết rồi.”(3)

    Một LM ở Sài Gòn nói với chúng tôi một nhận xét rất xác thực, “Trò lưu manh của CG&DT là nó dựng lên một GHCG giả với tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi. Rồi nó đánh Giáo Hội đó để quảng cáo cho cái thiên đường mù xã hội chủ nghĩa với đầy dẫy tất cả những xấu xa, bất công, đồi bại, hủ lậu, bảo thủ và tội lỗi rất thật”.

    7/ Làm bình phong che đậy những vi phạm nhân quyền, giải độc với những chỉ trích lên án của quốc tế. Về việc CSVN đàn áp khốc liệt các tôn giáo. và khai gian về tù nhân lương tâm tôn giáo mỗi khi cần điều trần hay có báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc (LHQ) thanh tra về nhân quyền, về tự do tôn giáo.

    Truyền thông trong nước loan tin về việc tiếp đón của những bộ ngành và các tổ chức tôn giáo nằm trong hệ thống Nhà nước đối với phái đoàn do báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo, tín ngưỡng của LHQ, ông Heiner Bielefeldt, dẫn đầu đến làm việc ở Việt Nam từ ngày 21 đến 31 tháng 7, 2014.

    Đó là những cuộc gặp ở Hà Nội vào các ngày đầu làm việc của phái đoàn với đại diện Bộ Tư Pháp, Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ. Và tiếp đó là gặp UBĐKCG, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.” (4)

    8/ UBĐKCG tích cực thực hiện âm mưu chia rẽ, phân hóa Giáo Hội, kiểm soát và kiềm chế các GM, theo lệnh của Đảng. Huỳnh Công Minh, LM Tổng đại diện ba đời TGM tại TPHCM, là trùm UBĐKCG cũng là người kiểm soát Đấng bản quyền (TGM). Ép buộc đổi tên Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Tuyên thệ với Đảng CSVN nhưng ông ta vẫn làm chủ TGP HCM cho đến khi già yếu. Dưới đây là lời tuyên tín với đảng CSVN. đặt Thiên Chúa dưới Đảng.

    “Báo cáo chính trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô Giêsu mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.

    “Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu Chủ Nghĩa Xã Hội, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay sai”.(5)

    Nên Logo của UBĐKCG đặt thánh giá dưới cờ Đảng là đúng như lời ông ta phát biểu (những người CG tin vào Chúa cũng không thể có “hạnh phúc” nếu không có Đảng).

    Tại giáo phận Xuân Lộc, một LM (xin giấu danh tính) trực tiếp cho người viết biết hiện nay hầu hết các LM hạt trưởng đều có chân trong UBĐKCG, và cổ động các LM trẻ trong hạt tham gia UB này. LM nào tham gia thì làm gì cũng thuận lợi, được phép của cả chính quyên, giáo quyền.

    Ông nói, “LM nào không gia nhập thì bị bó tay bịt miệng không được đi đâu, làm gì cũng bị khó khăn, xách nhiễu. Nếu còn lên tiếng cho Công Lý, Sự thật, nặng thì “Treo Chén”, nhẹ thì cho “ngồi chơi xơi nước”. Vị LM này nói thêm rằng, “Giáo phận Xuận Lộc dẹp bỏ Ban Công Lý Hòa Bình, thay thế bằng hội Doanh Nhân CG giống giáo phận Vinh” [thì cũng là một loại UBĐKCG].

    Cha Phêrô Nguyễn Văn Khải phải nhắc lại lời ta thán của Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, “Thật là đau đớn! Sài Gòn là đô thị lớn nhất nước, tập trung đông linh mục và tu sĩ nhất nước, vậy mà lòng trung thành với GH lại thấp nhất nước và trong quá khứ đã để cho thế quyền can thiệp vào GH nhiều nhất nước. Can thiệp ngay từ trong Tòa Giám Mục”. Trong Hồi ký của mình, Đức cha Phaolô Lê Đắc Trọng, phải than lên rằng, “Than ôi Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi!” GM cho biết thêm, “Thế mà trên thực tế lại giải quyết không được, vì có bàn tay của UBĐKCG xen vào”.

    Nhóm UBĐKCG biết bản lĩnh của Đức cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi và đường hướng của Ngài. Họ sợ rằng Ngài về Sài-Gòn sẽ làm họ mất ảnh hưởng. Tức thì cùng với dịp UBND TPHCM công bố văn thư không chấp nhận Đức cha Huỳnh Văn Nghi, ngày 03.09.1993 nhà báo Hương Khê tức linh mục Trương Bá Cần đã viết bài “TPHCM thêm một Giám quản Tông tòa” trên báo CG & DT để tấn công Đức cha Nghi và Tòa Thánh. Các báo khác của nhà cầm quyền trong thời gian này cũng có nhiều bài tương tự. Nhóm UBĐK bằng đủ cách khác nhau đã mượn bàn tay thế quyền để đảo ngược dự định ban đầu đã được thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Chính phủ Việt Nam.

