- 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Trả lời
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5484
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

          


49




Tranh Ann Phong – Những Đứa Con Thời Loạn



tháng tư đưa tay nhặt

vỡ nát của ngày xưa

còn đây, chồng sách cũ

những quả chín trái mùa



còn đây, chiều gió nổi

những ngôi mộ rạp mình

bia gỗ nào run rẩy

hồn linh nào tủi thân



chiến trường lâu đã nguội

hơi sắt và hơi đồng

mấy chục mùa hoa rụng

hư không tìm hư không



đã khô dòng máu ấm

cho đất mẹ não nề

cát vàng trôi đầu sóng

Nhật Tảo thôi hoài vọng

súng lắp đạn u mê



xếp origami

từ những trang sách cũ

xếp người chồng, người yêu

xếp người cha mất tăm

xếp người con mất biệt



với mũ bạc đường trưa

với giày sô bùn đọng

với mặt người bụi loang

trên mờ phai thù hận



xếp điệp trùng gian nan

xếp phũ phàng kết cuộc

xếp một thời quặn đau

xếp vết thương còn buốt



phóng cả vào không trung

một phần của người sống

một phần của người chết

một chút của non sông



bay lên tầng mây thẳm

thanh thoát trang sách vàng

một ngày mưa rất ngọt

vào đất giải mối oan



kc Nguyễn


Nguồn:https://vietbao.com


          

Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Sư Đoàn 18 Bộ Binh

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
    & Sư Đoàn 18 Bộ Binh


    Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc

    - Phần 1 -

    Phạm Phong Dinh





    PHẦN 1





    Ba mươi năm, kể từ ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa ngừng tồn tại, những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị buộc phải buông súng một cách ngỡ ngàng, phải đi vào những trại tù của phía được gọi là “chiến thắng” một cách uất hận. Kể từ cái khoảnh khắc đau thương đó, cho mãi đến tận hơn một phần tư thế kỷ sau, những nhà viết sử Cộng Sản vẫn ra rả lăng mạ và sỉ nhục những người lính tạm gọi là “bại trận” của QLVNCH, bằng tất cả những phương tiện mà có thể giúp họ phun nọc đầu độc thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam sau chiến tranh. Truyền thông, sách báo, nhà văn (văn nô “phản kháng” lẫn “phản tỉnh”), là những công cụ cực tốt để làm cái loa tuyên truyền, bôi nhọ và bóp méo lịch sử. Cộng vào đó, phải kể đến một khối lượng cực nhiều sách báo của thế giới phương Tây, qua lăng kính và tài liệu của khối Cộng, thân Cộng, thiên Cộng, phản chiến và trở cờ, cũng tàn nhẫn tham gia vào cái trò chơi nhục mạ một quân đội bị bức tử một cách oan ức là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân lực ấy, và những người lính ấy chỉ có mỗi một lỗi lầm duy nhất, là đã dám anh dũng đương đầu với hai thế lực cực lớn để bảo vệ một nửa nước Việt Nam, mà đã bị hai thế lực ấy chia cắt ngày 20.7.1954 tại hội nghị Geneva. Sau ba mươi năm, người ta đã thấy rõ ràng, là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải nỗ lực chống trả đại khối Cộng Sản quốc tế mười ba nước, trong đó Cộng Sản và quân đội Bắc Việt được dùng làm những tên lính tiền phong xung sát, thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của đại khối ấy. Trong ròng rã hơn hai mươi năm, từ năm 1954 đến năm 1975, những người lính quá đỗi khổ ải của chúng ta không những đem xương máu ngăn chống những cơn sóng bão lửa của chiến tranh ngoài tiền tuyến, mà còn phải đau đớn hứng chịu những nhát đâm chí mạng từ phía sau lưng từ phía những người gọi là bạn và bọn nội thù thân Cộng, phản chiến và theo Cộng. Rồi khi đã gục ngã một cách không mong muốn, thì những bầy quạ đen, những con kên kên từ khắp mọi nẽo đường thế giới xúm nhau vào làm cái việc an táng cuối cùng quân lực một thời kiêu hùng ấy. Bằng những cái mỏ khoằm khoằm, từ đó vang vọng những lời lăng mạ thật kinh tởm. Và bằng những cái móng vuốt nhọn bén như dao, muốn chôn vùi những chiến tích lừng lẫy của những người lính chúng ta vĩnh viễn vào quá khứ. Nhưng có phải là người lính Việt Nam Cộng Hòa đã thực chết hay không? Và những người gọi là “chiến thắng”, dành quyền sĩ nhục người bại trận, có phải thực sự chiến thắng hay không?



    Cộng Sản Hà Nội nên nhớ lại cơn ác mộng chiến bại Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và cuộc không tập mười hai ngày đêm trên lãnh thổ Bắc Việt trong mùa Giáng Sinh cuối năm ấy. Ngày cuối cùng Cộng quân chỉ còn đúng sáu chiếc hỏa tiễn Sam, lãnh đạo Hà Nội với những anh Ba anh Tư, và những ông tướng huyền thoại đang chuẩn bị trói mình đầu hàng vô điều kiện, thì người ta đã dễ dàng dành cho họ một con đường sống bằng Hiệp Định Paris ký với nhau ngày 27.1.1973. Như vậy, chỉ trong vòng có mười hai ngày thôi, quân đội Hoa Kỳ đã có thể nhanh chóng tống táng chế độ Cộng Sản cùng hung cực ác Hà Nội xuống tận đáy địa ngục nếu muốn. Thì có vinh dự gì mà bọn Cộng Sản Bắc Việt còn có can đảm vỗ ngực chiến thắng và nguyền rủa những người lính Việt Nam Cộng Hòa kém may mắn. Cái “chiến thắng” mà chúng cứ ra rả ngày đêm chưa thấy mỏi mệt, thực chất chỉ là một màn trình diễn của những con người chiến bại tinh thần, luôn luôn cảm thấy xấu hổ và mặc cảm thua kém mọi bề từ tận đáy thâm tâm của họ. Nhưng dù sao thì sau ba mươi năm, gió cũng đã đổi chiều. Bên cạnh hàng ngàn cuốn sách mà chúng ta vừa nhắc đến ở trên, đã xuất hiện ngày càng nhiều những cuốn sách mới được viết từ những sử gia Tây phương, với cái nhìn vô tư hơn và ít thiên kiến hơn để thẩm định lại những sự thực lịch sử trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ vào những tài liệu khổng lồ đã được giải mật trong các văn khố của Hoa Kỳ, cũng như của Nga, mà trước năm 1990 là Liên Xô, những nhà viết sử đã được đi thẳng, hay nói thật đúng là đã bới móc sâu vào tận cùng những bí mật hiểm hóc nhất, để trưng ra cho công luận thế giới những khía cạnh đứng đắn nhất của lịch sử. Những sử gia Hoa Kỳ, mà trong những thập niên trước đây đã cho ấn hành những cuốn sách đầy dẫy thiên kiến, lệch lạc, chưa nói đến sự ấu trĩ. Có lẽ là vì lúc đó người ta cần phải bào chữa cho những điều mà chính phủ của họ đã theo đuổi. Hoặc biện hộ cho sự nhượng bộ khối Cộng. Hay tàn nhẫn hơn, trút mọi lỗi lầm và sự hèn nhát của họ vào một đối tượng tế thần là nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng dần dần rồi cũng có những sử gia có lương tâm và tỉnh táo hơn, đã tận tụy tìm kiếm tài liệu từ cả hai phía, đã phân tích và gạt ra ngoài những định kiến, chỉ chắt lọc những dữ kiện. Từ những dữ kiện đó, chúng đủ nói lên được nhiều điều chưa từng được nói.



    Từ những ký ức đau buồn của một lần gọi là bại trận của một người lính, từ những hoài cảm về những trang chiến sử chói lọi của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi đã may mắn nhận được vài chục trang biên khảo của sử gia Hoa Kỳ, ông George Jay Veith viết về Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn trong cuộc chiến đấu cuối cùng tháng 4.1975 mà ông đã đặt tựa là “Fighting is an Art: The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9- 21, 1975″ (Chiến Đấu Là Một Nghệ Thuật: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phòng Thủ Xuân Lộc, từ 9 – 21.4.1975). Sử gia Jay Veith đã không gặp phải khó khăn lắm trong vấn đề nghiên cứu các tài liệu viết bằng tiếng Việt từ hai phía, vì nhờ có một sử gia Hoa Kỳ cộng tác, ông Merla L. Pribbenow, rất thông thạo Việt ngữ. Ông Pribbenow là một nhân viên Tòa Đại sứ Hoa Kỳ từ năm 1970 đến năm 1975, từng dịch sang Anh ngữ nhiều tài liệu và sách Việt ngữ viết về chiến tranh Việt Nam. Trong thư mục tham khảo nguồn tài liệu hay trực tiếp phỏng vấn phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi ghi nhận các tác giả: Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Đại Tá Hứa Yến Lến, Phạm Huấn, Hồ Đinh, Nguyễn Đức Phương và Phạm Phong Dinh. Về phía nguồn tài liệu Bắc Việt, hầu hết các nhân vật cao cấp từng viết sách về chiến tranh Việt Nam như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, Đào Đình Luyện, Nam Hà, v.v…



    Trong bài biên khảo khá dài này, sử gia Jay Veith đã diễn tả lại rất tỉ mỉ những chuẩn bị chiến tranh từ hai phía. Một bên là Quân Đoàn 4 Cộng Sản Bắc Việt, với các Sư Đoàn 6, 7 và 341 dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Hoàng Cầm, một danh tướng của Cộng quân, với sự giám sát và hỗ trợ của Tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh Lực Lượng Quân Giải Phóng Miền Nam, thuộc Trung Ương Cục Miền Nam. Cấp cao hơn nữa là Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ (trong tháng 4.1975 đổi thành chiến dịch Hồ Chí Minh) do Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy. Rồi cao hơn hết là Bộ Chính Trị tại Hà Nội do “anh Ba” Lê Duẫn chỉ đạo nghệ thuật. Một bên là Sư Đoàn 18 Bộ Binh thiếu thốn quân số vì những trận đánh liên miên từ đầu năm 1975, với Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo cùng các đơn vị tăng phái như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh; Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long mới vừa từ tỉnh Quảng Đức băng rừng về đến. Cấp chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tướng Đảo là Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III, sau khi đồng ý trả Trung Đoàn 48 của Trung Tá Tá Trần Minh Công từ Tây Ninh về cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, thì ông đã phải rất bận rộn với những điều động và bố trí khác, đã mặc nhiên giao phó mặt trận Long Khánh cho Thiếu Tướng Đảo. Cấp chỉ huy cao hơn nữa là Bộ Tổng Tham Mưu thì cũng đang bù đầu tái tổ chức các đơn vị di tản từ Quân Khu I và Quân Khu II về. Vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chẳng ra một lệnh cần thiết nào cho Thiếu Tướng Đảo.



    Như vậy, ở cương vị Tư Lệnh Sư Đoàn, Thiếu Tướng Đảo đã gánh vác sức nặng của cuộc chiến cuối cùng, đương đầu với một quân đoàn hùng hổ quân Cộng cùng một hệ thống chỉ huy chằng chịt và hung hãn. Thiếu Tướng Đảo đã nói với ông Jay Veith: “Tướng Toàn đang rất bận rộn tổ chức phòng thủ Sài Gòn, trông cậy tôi lo liệu chuyện Sư Đoàn 18 Bộ Binh và khu vực trách nhiệm. Tôi không nhận được lệnh nào từ Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu trong việc phòng thủ Xuân Lộc. Đối với tôi thì chuyện này cũng dễ hiểu, vì tính linh động mềm dẽo của QLVNCH, trong khi phía Cộng Sản, không một cá nhân nào có thể thực hiện mọi quyết định tự ý được”. Điều mà Jay Veith muốn nhấn mạnh ở đây là nghệ thuật phối trí và chỉ huy chiến trận của cả hai phía. Một phía là những tập hợp gọi là “đỉnh cao của trí tuệ”. Còn một phía, chỉ duy nhất một danh tướng của VNCH là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Một cuộc đọ sức đọ trí giữa các cấp chỉ huy Cộng quân và cấp chỉ huy một sư đoàn QLVNCH trong vòng mười hai ngày đêm, mà chiến thắng vang dội của phía số ít đã làm rúng động thế giới và làm cho các quân đoàn Cộng quân phải xáo trộn, Tướng Hoàng Cầm bị thay thế bằng chính Tướng Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam Trần Văn Trà. Rồi Trần Văn Trà cũng chẳng làm nên được cơm cháo gì, buộc phải rời bỏ chiến trường Xuân Lộc đi vòng xuống Biên Hòa tiến đánh Sài gòn. Như vậy có vinh quang gì không, khi tướng lãnh Cộng Sản viết sách ngợi ca chiến thắng (giả tạo và được người Mỹ ban tặng).



    Trong những ngày Quân Đoàn I và Quân Đoàn II di tản về miền duyên hải và cố gắng tìm về khu vực Quân Khu III, thì các Sư Đoàn 5, 18 và 25 của Quân Đoàn III đã có những trận đánh với Cộng quân và chịu nhiều thiệt hại. Nhưng những trận đánh này đã rất mờ nhạt trong những tin tức chiến sự hàng ngày, vì hậu phương và giới truyền thông báo chí đang chú tâm theo dõi cuộc di tản của quân dân từ miền cao nguyên và miền Trung vào. Cho nên khi mặt trận Long Khánh nổ lớn tại thành phố Xuân Lộc, thì người ta mới lại chú ý đến Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Người ta không được biết rằng, quân số của sư đoàn đã sụt xuống mức báo động. Nhiều tiểu đoàn quân số 450 người, khi trận Xuân Lộc bắt đầu, chỉ có không quá 350 chiến binh. Một tiểu đoàn gồm bốn đại đội, mỗi đại đội quân số đầy đủ phải trên 150 người. Giờ đây mỗi đại đội chỉ có không quá 100 chiến binh, nhưng phải cáng cáng công việc gấp rưỡi. Có nghĩa là người lính QLVNCH phải đổ máu xương gấp rưỡi để giữ vững Xuân Lộc. Nếu diễn tả lại diễn tiến trận đánh kéo dài từ những ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh giao chiến với các Sư Đoàn 6 và 7 BV trong lãnh thổ tỉnh Long Khánh cho đến ngày nổ ra trận Xuân Lộc từ ngày 9.4.1975 thì có lẽ phải cần một cuốn sách dày vài trăm trang. Chúng tôi chỉ xin được lược diễn lại những giai đoạn quan trọng nhất và xin được chú trọng vào những diễn biến nổi bật, cũng như những con người và những yếu tố làm nên thành chiến thắng Xuân Lộc.





    Cấp chỉ huy chiến trường của quân Cộng



    Để biết Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã đánh cho bọn tướng tá Hà Nội thua xiểng liểng đến như thế nào, chúng ta hãy cùng điểm một vài khuôn mặt cấp chỉ huy của địch quân trực tiếp hay gián tiếp trong trận đánh Xuân Lộc. Người chịu trách nhiệm mặt trận Long Khánh là Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Tướng Cầm, bí danh Nam Thạch, từng tham dự trận Điện Biên Phủ năm 1954, lúc đó ông làm Tiểu Đoàn Trưởng, trực thuộc trung đoàn mà đã xông vào trung tâm và bắt sống được tướng Tư Lệnh De Castries. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Tướng Cầm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 nổi tiếng thiện chiến, rồi được điều làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bắc Việt, khi sư đoàn này thành lập ngày 2.9.1965. Trong mùa hè 1973, Tướng Cầm được đề bạt lên làm Tham Mưu Trưởng Trung Ương Cục Miền Nam, và chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Cộng Sản BV nhận lệnh tấn công Xuân Lộc để mở toang cánh cửa tiến xuống Sài Gòn. Quân Đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm gồm các Sư Đoàn 6, 7 và 341.



    Sư Đoàn 341 là một trong những sư đoàn non tuổi đời nhất so với các sư đoàn kỳ cựu như Sư Đoàn 2, 3, 304, 308, 324, 325, v.v.. Đại Tá Trần Văn Trấn được gọi nắm sư đoàn cuối năm 1973. Trước đó Trấn làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1BV và bị quân ta bắt làm tù binh trong năm 1970. Trấn đã khôn khéo dấu tung tích, chỉ khai là nhân viên quân y. Khi Hiệp Định Paris ký kết, hai bên trao trả tù binh, Trấn trở về Bắc và nhanh chóng được giao cho nắm Sư Đoàn 341. Thông thường thì một cán bộ tù binh được trả về Bắc, rất có nhiều triển vọng được các đồng chí Hà Nội cho vô nằm nhà đá đếm lịch, nhưng trường hợp của Trấn lại là ngoại lệ. Tháng 2.1975, Đại Tá Trấn nhận lệnh đưa SĐ 341 vào Nam. Binh đội sư đoàn được 500 chiếc xe vận tải theo đường Hồ Chí Minh vào đến khu vực Quân Khu 7 của Cộng quân, bao gồm hầu hết lãnh thổ Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hòa. Ở đây, Đại Tá Trấn cùng ban tham mưu của ông ta được lệnh điều nghiên chiến trường Long Khánh, đặc biệt thám sát địa thế thành phố Xuân Lộc, để chờ Sư Đoàn 7 CSBV từ miền Lâm Đồng đổ xuống làm nỗ lực chính cường tập.



    Viên phụ tá Tư Lệnh Mặt Trận Long Khánh là Tướng Bùi Cát Vũ chịu trách nhiệm các kế hoạch hành quân của Sư Đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là Lê Nam Phong, biệt danh “Nam Lửa” (Fiery Nam), vì tính khí nóng nảy, người gốc Nghệ An. Sư Đoàn 7 Bắc Việt là một sư đoàn cứng của Cộng quân, từng tham dự những trận đánh lớn ở An Lộc, Phước Long. Cho nên nó được chọn làm nỗ lực chính công phá chiến tuyến Xuân Lộc của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Sau khi tỉnh Ban Mê Thuột của Quân Khu II rơi vào tay địch quân trong đầu tháng 3.1975, thì Tướng Hoàng Cầm đề nghị cho quân đoàn của ông ta đánh tràn xuống Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hòa, với sự hỗ trợ của Tư Lệnh Quân Giải Phóng Trần Văn Trà. Nhưng Lê Duẫn, tán đồng ý kiến của Tướng Văn Tiến Dũng, đã ra lệnh cho Sư Đoàn 7 hành quân lên đánh chiếm tỉnh Lâm Đồng, chờ các quân đoàn khác đánh chiếm miền duyên hải Quân Khu II, rồi cùng vào đánh Xuân Lộc. Nhưng sau này, khi Lê Duẫn nhận thấy tình hình quá suy sụp của VNCH, liền lệnh cho Phạm Hùng, Ủy Viên Chính Trị Trung Ương Cục Miền Nam lợi dụng sự hỗn loạn ấy để đánh xuống phía Nam. Vì vậy Sư Đoàn 7 Bắc Việt đang hành quân lên Lâm Đồng nhận lệnh trở xuống Long Khánh. Sư Đoàn 6 Cộng quân hình thành từ tháng 8.1974, là sư đoàn nhẹ chỉ có hai trung đoàn được cấu thành từ các đơn vị độc lập trong Quân Khu 7, hoạt động trong quân khu. Tướng Tư Lệnh là Đặng Ngọc Sĩ, từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn Đặc Công 27.