    Vụ việc kéo dài gần 5 năm và đến ngày 01.03.1998 mới được giải quyết khi Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha GB. Phạm Minh Mẫn làm TGM Sài Gòn mà những ai có mặt lúc đó ở Sài Gòn và quan tâm đến thời sự Giáo Hội thì biết, trong số những điều kiện nhà nước chấp thuận Đức cha GB. Phạm Minh Mẫn về Sài Gòn lúc đó có ba điều:

    1- Không được đụng đến UBĐKCG,

    2- Không được cho LM Huỳnh Công Minh nghỉ chức Tổng Đại diện và cha sở Chính Tòa,

    3-Không được cho LM Phan Khắc Từ nghỉ chức Chánh xứ Vườn Xoài.(6)

    Kể sao cho hết những hoạt động phá hoại GH của UBĐKCG cùng những hành động, tư tưởng nguy hại của UBĐKCG qua các can thiệp của họ, qua các sách vở họ xuất bản và qua tờ báo CG&DT. Trước khi được thành lập (đổi tên thì đúng hơn) thì UB này đã là những tay sai đắc lực để phá hoại và tha hóa GH từ đó đến nay, ngày càng phát triển rộng khắp các giáo phận.

    Kỳ 6: UBĐKCG đã và đang tha hóa GHCGVN. (Những tảng băng chìm)

    Tham khảo

    (1)https://vietcatholic.net/News/Html/243799.htm

    (2)https://vntaiwan.catholic.org.tw/y2vienam/19vieton.htm

    (3)http://www.vietcatholic.net/News/html/243094.htm

    (4)https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth ... 053429.htm

    (5)Thông tấn xã VN, 7/7/77

    (6)Trích trong( CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA CSVN: KIỀM CHẾ -PHÂN HÓA-THAO TÚNG CHỨC SẮC, BIẾN TÔN GIÁO THÀNH CÔNG CỤ CỦA CHẾ ĐỘ .phần 2) của LM Phêrô Nguyễn Văn Khải.

    https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban- ... iet-nam-2/




    =====================================





Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cái Chết của Cha tôi

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Cái Chết của Cha tôi
    Giao Chỉ San Jose





    Chuyện tượng đài tại Việt Museum



    Cô Hoàng Mộng Thu vừa lên radio thông báo về việc San Jose thực hiện bức tường tưởng niệm các vị anh hùng Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết. Trong 7 vị anh hùng dự án lựa chọn có hình ảnh của Trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long. Hình ảnh do 1 thân hữu gửi đến. Sinh quán chưa biết rõ, năm sinh chưa tìm ra. Bỗng một hôm có người gọi cho cô Thu. Thân nhân của ông Long là chúng tôi đây. Hình này không chắc là hình của cha tôi. Bà là ai vậy? Tôi là con gái của ông Long. Thưa bà ở đâu gọi vậy. Tôi ở San Jose đây này. Tôi ở đây đã 11 năm rồi.


    Bức tường tưởng niệm sẽ dựng tại San Jose và hình ảnh lịch sử tại Sài Gòn, Trung tá Nguyễn Văn Long tự sát tại tượng đài TQLC VN.


    Cô Thu bèn điện thoại cho bác Lộc. Chết rồi bác ơi. May mà mình còn đang quyên tiền. Chưa làm hình trên đá. Hình đó không phải của ông Long. Con gái ông nói chuyện với cháu đây này. Nhưng chuyện không hay mà lại thành duyên kỳ ngộ. Tìm kiếm bao năm nay để xin tin tức, bây giờ gặp may. Tôi phải liên lạc gấp với gia đình Trung tá Long ngay tại San Jose.



    Nhắc chuyện năm xưa


    Khi nhận ngôi nhà làm Viện bảo tàng năm 2003 cách đây 10 năm, tôi đã có ý muốn ghi lại hình ảnh các vị anh hùng tuẫn tiết. Chúng ta thường nghe nói danh tiếng của 5 vị tư lệnh tự sát được gọi là ngũ hổ tướng. Sau đó có bài viết nhắc nhở đến vị anh hùng thứ sáu là đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tại Cần Thơ. Chúng tôi bắt đầu lưu tâm tới vị anh hùng thứ bẩy là Trung tá Nguyễn văn Long. Không ai có được hình ảnh của 6 vị anh hùng đã hy sinh ra sao. Cả trường hợp đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tháng 8- 1975 tại Cần Thơ cũng không có hình ảnh. Trên internet có phổ biến hình tên cộng sản dí súng vào đầu ông Cẩn. Đây là hình chụp trong một vở kịch. Riêng hình Trung tá Long chết vào buổi trưa ngày 30 tháng 4-75 là hình ảnh đăng trên hầu hết các báo hải ngoại, và sau này thì tràn đầy trên internet. Quả thực tấm hình này gây xúc động lớn lao cho toàn thể báo giới tây phương vào thời kỳ tháng 4 -1975 đã 38 năm qua. Tôi được thấy tấm hình này lần đầu trong thư viện thành phố Springfield ở Illinois. Trên tạp chí Newsweek đã cũ vào năm 1976. Xuất xứ nguyên thủy là hình trên báo Pháp. Tờ Paris Match. Tấm hình này và chỉ cần 1 tấm hình này đã làm mờ nhạt tất cả các hình ảnh tang thương khác của miền Nam vào ngày quốc hận.