    Những trận đánh đầu năm 1975



    Các đơn vị của Sư Đoàn 6 và 7 Cộng quân đã từng giao tranh ác liệt với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong khu vực Long Khánh, trong lúc quân dân Quân Khu I và II đang ùn ùn đổ về Quân Khu III, và trước khi nổ ra chiến cuộc Xuân Lộc. Một buổi họp quan trọng giữa Tướng Bùi Cát Vũ, Tướng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Phó B2 (Cao Nguyên) và Tướng Lê Nam Phong, Sư Đoàn 7 BV được giao trách nhiệm đánh thông Quốc Lộ 20 từ hướng Bắc quận Túc Trưng đến Phương Lâm. Để làm được điều này, Tướng Nam Lửa phải đánh chiếm cho được quận Định Quán và tiêu diệt Chi Khu. Ngày 17.3.1975 tiếng súng của giặc bắt đầu nổ rền trời Định Quán. Quân Cộng đụng phải chiến tuyến rất cứng của các chiến sĩ Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong Chi Khu, với hỗ trợ vòng ngoài của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, thuộc SĐ18BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã cẩn thận gửi tiểu đoàn thiện chiến nhất của ông lên giữ con lộ 20 huyết mạch này. Các chiến sĩ Đại Đội 377 Địa Phương Quân, dù quân số và vũ khí ở thế hạ phong, vì quân giặc quá đông cộng với chiến xa yễm trợ, nhưng đã anh dũng giữ vững được cao điểm bảo vệ Chi Khu trong vòng hai ngày. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cũng bận rộn chống trả những làn sóng tấn công điên cuồng của địch, nhưng cuối cùng buộc phải rút về một cụm đồi không cao lắm ở hướng tây, cách thị trấn lối vài cây số, một điểm cao nhìn xuống con sông La Ngà. Trung Đoàn 209 BV tiếp tục tấn kích Tiểu Đoàn 2/43. Thiếu Tá Chế cùng chiến hữu giữ vững cao điểm dưới áp lực rất nặng của quân Cộng. Thiếu Tá Chế cho hai khẩu pháo 105 ly chúc mũi bắn trực xạ bằng đầu đạn Beehive chống biển người. Trong vòng vây trùng điệp của giặc, tiểu đoàn hao mòn dần.



    Vận rủi lại giáng thêm một đòn chí mạng lên chiến sĩ SĐ18BB, khi một chiếc F-5 ném bom lầm lên đầu quân ta. Con số thương vong của tiểu đoàn qua những ngày giao tranh đã lên đến 80 người, Thiếu Tá Chế nghiến răng quyết không nhường một tấc đất cho giặc dù ông có hy sinh trên cao điểm này, nhưng Thiếu Tướng Đảo đã lệnh cho Thiếu Tá Chế dẫn quân về Núi Thị, cao điểm bảo vệ phía Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 209 BV thúc quân đánh tới cầu La Ngà. Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay, chỉ huy Địa Phương Quân gọi pháo binh bắn ngay lên vị trí của ông, giết chết nhiều địch quân, nhưng chiếc cầu La Ngà vẫn lọt vào tay địch. Gần như cùng thời điểm đó, Tiểu Đoàn 3/43 của quân ta trấn giữ quận Hoài Đức bảo vệ Tỉnh Lộ 303 trong tỉnh Bình Tuy cũng bị quân Cộng bức thoái. Trong tình hình khẩn trương đó, với Trung Đoàn 48 còn đang hành quân ở Tây Ninh, Trung Đoàn 52 không thể rời khỏi Xuân Lộc, nhận thấy quân ta bị căng mỏng quá mức, Thiếu Tướng Đảo quyết định gọi hai Tiểu Đoàn 1/43 và 4/43 rút quân về bảo vệ Xuân Lộc. Như vậy phần phía Bắc của tỉnh Long Khánh đã lọt vào tay giặc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ ngày Thiếu Tướng Đảo về làm Tư Lệnh tháng 4.1972, là một trong hai lực lượng cơ động của Quân Đoàn III (cùng với Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) Đông xông Tây đụt, Nam bình Bắc phạt trong phạm vi những tỉnh Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Tây Ninh và tăng viện liên miên cho các sư đoàn bạn. Sức người chiến sĩ có hạn mà cường độ chiến tranh ngày càng nóng đỏ, đến sắt thép cũng phải chảy mềm. Hầu hết các sử gia Hoa Kỳ và phương Tây không hiểu, không biết hoặc không muốn biết người lính QLVNCH đã chiến đấu đến tận cùng khổ ải như thế nào. Thiên kiến trong sách của họ là, quân ta “nhởn nhơ” trong lúc quân Mỹ thiệt mất đến 58.000 người. Hình như họ không dám đưa ra con số 250.000 chiến sĩ QLVNCH tử trận và trên nửa triệu chiến sĩ thương phế, để biện minh cho sự tháo chạy của người Mỹ. Ít nhất thì sử gia Jay Veith đã dành những hàng trân trọng ngợi ca người lính của chúng ta và dành cho các anh một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử.



    Song song với hoạt động của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Sư Đoàn 6 BV cũng tấn công các vị trí khác của quân ta dọc theo khu vực Liên Tỉnh Lộ 2 dẫn về phía Nam đến Bà Rịa, đồng thời tấn chiếm các đồn Địa Phương Quân & Nghĩa Quân tại Ngã Ba Ông Đồn và Gia Ray. Vị trí ĐPQ trên Núi Chứa Chan sau hai ngày chiến đấu khốc liệt cũng chịu rút bỏ. Sư Đoàn 6 Bắc Việt tiếp tục áp lực một khu vực dài 50 cây số phía Đông Xuân Lộc theo Quốc Lộ 1 về Bình Tuy. Như vậy, ý đồ của Tướng Hoàng Cầm là cô lập Xuân Lộc với cao nguyên từ hướng Quốc Lộ 20, với tiếp vận và tăng viện từ Sài Gòn trên Quốc Lộ 1 ở phía Nam, và với miền duyên hải Quân Khu II cũng trên QL1 ở phía Đông. Đến ngày 28.3.1975, Sư Đoàn 7 Cộng quân quặt lên hướng Bắc tấn công tỉnh Lâm Đồng. Sai lầm chiến thuật này đã buộc quân địch phải trả một cái giá, sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi. Thiếu Tướng Đảo lệnh cho Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 52, dưới quyền của Đại Úy Huỳnh Văn Út và Đại Đội 52 Trinh Sát tấn công và tái chiếm được Núi Chứa Chan. Khi quân của Đại Úy Út tiến đánh một địa danh gọi là Ngã Ba Cua Heo gây thiệt hại rất nặng cho các đơn vị của Trung Đoàn 270, thuộc Sư Đoàn 341BV, thì dân chúng vùng Kiệm Tân hân hoan đem tặng chiến sĩ SĐ18BB hai con bò và 200.000 đồng để khao quân. Khi nhận được tù binh gửi về, Thiếu Tướng Đảo hết sức sững sốt nhìn những người bộ đội với khuôn mặt sợ hãi, non choẹt ở tuổi thiếu niên. Họ chỉ trong độ tuổi 16, 17, là những học sinh bị bắt vào quân đội huấn luyện qua loa trong vòng hai tuần lễ rồi bị dồn vào Sư Đoàn 341. Qua hai mươi năm chiến tranh, bọn lãnh đạo cùng hung cực ác Hà Nội đã vét tới những người thiếu niên cuối cùng ngoài miền Bắc ném vào lò lửa miền Nam, để thỏa mãn tham vọng điên rồ, là làm cho máu dân tộc chảy láng lênh thành cả một đại dương thãm sầu, xương trắng chất chồng cao dầy như dãy Trường Sơn. Tiếng kêu khóc hai miền vang vọng lên đến chín cõi trời, đến quỷ thần cũng phải rùng mình.





    (Mời đọc tiếp phần 2)
    Phạm Phong Dinh



    https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc1.htm
    ===========================




    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
    & Sư Đoàn 18 Bộ Binh


    Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    - Phần 2 -
    Phạm Phong Dinh





    PHẦN 2





    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cố gắng tái chiếm lại những cao điểm chung quanh Xuân Lộc. Ông biết sớm muộn gì rồi thì Xuân Lộc cũng là một bãi chiến trường lớn, rất lớn, quyết định số phận của Việt Nam Cộng Hòa. Gánh nặng của cuộc chiến tranh hai mươi năm bây giờ đang đè nặng lên vai ông, một trong nhũng cây cột trụ cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với sự ra đi của Sư Đoàn 7 BV, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của chúng ta có được những khoảnh khắc quí báu để tái tổ chức, bổ sung quân số và tái trang bị cho một cuộc thư hùng mà sẽ rất đẫm máu. Bộ Chính Trị Cộng Sản nhận định đã đến lúc giáng một đòn quyết định đánh gục Việt Nam Cộng Hòa. Bại tướng Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc chiến Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 làm báo cáo gửi lên Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản với những nhận xét của ông ta như sau: “Vì sự chiến đấu “yếu kém”, sự thiệt hại nặng nề và tinh thần suy sụp của QLVNCH, thay vì chờ đợi sự tập hợp các quân đoàn, một cuộc cường kích của B 2 (tức các đơn vị cao nguyên) sẽ hủy diệt được Thiệu. Khi quân đội VNCH “sợ hãi” bỏ chạy, thì các đơn vị đặc công và cảm tử đã đột nhập được vào Sài Gòn, sẽ dậy lên một cuộc “tổng… nổi dậy”, kết hợp với các lực lượng bên ngoài đánh vào”. Dường như ông Giáp vẫn chưa học được bài học và cơn ác mộng “tổng nổi dậy” của ông ta. Ông ta cứ mơ tưởng ngày đêm một cuộc tổng nổi dậy hoang tưởng, ít nhất hai lần đã chôn vùi tên tuổi huyền thoại của mình trong năm 1968 và 1972. Khi dân chúng miền Nam không chịu tổng nổi dậy với binh đội miền Bắc, thì Giáp đã ra lệnh cho quân ông ta dội pháo làm cho nhiều chục ngàn dân chúng các thành thị năm 1968 và người dân ba tỉnh Quảng Trị, Kontum, An Lộc năm 1972 phải tổng… nằm xuống vĩnh viễn một cách oan khuất.



    Thiếu Tướng Hoàng Cầm trong ngày 3.4.1975 trở lại bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt đóng về phía Đông-Nam cầu La Ngà bắt đầu chiến dịch Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 BV đang hành quân trên QL20 tiến về Đà Lạt nhận lệnh quày trở lại. Sư Đoàn 341 chịu trách nhiệm mở những cuộc thám sát địa hình địa vật. Sư Trưởng 341 (cách gọi Tư Lệnh sư đoàn của phía Cộng) Trần Văn Trấn, Sư Phó, các Trung Đoàn Trưởng vượt sông La Ngà gặp các cán binh địa phương nhờ dẫn đường. Ngày 5.4.1975, công cuộc nghiên cứu địa thế, binh tình Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Khu Long Khánh kết thúc, trong đó, theo quân sử phía Cộng thì chỉ huy trinh sát là Lê Anh Thiện đã đột nhập vào đến chỗ cư ngụ của Tỉnh Trưởng Long Khánh, Đại Tá Phạm Văn Phúc. Ngày 6.4.1975 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341BV gửi phúc trình và kế hoạch tấn công. Quân Đoàn 4 Bắc Việt chấp nhận. Trận thế chiến tranh hình thành như sau: Trung Đoàn 266 sẽ đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. Trung Đoàn 270 tấn kích Gia Tân (vùng Kiệm Tân) và Núi Thị, mà trên đó trấn đóng một tiểu đoàn Pháo Binh của SĐ18BB, một trung tâm Truyền Tin và Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Trung Đoàn 273 BV làm lực lượng trừ bị, trong khi đó Trung Đoàn Pháo Binh 55 BV phụ trách yễm trợ hỏa lực, Tiểu Đoàn Phòng Không 12 trách nhiệm khống chế vùng trời. Hai Trung Đoàn 33 và 274 của Sư Đoàn 6 BV sẽ bao vây Xuân Lộc ở phía Nam và chận đánh quân ta ở Ngã Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 BV làm nỗ lực chính nhận lệnh đánh hủy diệt Trung Đoàn 48 của Đại Tá Trần Minh Công, Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ đó chiếm lấy khu vực Tân Phong ở mặt Nam Xuân Lộc. Tuy nhiên sau đó kế hoạch thay đổi. Trung Đoàn 165 của SĐ 7BV sẽ đánh các đơn vị hậu cứ và Bộ Tư Lệnh của SĐ18BB, cũng như chiến tuyến phía Đông-Bắc Xuân Lộc do Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ. Trung Đoàn 209 Bắc Việt phải đánh chiếm con đường QL 1 từ Suối Cát đến Tân Phong, và Trung Đoàn 141 BV làm trừ bị. Như vậy trận thế bao vây và tấn công của Quân Đoàn 4 địch đã hình thành, giống như cái miệng túi đang dần thắt chặt lại. Chúng ta hãy xem Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ vạch kế hoạch chiến đấu và phòng thủ ở Xuân Lộc như thế nào, mà sử gia Mỹ Jay Veith đã gọi đó là một nghệ thuật.



    Nghệ thuật bố trí trận liệt của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh Trong lúc Hoàng Cầm đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch đánh Xuân Lộc, thì Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tư Lệnh của ông cũng rất bận rộn thiết trí trận liệt phòng thủ những cao điểm, yếu điểm chung quanh Xuân Lộc và thị xã Xuân Lộc. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo sinh ngày 5.3.1933 tại Sài Gòn, nhưng các cụ thân sinh thì gốc gác ở tỉnh Long An. Tốt nghiệp Khóa 10 Trường Võ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm, chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông đã đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương đó. Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi lên chức vụ của mình bằng những chiến công ngoài chiến trường. Ông đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11.1972. Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Bảo Quốc Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng.



    Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư Lệnh của họ, vì Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm sóc đời sống thuộc cấp và gia đình họ. Ông luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh. Nguyên tắc làm việc của ông mà ông đòi hỏi các cộng sự viên phải tuân thủ là liên lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung Đoàn Trưởng phải nắm được tình hình tận cấp Đại Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, vì lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những chiến thắng vang dội và lòng trung thành tuyệt đối.



    Phụ tá cho Tư lệnh là một giàn sĩ quan xuất sắc. Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Phó kiêm Tham Mưu Trưởng/Hành Quân/ SĐ18BB, cánh tay phải của Thiếu Tướng Đảo, cùng chia xẻ gánh nặng chiến cuộc trong những ngày tàn khốc. Đại Tá Lến trong suốt đêm 20.4.1975 triệt thoái ra khỏi Xuân Lộc đã đảm nhận trọng trách bảo toàn đoàn cơ giới cồng kềnh của Sư Đoàn, trong đó có hai khẩu đại bác 175 ly của Quân Đoàn III, và ông đã đem toàn bộ đoàn cơ giới ấy nguyện vẹn về được căn cứ Long Bình, Biên Hòa. Trấn đóng ở những điểm trọng yếu bảo vệ Xuân Lộc, là những cấp chỉ huy trẻ tài giỏi của QLVNCH, với Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43; Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48 và Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt để ý nâng đỡ các sĩ quan cấp thấp và trao gắn cấp bậc vinh thăng lên nắm những tiểu đoàn. Với giàn sĩ quan trung đoàn, tiểu đoàn đầy tài năng, Thiếu Tướng Đảo có thể yên tâm nghênh chiến quân Cộng. Vị chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh cùng hợp tác phòng thủ Xuân Lộc là Đại Tá Phạm Văn Phúc. Đại Tá Phúc xuất thân từ binh chủng Biệt Động Quân, nổi tiếng là một sĩ quan xuất sắc và rất dũng cảm. Ông được điều về làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh từ ngày 1.4.1975. Một thời điểm đã quá muộn để ông có thể chấn chỉnh nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu của các chiến sĩ diện địa. Vị tỉnh trưởng tiền nhiệm đã không chăm sóc đúng mức đời sống binh sĩ và tìm hiểu tâm tư cùng giúp đỡ ít nhiều gia đình của họ. Nhưng được chiến đấu dưới quyền của một Đại Tá Mũ Nâu trẻ, tận tụy trong tinh thần huynh đệ chi binh, các chiến sĩ diện địa đã đánh những trận long trời, bắn cháy nhiều chiến xa địch và giữ vững Xuân Lộc trong vòng mười hai ngày đêm. Trong ngày di tản ra khỏi Xuân Lộc, chiếc xe Jeep của Đại Tá Phúc bị trúng một trái B 40, ông bị thương nặng và rơi vào tay giặc. Được phóng thích từ trại tù Cộng Sản sau năm 1975, Đại Tá Phúc hiện vẫn còn sinh sống ở Việt Nam.



    Cần phải kể thêm sự đóng góp quan trọng và quyết định của Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, một sĩ quan Pháo Binh ngoại hạng. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt dành cho Tướng Hoàng Cầm một cái bẫy mà ông gọi là “máy nghiền thịt”, với kế hoạch hỏa lực kinh khủng trông cậy vào tài năng của Đại Tá Hưng. Thiếu Tướng Đảo bố trí các khẩu pháo của ông như sau. Một khu vực “chết” nằm ở bìa hướng Tây Xuân Lộc mà sẽ bị 24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly dội bão lửa xuống. Mười khẩu 105 ly được di chuyển lên Núi Thị dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Hai khẩu 105 ly tăng cường cho Trung Đoàn 43 của Đại Tá Hiếu nằm trong Xuân Lộc. Hai khẩu khác qua tăng cường cho Tiểu Khu Long Khánh. Mười hai khẩu 105 ly được điều cho Trung Đoàn 48 trấn đóng Đồi 300. Chưa kể hai khẩu 175 ly của Quân Đoàn III tăng phái sẵn sàng bắn xa đến ít nhất 30 cây số để làm câm họng các khẩu 130 ly của địch được đặt gần Bộ Chỉ Huy của Tư Lệnh sư đoàn tại ngã ba Tân Phong. Đại Tá Hưng đích thân điều chỉnh tất cả những khẩu đại pháo. Ông cho các xe bulldozer ủi những hố sâu đặt những khẩu pháo để che dấu. Những hố pháo này ăn thông với những hầm tránh pháo kích do Công Binh thiết kế, để bảo vệ các chiến sĩ Pháo Binh và kéo những khẩu pháo vào ẩn trú bên trong. Với sáng kiến này, quân Cộng khó có thể phát giác vị trí Pháo Binh của quân ta để dội đạn xuống hủy diệt, trong khi đó thì những vị trí pháo của chúng bị Pháo Binh SĐ18BB pháo kích dữ dội, nhờ các điểm cao quan sát của ta báo cáo về khi phát giác được. Để có thể dự trữ khối lượng đạn pháo dành cho kế hoạch, Tướng Đảo đã phải giảm mức tiêu thụ hàng ngày xuống còn 20%. Với sự phân tán các khẩu trọng pháo của quân ta vào những vị trí bí mật, đến ngày Cộng quân nổ súng tấn công, chúng đã không hủy diệt được pháo của quân ta, và Đại Tá Hưng đã dội lửa xuống những con sóng tấn công biển người của địch, gây thiệt hại rất nặng cho chúng. Song song đó, Thiếu Tướng Đảo cũng cho di chuyển bộ binh ra nằm ngoài rìa thị trấn, cho nên thiệt hại vì pháo địch rất nhẹ khi chúng dồn hỏa lực bắn vào trung tâm. Rồi khi quân giặc ào ạt tràn vào thành phố, lập túc bị quân ta từ bên ngoài siết chặt vòng vây tấn công ngược vào làm bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy ra khỏi thành phố. Bản thân Thiếu Tướng Đảo cũng di chuyển liên tục trong ba bộ chỉ huy sư đoàn khác nhau, Cộng quân cứ bắn dò mãi mà không tìm thấy ông. Trong khi đó thì Thiếu Tướng Đảo đang ung dung đứng dưới chiến hào với chiến sĩ của mình. Thiếu Tướng Đảo đã cho thiết lập ba Bộ Chỉ Huy ở ba vị trí khác nhau, một đặt ngay trong tư dinh Tư Lệnh trong Xuân Lộc, một tại Tân Phong và một khác trong rừng cao su. Để làm cho binh sĩ yên tâm chiến đấu và tránh cảnh hỗn loạn, Thiếu Tướng Đảo trước ngày 9.4.1975 đã cho máy bay trực thăng di tản tất cả gia đình binh sĩ và thương bệnh binh về căn cứ Long Bình.