              

              

    Trung tá Long là người đầu tiên đáp lại lệnh bỏ súng đầu hàng của tổng thống cuối cùng Dương văn Minh. Ông tự sát rồi buông súng. Bức hình chụp được phổ biến cho thấy ông nằm nghiêm chỉnh dưới bức tượng xung phong của thủy quân lục chiến trước tòa nhà quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Có nhiều người chứng kiến nhưng không ai là nhân chứng kể lại giây phút cuối cùng. Dường như có người đã sắp xếp lại di hài vị anh hùng mang cấp bậc Trung tá cảnh sát. Hai tay để ngay ngắn trên bụng. Nón trước ngực. Tấm hình chụp thật rõ ràng. Ai đã sắp xếp lại. Đồng bào miền Nam hay anh phóng viên chụp hình cho tờ báo Pháp. Bức hình của người sĩ quan bại trận nằm yên nghỉ nhưng hết sức lẫm liệt. Đó chính là vị tử sĩ thứ bẩy chúng tôi muốn đưa vào danh sách tiêu biểu của tượng đài anh hùng. Chúng tôi cần có tấm hình, ngày và nơi sinh. Đi truy tầm suốt 10 năm không thấy. Chợt tìm ra đáp số vào đêm nay 5 tháng 8- 2013. Tôi gọi điện thoại cho bà Tâm là con thứ ba của Trung tá Long. Nhận được câu trả lời hết sức rõ ràng đơn giản. Trung tá Nguyễn văn Long sinh tại Phú Hội, Huế ngày 1 tháng 6 năm 1919. Ông ra đi năm 1975 lúc đó 56 tuổi, là người cao niên nhất trong số các vị tuẫn tiết.


    Bà Nguyễn thị Tâm năm nay ngoài 60, đã có cháu nội cháu ngoại nhưng mãi mãi vẫn là cô nữ sinh Đồng Khánh. Bằng một giọng nói xứ Huế pha tiếng Saigon, bà Tâm nói chuyện tuôn trào trôi chảy và đầy hãnh diện khi nhắc đến người cha anh hùng. Câu chuyện 38 năm xưa kéo dài qua điện thọai giữa canh khuya.


    Chuyện của cha tôi đã được viết đầy đủ trên báo chí, trên các web của quân đội và cảnh sát. Nhưng bây giờ chỉ nói riêng về thời gian của tháng 3-1975.


    Gia đình rất đông con, tới 13 anh chị em. 6 trai 7 gái. Con trưởng là thiếu úy biệt động quân hy sinh tại Quảng Tín năm 68. Anh Nguyễn Công Phụng (1942-1968) được truy thăng trung úy. Nhà 6 con trai mà 5 anh em đi lính. Chỉ còn con trai út 13 tuổi là học sinh. Hai lính không quân, 1 thiết giáp, 1 cảnh sát và 1 biệt động quân.



              

    Trung tá Nguyễn Văn Long

              


    Tên các con trai như thể hiện ước mơ của cha.


    Các anh Phụng, Hoàng, Minh, Tiến, Quang, Hội.


    Các tên con gái như hình ảnh dịu hiền của mẹ. Đào, Tâm, Thiện, Hòa, Hảo, Hiền, Huê.

    Ngày nay có 3 chị em ở Hoa Kỳ, các anh chị em khác còn ở Việt Nam với Mẹ. Mẹ của các con tức là vợ Trung tá Long qua đời mấy năm trước.


    Đó là hình ảnh của 1 đại gia đình, có người cha anh hùng đã ra đi, để lại tấm hình hết sức đặc biệt.