    Để nghênh chiến với trận liệt bố trí bộ của địch, Thiếu Tướng Đảo thiết trí chiến tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh như sau. Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng giữ khu vực Túc Trưng và Núi Trản gần sông La Ngà và khu vực Ngã ba Dầu Giây, với sự yễm trợ của Chi Đoàn 3, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh. Một đại đội dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Mại Mạnh Liêu thuộc Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, lên trấn giữ Đồi Móng Ngựa nằm về phía Đông Quốc Lộ 20. Chỉ với một đại đội này, Trung Úy Liêu và chiến sĩ SĐ18BB đã giữ vững vị trí mặc dù địch tổ chức nhiều cuộc tấn công biển người cấp tiểu đoàn, đánh cho giặc những trận thất điên bát đảo và bị thiệt hại nặng. Về hướng Đông Xuân Lộc, cao điểm Núi Thị được trao cho Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Tiểu Đoàn 1/43 của Đại Úy Đỗ Trung Chu và Tiểu Đoàn 3/43 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Du trấn giữ các yếu điểm dẫn vào thành phố từ hướng Đông. Đại Đội 18 Trinh Sát dưới quyền của Đại Úy Phạm Hữu Đa nổi tiếng húc như điên phòng thủ trường trung học ở hướng Tây-Bắc Xuân Lộc. Trung Đoàn 43 quyết tâm tử thủ Xuân Lộc, quân ta đánh quá dữ và gây tổn thất lớn cho Sư Đoàn 341. Cộng quân ghi nhớ mối hận này, chỉ vài ngày sau QLVNCH bị buộc buông súng ngừng chiến đấu, Thiếu Tá Du bị giặc bắt tại nhà riêng ở Vũng Tàu rồi đem đi hành quyết ngay sau đó. Đại úy Chu may mắn sống sót, hiện nay ông đang sinh sống tại Úc Đại Lợi. Tiểu Đoàn 1/48 thuộc Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công cùng hai chi đoàn của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô được giữ làm lực lượng trừ bị, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 3/48 nằm giữ Quốc Lộ 1 ở hướng Đông Xuân Lộc, Tiểu Đoàn 2/48 vẫn còn bị kẹt nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho thị xã Hàm Tân, Bình Tuy, không về tham chiến được trong những ngày đầu. Hai Đại Đội Địa Phương Quân 353 và 367 dưới quyền Đại Tá Phúc phòng thủ thành phố.



    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh với các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Nhảy Dù, khoảng 2.000 chiến sĩ, cùng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù là một tấm lá chắn cứng ngắt ở phần phía Nam Xuân Lộc, đã giao chiến dữ dội với quân Sư Đoàn 7 BV trong khu vực đồn điền của Thống Tướng Tỵ, còn gọi là Vườn Ông Tỵ, sau khi được trực thăng vận xuống trong ngày 11.4.1975. Nhân dịp 100 chiếc UH này trở về, các phi công thuộc Sư Đoàn 3 và 4 Không Quân đã giúp di tản thật nhiều thương binh và đồng bào ra khỏi mặt trận đang lên đến cơn đỏ lửa nhất. Trưa ngày 6.4.1975, Thiếu Tướng Đảo được báo tin có một đơn vị lạ của quân ta đang hành quân về hướng Xuân Lộc. Khi liên lạc với nhau, ông được biết đó là Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, thuộc Liên Đoàn 24 Mũ Nâu. Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn Trưởng đã dẫn dắt tiểu đoàn của ông băng rừng từ quận Kiến Đức tìm về miền Đông, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Đoàn II triệt thoái từ ngày 16.3.1975. Liên Đoàn 24 Mũ Nâu với ba Tiểu Đoàn 63, 81 và 82 BĐQ đã bị kẹt trên miền cao tỉnh Quảng Đức, đã phải lội bộ trong những cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, thậm chí đi xuyên qua những mật khu của Cộng quân, lấy thực phẩm trong những kho hậu cần của chúng, đến hai mươi ngày sau mới về đến miền Đông. Tiểu Đoàn 63 và 81 Mũ Nâu lại nhận lệnh ra tăng phái cho mặt trận Phan Rang. Tiểu Đoàn 82 Mũ Nâu quân số hao hụt chỉ còn có 200 chiến binh sau khi về đến được thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng, rồi từ đó hành quân xuống tăng phái cho SĐ18BB. Thiếu Tá Long là một trong những sĩ quan trẻ xuất sắc của binh chủng Biệt Động Quân, nên trong khu vực trách nhiệm của mình là phòng thủ phi trường, ông và 200 chiến sĩ Mũ Nâu đã đánh quân giặc thua xiểng liểng và bị thiệt hại nặng. Với trận liệt mà Thiếu Tướng Đảo đã bố trí, với những cấp chỉ huy tài năng và anh dũng như vậy, dù quân ta quân số thiếu kém, hỏa lực yếu nhưng đã đánh một trận cuối cùng làm rúng động thế giới và làm cho quân giặc cúi mặt kinh hoàng.



    Ngày 8.4.1975 Thiếu Tướng Đảo bàng hoàng được Quân Đoàn III báo tin cho hay người bạn của mình là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III đã chết một cách bí mật ngay trong văn phòng của ông, nên Thiếu Tướng Đảo vội lên trực thăng trở về Biên Hòa thăm hỏi. Cũng trong thời điểm đó thì Thiếu Tướng Đảo nhận được một tin khó chịu khác nữa. Tên nằm vùng Cộng Sản Đại Úy phi công Nguyễn Thành Trung lái một chiếc F5E bỏ bom Dinh Độc Lập, với ý định giết chết Tổng Thống Thiệu, nhưng Tổng Thống Thiệu không hề hấn gì. Rồi sau khi đào tẩu ra phía Cộng quân Trung đã lái và dẫn nhiều chiếc A-37 trở vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất ngày 29.4.1975. Sau nhiều cuộc thảo luận với Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Đảo vào căn cứ Long Bình điều hợp công tác tiếp vận cho SĐ18BB và ông ngủ đêm tại đây. Đến 5G 40 sáng thì Quân Đoàn 4 BV cho nổ phát đại bác đầu tiên bắn vào Xuân Lộc mở màn cho cuộc chiến. Quả nhiên quân Cộng đã nghiên cứu rất tỉ mỉ địa hình Xuân Lộc, nên những trái đạn pháo đã dội trúng Bộ Chỉ Huy 1 của Tương Đảo. Đại Tá Hứa Yến Lến gọi điện báo tin cho Tướng Đảo, rằng tư dinh của ông đã bị phá hủy. Thật may mắn cho đất nước chúng ta, nếu Tướng Đảo về sớm hơn và vào Bộ Chỉ Huy 1, thì sự mất mát quá lớn đó sẽ là nhát chém chí mạng cuối cùng lên QLVNCH. Thiếu Tướng đảo lập tức lên trực thăng lao vào Xuân Lộc, tham dự cuộc chiến đấu cuối cùng và lừng lẫy nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông.





    Cuộc quyết chiến Xuân Lộc





    Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 Cộng quân được chọn làm mũi nhọn tấn công chính trong giây phút đầu tiên công phá vị trí Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ hướng Đông. Có 8 chiếc T54 được tăng cường cho cánh quân này, với ý đồ dùng những con ngoáo ộp này đè bẹp quân ta. Bộ binh và thiết giáp giặc ầm ầm xông tới với một khí thế mạnh mẽ và tự tin, chúng có ảo tưởng rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18 cũng sẽ không đánh mà tan và sẽ vỡ chạy như các đơn vị ngoài Quân Khu I và Quân Khu II. Nhưng sự chuẩn bị thế trận và tinh thần rất tỉ mỉ của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh đâu phải để chạy mà là dành cho quân giặc một sự ngạc nhiên đớn đau. Nên nhớ là Xuân Lộc không phải là Pleiku, Huế hay Đà Nẵng. Mà là chiến tuyến được đốt lên bằng thứ lửa thịnh nộ của người lính Quân Khu III.



    Sư Trưởng Nam Lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt đã phạm một lỗi lầm rất lớn không thể tha thứ được, là ông ta đã bỏ qua giai đoạn trinh sát thực địa thực lực đối phương trước khi ban lệnh tấn công. Cuộc gọi là “chiến thắng” dễ dàng trong những ngày tháng 3.1975 đã làm tăng thêm sự kiêu ngạo đến ngỗ ngáo của bọn tướng tá Cộng Sản. Lẽ ra Nam Lửa phải đích thân tìm hiểu xem ông ta đang đối đầu với những ai mới phải. Nam Lửa đã mắc sai lầm lớn mà có thể sẽ đưa ông ta về Bộ Tư Lệnh Miền để trình diện cấp trên, và sẽ phải trả lời ông ta đánh giá Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tư Lệnh Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo ra làm sao mà Sư Đoàn 7 của ông ta đã bị thiệt hại đến 2,000 bộ đội, một con số có thể trả giá bằng cái đầu của ông ta.



    Với tư tưởng chắc thắng đó Trung Đoàn 165 Bắc Việt từ lúc 5 giờ 40 sáng đã dùng chiến thuật biển người tràn lên hung hăng xông qua tám lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt của quân Nam. Nhưng ngay trong giờ đầu tiên, binh đội Cộng Sản đã bị các chiến sĩ Tiểu Đoàn 1 và 3 của Trung Đoàn 43, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Xuân Hiếu đánh gục ngay tại chỗ. Một ngạc nhiên đẫm máu đang chờ đón tám chiếc xe tăng của giặc. Chiến sĩ Trung Đoàn 43 đã phát minh một sáng kiến “tân kỳ” diệt tăng địch từ một khoảng cách rất an toàn. Những khẩu M 72 “Bà Già Giết Giặc” được giương ra sẵn và đặt trên một cái giá cố định đã được ngắm trước, bộ phận kích hỏa được nối với những bình điện. Người bấm dây diện sẽ nấp trong chiến hào ở một chỗ rất kín đáo và an toàn, chờ xe tăng địch đến đúng tầm, a lê hấp bấm mạch điện. Chiếc hỏa tiễn đen nhánh với 2 in 75 (khoảng 3 phân rưỡi) xịt một cái xẹt đúng vào pháo tháp địch, sức nóng trên 2,000 độ C của nó xoáy sâu vào lớp thép dầy chui vào bên trong và nổ bùng lên. Trong khoảnh khắc 4 chiếc T54 bị bắn cháy ngay trước vòng rào chiến tuyến, lính thiết giáp địch có chết cũng không nhắm mắt, vì chúng không thấy đối phương nào nhú đầu lên bắn cả. Vậy thì cái gì đã bắn chúng chứ hả. Khi ánh bình minh lên, đoàn khu trục cơ A 1, A 37 và F 5 từ Biên Hòa gầm rú xuất trận làm cho tinh thần quân ta càng bốc cao ngất trời. Trong những ngày Long Khánh đỏ lửa, Không Quân Việt Nam đã góp phần tích cực và quyết định trong nhiều trận đánh khốc liệt, mà nếu không có những người phi công dũng cảm đến phi thường đó, anh em bộ binh dưới đất còn gặp nhiều vất vả và tổn thất thêm nhiều máu xương. Mũi dùi thứ hai, binh đội Trung Đoàn 209 Cộng Sản ào ào ôm AK, B40, B41 chạy vào chiến tuyến của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân mới vừa từ mặt trận Quảng Đức về đến Long Khánh chỉ có mấy ngày. Một trung đoàn địch tưởng có thể áp đảo 200 chiến sĩ Mũ Nâu. Nhưng đụng phải Thiếu Tá Vương Mộng Long, một hào kiệt Biệt Động Quân và những ngườ lính Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đang bừng bừng cơn uất hận triệt thoái Quân Khu II, Trung Đoàn 209 bị đánh văng ra khỏi trục Quốc Lộ 1 với thiệt hại rất nặng. Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Tư Lệnh Mặt Trận đã phải kêu lên trong cuốn Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân (Quân Bắc cộng): “Không có đợt tấn công nào của sư đoàn (7) vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 ngụy (sic) và hậu trận của Trung Đoàn 52 đạt thành quả. Bộ đội chúng ta đã chật vật đánh nhau với địch để giành quyền kiểm soát từng đoạn chiến hào, từng căn nhà, từng góc phố. Giải thích tinh thần chiến đấu can cường của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Đảo cho biết: “Tất cả chiến sĩ đều quyết chiến đấu. Thậm chí những sĩ quan tham mưu, binh sĩ hậu cứ đều vào tuyến đánh địch. Còn nữa, tất cả những thành phần chiến thương hay lao công đào binh đều được phép cầm súng tử chiến. Tất cả chiến sĩ đều rất dũng cảm và giết nhiều quân địch”.







    (Mời đọc tiếp phần 3)



    Phạm Phong Dinh


    https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc2.htm
    ===========================





    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
    & Sư Đoàn 18 Bộ Binh


    Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc

    - Phần 3 -
    Phạm Phong Dinh





    PHẦN 3





    Sư Trưởng Đại Tá Trần Văn Trấn của Sư Đoàn 341 tân lập non kém mới từ miền Bắc vào Nam thận trọng hơn Nam Lửa nhiều. Biết mình biết người, Trấn đã cất công đi trinh sát tỉ mỉ vị trí và trận thế của quân ta. Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 341 ở hướng Tây Bắc Xuân Lộc nhờ có địa thế hiểm trở bảo vệ, nên cuộc tấn công của sư đoàn này vào Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng tương đối “dễ thở” hơn từ hướng Đông Bắc khá trống trải của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Trấn cho Trung Đoàn 266 chia nhiều cánh tấn công vào khu trường trung học, chỗ Đại Đội 18 Trinh Sát của Đại Úy Phạm Hữu Đa và vào khoảng đường ngoặt vòng gọi là Ngã Ba C. Các máy bay yểm trợ hỏa lực Hỏa Long C119 của Không Quân đã tức tốc bao vùng và xạ kích dữ dội xuống những chiếc áo màu rêu lổn nhổn ngoài 5 lớp kẽm gai phòng thủ, cộng thêm với quyết tâm của Đại Úy Đa và em út của ông, Trung Đoàn 266 bị đánh bật trở ra ngoài. Những thành phần khác của Trung Đoàn 266 Bắc Việt mở mũi đột phá định xông về hướng Đông xuyên qua vị trí của Tiểu Đoàn 340 và 342 Địa Phương Quân dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh. Hai Tiểu Đoàn 5 và 7 của Trung Đoàn 266 Cộng Sản bị quân Trinh Sát và Địa Phương Quân đánh tan nát, tiểu đoàn còn lại với 300 bộ đội buộc phải bỏ trận địa tìm cách đi vòng qua khỏi trường trung học và đã xâm nhập sâu 300 thước vào tỉnh lỵ Xuân Lộc. Khu chợ Xuân Lộc, nhà thờ, bến xe đò, Tiểu Khu Long Khánh tràn ngập địch quân. Đến 7 giờ 40 sáng, quân Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đã bắt đầu quậy phá thành phố, nhưng quân ta vẫn kiểm soát phần lớn Xuân Lộc.



    Tại mặt trận phía Tây, Trung Đoàn 270 Bắc Việt tiến đánh căn cứ Núi Thị và Gia Tân, nhưng chạm phải sức kháng sự kiên quyết của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43 Bộ Binh làm nó bị khựng lại. Mới chỉ bị tổn thất có 12 bộ đội mà Trung Đoàn 270 đã vội vã chém vè (rút lui) về vị trí xuất phát chờ lệnh mới. Để đương đầu với tất cả những mũi dùi đột phá và những cánh quân vào sâu trong Xuân Lộc của quân Cộng, Chuẩn Tướng Đảo tung ra một đợt phản công rất quyết liệt. Từ lúc 11 giờ trưa, lực lượng trừ bị của Sư Đoàn 18 là Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 48, do Trung Tá Trần Minh Công làm Trung Đoàn Trưởng, cùng với các thiết kỵ của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bắt đầu hoạt động càn quét địch. Sư Đoàn 341 liền gọi Trung Đoàn 270 còn nguyên vẹn lực lượng gửi một tiểu đoàn thọc ngang hông Tiểu Đoàn 1/48 để chận bước tiến của quân ta. Nhưng ở trên chiến trường Long Khánh này, phía địch đã mất hết yếu tố bí mật, các đơn vị địch dần dần lộ diện và tập trung đông đảo. Đó là điều mà Chuẩn Tường Đảo và Sư Đoàn 3 Không Quân cùng Pháo Binh chờ đợi từ những ngày đầu thiết kế. Càng tập trung quân phía địch càng lâm vào thế thất lợi và thiệt hại lớn, vì dễ dàng làm mồi cho các loại hỏa lực rất hùng hậu của quân ta. Những dàn đại pháo 130 ly, 122 ly từng gây nhiều sóng gió trên những mặt trận khác đã tỏ ra vô hiệu quả trên chiến trường



    Long Khánh. Những khẩu 105 ly và 155 ly được Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 phân tán ở những vị trí được ngụy trang cẩn thận, ông còn cho xe ủi đào những đường sâu rộng trong đất và kéo pháo xuống dấu, chỉ còn ló lên mũi súng. Chiến sĩ Pháo Bnh được đất mẹ bảo vệ chung quanh nên rất ung dung và hăng hái yểm trợ hỏa lực cho chiến hữu Bộ Binh. Chiến thuật rải quân chận địch ngay ngoài chu vi thị xã của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 đã ngăn chận hiệu quả thành phần tiền sát viên địch bám sát vào các vị trí pháo của ta để chỉ điểm tọa độ. Cho nên, trong trận Xuân Lộc, pháo binh địch chỉ bắn dò dẫm như những anh mù và pháo bừa bãi vào khu dân cư, gây tội ác lên dân chúng vô tội rất giống thời An Lộc, Quảng Trị và Kontum của mùa hè 1972. Phụ tiếp với Tiểu Đoàn 1/48, Tiểu Đoàn 1/43 và hai Tiểu Đoàn 340, 342 Địa Phương Quân mở cuộc tảo thanh khu trục thành phần Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 xâm nhập tỉnh lỵ hồi sáng. Trung Đoàn 266 liều chết cố bám thành phố nên đã cam chịu thiệt mạng đến 600 cán binh.