    Cái chết của cha tôi


    Bà Tâm, người con gái thứ ba bắt đầu kể về những ngày cuối cùng. Lúc đó vào cuối tháng 3- 75 ở Đà Nẵng. Ba vẫn làm việc trong trại, không về nhà. Hai cậu em không quân, một ở Đà Nẵng, một ở Biên Hòa. Một cậu đưa cả nhà vào sân bay Đà Nẵng chờ di tản. Nhưng rồi cũng không đi được. Vào ngày cuối người cha về nhà không thấy gia đình. Ông nghĩ rằng vợ con có thể đã đi thoát trong phi trường. Ông xuống bãi và ra đi bằng tàu. Vào đến Saigon đã có cô con gái lớn đón cha về ở tạm. Lúc đó mới biết vợ con còn kẹt ở Đà Nẵng. Ông Long lại vào trình diện tổng nha cảnh sát để làm việc. Trưa 30 tháng 4-75 khi radio phát thanh lời tổng thống đầu hàng thì 1 phát súng đơn độc nổ trong thái dương, Trung tá Long ngã xuống. Ông buông cây súng nhỏ theo lệnh tổng thống. Cây súng tùy thân Trung tá vẫn mang theo từ Huế, Đà Nẵng vào đến Sài Gòn.


    Một lần nữa, xin ghi lại. Có thể đây chính là người đầu tiên thi hành lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng. Lẫm liệt và công khai.


    Hình ảnh trên youtube do người vô danh đưa lên có cảnh những người dân khiêng xác vị anh hùng lên xe. Đó là hình ảnh cuối cùng. Không một tin tức nào loan báo trên báo chí cộng sản trong nước. Dân Việt từ Huế vào Sài Gòn không ai biết tin. Nhưng cả thế giới đều biết qua hình ảnh.


    Cuối tháng 5 -1975 có người từ nhà thương Đồn Đất (Grall) của Pháp liên lạc đưa tin về Đà Nẵng. Trong quân phục của Trung tá Long có địa chỉ của gia đình. Hai vợ chồng bà Tâm thay mặt cả nhà tìm đường vào Nam. Gặp chị và em ở Saigon. Chị em tìm vào nhà xác của bệnh viện Grall. Nhân viên phụ trách mở tủ lạnh. Xác cha cô vẫn còn nguyên vẹn. Quân phục, cấp bậc huy hiệu và mũ cảnh sát. Nhân viên nói lại rằng nhà thương cho biết đây là di hài một người anh hùng. Phải bảo quản chờ thân nhân. Phải giúp cho gia đình tẩm liệm mai táng chu đáo. Chị em lúc đó giữa cuộc đổi đời đành gạt nước mắt đi chôn cha tại nghĩa trang Bà Quẹo.


    Chuyện đó đã xảy ra 40 năm xưa. Đây là lần đầu tiên có người hỏi và bà kể rõ lại cái chết của cha. Chúng tôi có hình của ông bà Trung tá Long thời còn trẻ nên không giống hình thời 75. Bây giờ có hình chính xác. Lại còn tìm hiểu thêm giờ tổng thống phát thanh lệnh đầu hàng và giờ ông Long tự kết liễu cuộc đời căn cứ vào bóng mặt trời trong tấm hình. Làm sao phóng viên báo Pháp lại tình cờ có mặt để chụp hình. Di hài Trung tá Long nằm đó bao lâu. Có nhiều bệnh viện quanh Sài Gòn sao lại chở vào nhà thương của Pháp. Phải chăng có mối liên hệ với anh phóng viên? Trước đó một ngày, 29 tháng 4, thiếu tướng Phạm văn Phú tự tử bằng thuốc cũng trong nhà thương Grall của Pháp. Qua đến 30 tháng tư ông mới ra đi. Khi uống thuốc tự vẫn, ông Phú chưa biết đến lệnh đầu hàng. Ông chỉ uất hận vì trách nhiệm bỏ Vùng 2. Cái chết của ông Long hoàn toàn vì lệnh đầu hàng 30 tháng tư. Ngày 30 tháng tư trong cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều tấm gương oanh liệt. Trường hợp của ông Long là cái chết hào hùng nhất. Ông đã chọn đúng giờ và đúng chỗ.


    Thời gian là trưa 30 tháng 4-1975 và địa điểm là chết giữa lòng Saigon. Phương cách chết là cầm súng bắn vào đầu. Gia đình ông có 5 con trai trưởng thành và đi lính hết. Nhưng dù trai hay gái, tất cả đều thấm nhuần giáo huấn của cha. Tất cả đều sống hòa thuận và yêu thương đất nước. Các con đều hiểu được tấm lòng của cha khi quyết định hy sinh vào ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975. Đó là lý do chúng tôi đã chọn được vị anh hùng thứ bẩy để đưa vào tấm bia vĩnh cửu. Gia đình còn lại 12 người con và hơn 30 người cháu ở 2 bên bờ Thái bình Dương đều không quên ngày 30 tháng tư. Ngày tang đất nước và ngày giỗ người cha anh hùng.



    Giao Chỉ, San Jose
    (viết cho HMT)


    https://hon-viet.co.uk/GiaoChiSanJose_C ... ChaToi.htm
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”