    Tại khu vực trách niệm của Sư Đoàn 6 tân lập Cộng Sản, áp lực của sư đoàn này đè nặng lên các tiểu đoàn Địa Phương Quân về hướng Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 274 Cộng quân tấn công xã Trần Hưng Đạo và chiếm được đoạn Đèo Mẹ Bồng Con. Đây là con đường đèo thấp chạy xuyên qua một khu rừng cao su, địa thế rậm rạp, rất thuận lợi cho địch quân thiết trí chốt từ Ngã Ba Dầu Giây về phía Xuân Lộc. Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 hỗ trợ cho Trung Đoàn 274 bằng cuộc tiến đánh làng Hưng Nghĩa và Hưng Lộc trệch về phía Tây Ngã Ba Dầu Giây. Nhưng thật ngạc nhiên và thật ngỡ ngàng cho cánh quân đánh Hưng Lộc, khi đơn vị Nghĩa Quân Long Khánh ở đây người ít, súng kém mà đã đánh quá hăng, làm quân Trung Đoàn 33 không vào được. Ý định khống chế Ngã Ba Dầu Giây cũng không thành vì Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh của quân ta đã ngăn chận được. Tuy nhiên trận chiến đấu càng kéo dài thì Sư Đoàn 18 Bộ Binh càng không còn đủ quân số để hành quân càn quét những chốt chận trên Quốc Lộ 1 ở khu vực này, quân ta chỉ có thể giữ chắc những chiến tuyến án ngữ hướng tiến của địch.



    Ngày đầu tiên bị thất lợi và thiệt hại trên khắp mọi hướng tấn công, Hoàng Cầm, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Cộng quân kiêm Mặt Trận Long Khánh buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu của Tướng Bùi Cát Vũ, Tư Lệnh Phó, điều động thành phần dự bị là Trung Đoàn 141 nhập cuộc. Các Trung Đoàn 165, 209 đều nhận thêm chiến xa và đơn vị phòng không để khai diễn đợt tấn công kế tiếp. Sư Đoàn 341 lệnh cho Trung Đoàn 270 tìm cách xâm nhập thành phố để “chi viện” (danh từ tăng viện tiếp cứu mặt trận của phía Việt cộng) Trung Đoàn 266 đang rách nát tả tơi. Cũng khoảng 5 giờ 27 sáng ngày 10.4.1975, Quân Đoàn 4 Bắc Việt mở màn cuộc tấn công đợt hai vào Xuân Lộc bằng 1,000 trái đạn pháo đủ loại vào thành phố. Đạn nổ tứ tung và bừa bãi chỉ gây đổ nát thêm cho nhà cửa dân chúng, nhưng không hề hấn gì đối với chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Vì từ những ngày trước khi mặt trận nổ, Chuẩn Tướng Đảo đã cho di chuyển các đơn vị ra thiết trí ngoài thành phố và di tản tất cả gia đình binh sĩ và thương binh về Biên Hòa. Một số dân chúng cũng được trực thăng Chinook CH 47 bốc về nơi an toàn. Nên hy vọng sẽ tạo nên một bãi máu thịt kinh khiếp như thời An Lộc của Tướng Hoàng Cầm đã không gây được một mức độ đáng kể nào, ngoài những đống gạch, tôn thiếc cháy đổ ngỗn ngang khắp nơi. Chuẩn Tướng Đảo còn chu đáo bố trí những trạm quan sát trên những cao điểm để phát giác các điểm đặt súng đại bác của địch, từ đó dàn nhạc Pháo Binh của Đại Tá Hưng và Không Quân dội xuống tiêu diệt chúng. Hoạt cảnh chiến bại lập lại y hệt một cách lạ lùng như ngày 9.4.1975. Trung Đoàn 209 vẫn bị Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân ghìm chân ở phía phi trường. Trung Đoàn 165 Cộng quân vẫn không qua được Trung Đoàn 43 của Trung Tá Trần Minh Công, mà lại hao tốn thêm 5 chiếc T54 nữa. Thế mới đau.



    Cũng giống như ngày hôm trước, đến trưa hai Tiểu Đoàn 1/43 và 1/48 của Sư Đoàn 18 làm thành hai gọng kềm đánh từ ngoại ô vào và từ lòng thành phố ra để dọn dẹp bộ đội Sư Đoàn 341 ẩn náu trong thành phố. Nhiều tù binh trẻ măng, quá trẻ là đằng khác, chỉ khoảng 16, 17 tuổi, bị quân ta bắt được trong trạng thái kinh hoàng tột độ. Đó là những em bé còn ngồi ở ghế nhà trường bị Cộng Sản đem xe đến xúc đi chở vào quân trường. Ở đó những thiếu niên nạn nhan này được huấn luyện qua loa chạy, nằm, trườn, bò, cách bắn súng, thảy lựu đạn trong vòng không quá một tuần lễ, để rồi bị thảy vào lò lửa miền Nam. Rất nhiều cậu bé mặt mũi xanh xám vì chết khiếp nằm núp trong những ống cống mà băng đạn còn nguyên xi trong ổ AK chưa bắn một viên nào. Cuộc trường chinh làm tay sai cho quốc tế Cộng Sản của bọn Cộng Sản khát máu Hà Nội chính là một cuộc trường thiên đại tàn sát thế hệ trẻ và người dân vô tội hai miền Nam Bắc.



    Thất bại buổi ban ngày, bọn tướng tá cộng vẫn không chịu cam tâm khuất phục, chúng tiếp tục khuấy phá thành phố suốt đêm với 2,000 trái đạn pháo. Chúng đang áp dụng chiến thuật làm sức lực quân ta tiêu hao, mệt mỏi vì mất ngủ như đã làm ở An Lộc. Nhưng những chiếc C130 trang bị đại bác 20 ly của Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam đã cất cánh lên vùng trời Long Khánh xạ kích yểm trợ quân bạn. Quân cộng lại thối lui, những trục đường tiếp liệu và tải thương gặp nhiều khó khăn vì phi cơ Không Quân bắn dữ quá.



    Mặt trận Long Khánh bước sang ngày thứ ba 11.4.1975, Hoàng Cầm lệnh cho Sư Đoàn 341 bằng mọi giá phải đánh thủng chiến tuyến của Trung Đoàn 43 Bộ Binh để bắt tay với Sư Đoàn 7. Lúc 5 giờ 30 sáng, pháo binh địch đã dội một cơn bão lửa xuống thành phố Xuân Lộc trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Màn lửa đạn của chúng dần dần chuyển về phía Núi Thị và Tân Phong để yểm trợ khu vực tấn công của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Nhưng thật khốn khổ cho lũ cán binh địch, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Hai cánh quân của Sư Đoàn 341 và 7 Cộng quân vẫn bị đánh văng trở ra y hệt như hai ngày trước, trong khi đó chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã tái chiếm lại được gần hết những vị trí bị giặc xâm nhập trong Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 có 300 cán binh bị thương, Sư Đoàn 341 có 1,200 bị thương. Đó là con số của phía Cộng quân công bố, trong thực tế con số này còn cao hơn nhiều. Ngoài ra Hoàng Cầm cũng thừa nhận là tất cả súng không giật 85 ly và 57 ly sau ba ngay giao chiến đều đã bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh hủy diệt hết. Hơn 100 chiếc xe vận tải của địch rùng rùng tuôn xuống từ phía Bắc trên Quốc Lộ 20 bị Không Quân Việt Nam chận đánh dữ dội buộc phải quay đầu tháo chạy.





    Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh xung trận



    Tuy rằng Quân Đoàn 4 Bắc Việt đang bị ghìm chân ở Long Khánh và bị thiệt hại rất nặng, nhưng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận định rằng, ý nghĩa của mặt trận Long Khánh không phải chỉ liên quan mỗi vấn đề phòng thủ, mà còn là tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nếu quân ta có thể gây tổn thất nặng nề cho quân Cộng, chiến thắng đó sẽ gây tác dụng tốt trong tình thế hiểm nghèo của Việt Nam Cộng Hòa, và có thể lật ngược được cán cân đang rất bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, bằng mọi cách phải khai thác chiến thắng Xuân Lộc và củng cố hùng khí chiến đấu của Sư Đoàn 18 bằng cách gửi một lực lượng chia sẻ bớt sức ép của địch trong tỉnh Long Khánh. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa mới lên nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống chưa được mấy thời gian, đã rất bận rộn đương đầu với vấn đề sinh tử của quốc gia. Tướng Toàn lập tức điều động Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng cường Biệt Động Quân và Pháo Binh để trở thành Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn III, vào mặt trận Long Khánh. Nhiệm vụ tiên khởi của Chuẩn Tướng Khôi sẽ là khai thông trục Quốc Lộ 1 từ xã Hưng Nghĩa cho đến Ngã Ba Dầu Giây. Chuẩn Tướng Khôi đã tổ chức Lực Lượng Xung Kích thành ba chiến đoàn như sau, mỗi chiến đoàn gồm một Chi Đoàn Kỵ Binh, một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và một Pháo Đội Pháo Binh:



    Chiến Đoàn 315, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỗ Đức Thảo.



    Chiến Đoàn 318, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đức Dương.



    Chiến Đoàn 322, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Liên.



    Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn 3 từng gây kinh hoàng cho giặc trong chiến dịch Toàn Thắng đánh sang các căn cứ ẩn núp và kho hậu cần của Cộng Sản trên đất Kampuchea năm 1970, 1971. Rồi đến những chiến dịch An Điền, Rạch Bắp, Tam Giác Sắt của năm 1973. Được đặt dưới quyền của Chuẩn Tướng Trấn Quang Khôi và những sĩ quan cấp Tá trẻ tuổi đầy tài năng, Lực Lượng 3 Xung Kích thực sự là một quả đấm bằng thép giáng vào bất cứ đội hình cứng nào của giặc và đánh cho nó bể vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ. Sự ra đi của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh khỏi Tây Ninh ít nhiều cũng làm giảm thiểu sức mạnh của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, đang đối đầu với Quân Đoàn 3 Bắc Việt. Chuẩn Tướng Bá chỉ còn có thể trông cậy vào Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh cơ hũu của Sư Đoàn. Đoàn chiến xa M 48 của Lực Lượng 3 Xung Kích hành quân nhanh chóng đến Hưng Nghĩa trong ngày 11.4.1975 liền đụng độ ngay với chốt của Sư Đoàn 6 Cộng Sản gần Hưng Lộc. Chiến Đoàn 315 tiếp tục theo con đường số 1 húc tới, Chiến Đoàn 318 rẽ lên phía Bắc để bảo vệ cạnh sườn Lực Lượng Xung Kích, đồng thời tìm con đường bọc vòng qua chốt địch. Chuẩn Tướng Khôi thiết lập Bộ Chỉ Huy Lực Lượng tại Trảng Bom. Cuộc tiến quân của Chiến Đoàn 315 chậm chạp vì địa thế rừng núi phức tạp hai bên quốc lộ, chiến xa của Kỵ Binh chỉ có thể tiến hàng một trên con đường nhựa và đã gặp khó khăn vì không thể dàn đội hình xung phong dội hỏa lực tiêu diệt chốt địch. Biệt Động Quân được gọi lên bứng chốt. Con đường Hưng Lộc – Dầu Giây làm gợi nhớ con đường máu Chơn Thành – Tàu Ô của Bình Long 1972. Sư Đoàn 6 Cộng Sản bám chặt Quốc Lộ 1, giống như Sư Đoàn 7 Cộng Sản giữ cứng ngắt Quốc Lộ 13 hồi mùa hè 1972. Cuộc chiến đấu của Biệt Động Quân kéo dài dằng dai qua đến ngày 13.4.1975. Ý định cho Lực Lượng 3 Xung Kích bắt tay với Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng đang bố trí quân gần Quốc Lộ 20 ở đoạn Ngã Ba Túc Trưng và ở phía Tây Bắc Xuân Lộc đã không thực hiện được.





    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện mặt trận



    Trong lúc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cầm chân Sư Đoàn 6 Bắc Việt tại Ngã Ba Dầu Giây, Chuẩn Tướng Đảo vẫn tiếp tục mở những cuộc phản công càn quét quân giặc tại Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 2/48 đang giữ an ninh cho thị xã Hàm Tân, Bình Tuy, được gọi về tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Một tin vui nữa bay đến làm nức lòng quân dân Xuân Lộc. Trung Tướng Toàn quyết định ném Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào mặt trận. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút về từ Quân Khu I đang làm nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn và tổng trừ bị cho Bộ Tổng Tham Mưu. Sự ra đi của Lữ Đoàn 1 Dù đã để lại một khoảng trống lớn tại Sài Gòn, nhưng nếu quân Dù có thể đánh thắng Quân Đoàn 4 Bắc Việt tại cửa ngỏ dẫn vào Sài Gòn là Long Khánh để giúp nâng cao tinh thần chiến đấu chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì đó là việc phải làm.



    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với một lực lượng hùng hậu gồm Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù, cộng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, quân số 2,000 chiến sĩ. Bộ Tổng Tham Mưu đã tận lực giúp Trung Tướng Toàn bằng cách huy động 100 chiếc trực thăng UH 1 và nhiều Chinook CH 47 để câu những khẩu đại bác vào vị trí chiến đấu. Hai Tiểu Đoàn Dù được không vận, một chiến thuật quen thuộc và thần tốc của quân Mũ Đỏ, nhảy ngay lên Quốc Lộ 1 ở phía Nam Xuân Lộc chiếm lĩnh và càn quét những thành phần địch bám giữ ở đó. Một Tiểu Đoàn Dùø khác nhảy xuống thiết lập chiến tuyến trong khoảng rừng cao su gần đồn điền cũ của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, hình thành thế bao vây một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 Cộng Sản Bắc Việt. Một Tiểu Đoàn Dù cuối cùng nhảy vào Xuân Lộc tăng viện cho lực lượng của Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh. Cũng nhân cơ hội quí giá này, dân chúng và thương binh còn bị kẹt trong thành phố đã được bốc ra khỏi chiến trường an toàn.



    Trước khi Lực Lượng 3 Xung Kích tiến quân lên Quốc Lộ 1, thì Tiểu Đoàn 1/52 trấn giữ ấp Phan Bội Châu bị áp lực rất nặng của Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 6 Bắc Việt, nhưng chiến sĩ Tiểu Đoàn đã giữ chắc vị trí. Mặc dù Trung Đoàn 52 đang gặp nhiều khó khăn, con số chiến thương càng lên cao, nhưng Chuẩn Tướng Đảo vẫn quyết định gọi Tiểu Đoàn 2/52 đang giữ ấp Nguyễn Thái Học trở về tăng viện Xuân Lộc ngày 10.4.1975. Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ ở gần đó nhận lệnh gửi hai đại đội trám chỗ cho Tiểu Đoàn bạn. Cuộc hành quân trở về Bộ Tư Lệnh của Tiểu đoàn 2/52 là cả một chuỗi chiến đấu hào hùng trong vòng vây thắt ngặt của giặc. Trước hết các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/52 len lỏi trên con đường mòn giữa rừng tìm cách bọc vòng qua Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 Cộng quân đang chốt chận trên khoảng Đèo Mẹ Bồng Con. Quân ta lầm lũi đi suốt đêm trong cánh rừng cao su gần ấp Núi Tùng. Nhưng đến rạng sáng ngày 11.4.1975 thì Tiểu Đoàn 2/52 chạm phải một đơn vị Cộng Sản đang chiếm giữ ấp. Cuộc tao ngộ chiến diễn ra dữ dội và kéo dài đến 4 giờ chiều, quân địch tháo chạy, quân ta tiếp tục cuộc hành trình ngay trong đêm đó và đã đến được khoảng đường Ngã Cua C. Sáng ngày 12.4.1975, Tiểu Đoàn 2/52 lại va phải một đơn vị địch khác từ phía sau lưng. Dĩ nhiên chiến sĩ ta không bỏ lỡ cơ hội nện lên lưng địch một cú để đời, tống tiễn 60 cán binh xuống địa ngục và tịch thu đúng 60 súng AK. Trận đánh này đã kết thúc đoạn đường máu trong vòng vây giặc để Tiểu Đoàn 2/52 bắt tay được với Trung Đoàn 43 Bộ Binh trấn giữ thành phố. Song song với cuộc chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/52, các Tiểu Đoàn Dù của Lữ Đoàn 1 Dù sau nhiều trận giáp chiến đã đi đến giai đoạn bao vây Tiểu Đoàn 8 của Sư Đoàn 7 Bắc Việt tại khu vực xã Bảo Định.





    Cộng Sản Hà Nội rúng động



    Sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi một cách giả tạo, tin chiến bại của Quân Đoàn 4 báo cáo về đã làm cho Hà Nội bàng hoàng rúng động. Chỉ mới có ba ngày giao chiến mà bọn chúng đã giật mình kinh hoảng, cho thấy cái lá gan thỏ đế của chúng lớn đến như thế nào. Từ đó người ta có thể rút ra được kết luận rõ rãng, rằng bọn chính trị và tướng tá giặc chỉ giỏi khoác lác mồm miệng khi có được sự may mắn nào đó, và rất nhanh chóng lộ rõ bản chất hèn nhát khi chạm phải thực tế phũ phàng. Mới có ba ngày giao tranh thôi, chưa hẳn Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã hoàn toàn thắng thế, vậy mà những khuôn mặt “lớn” của chiến dịch xâm lăng như Lê Đức Thọ, Chính Ủy, Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh,Trần Văn Trà, Tư Lệnh Mặt Trận Miền Đông, đã rối rít kéo nhau về họp để cùng “tái lượng định” tình hình, để cuối cùng nặn ra một kế hoạch nhục nhã như sau. Ngày 13.4.1975, Trần Văn Trà sẽ xuống tận hiện trường để xem bọn Hoàng Cầm, Bùi Cát Vũ làm ăn bết bát thế nào, nếu cần thì Trà đích thân chỉ huy.



    Tưởng là Trà sẽ có kế sách gì hay ho lắm để tiếp tục tấn công, bản thân ông ta cũng thấy quá khó khăn khi đối đầu với Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, những sĩ quan chỉ huy trẻ thao lược và chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh dũng mãnh. Đến đây đã lộ rõ sự thật về tinh thần và sức mạnh tác chiến của binh đội Bắc Việt. Một quân đội mà chỉ được xây dựng trên sự ép buộc dã man như bắt thanh niên đi lính, nếu trốn tránh thì cứ đè cha mẹ họ ra mà cắt hộ khẩu cho chết đói; trên sự hằn thù giết chóc: bộ đội buộc phải tiến về phía trước, chính trị viên và cấp chỉ huy dí súng đằng sau lưng, nếu bỏ chạy về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xin hàng là bị chúng bắn, hay bỏ chạy về phía sau cũng bị bắn luôn, thậm chí bị xích vào vị trí chiến đấu. Và trên hết một quân đội được xây dựng hoàn toàn bằng sự nói láo và xô đẩy cán binh vào chỗ chết vì sự dối trá tàn nhẫn ấy, thì làm sao bọn tướng tá giặc có thể hy vọng cán binh của chúng thực tâm chiến đấu cho những tham vọng và ảo vọng khát máu của chúng cho được. Bởi vậy trận đánh Xuân Lộc ba ngày chiến bại chứng minh hoàn toàn quân đội miền Bắc là một đạo quân rời rã mà chỉ được kết dính bằng thứ keo của bạo lực, nhồi sọ, căm thù và láo khoét.





    (Mời đọc tiếp phần 4)



    Phạm Phong Dinh

    https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc3.htm
    ==============================






    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
    & Sư Đoàn 18 Bộ Binh


    Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc

    - Phần 4 -
    Phạm Phong Dinh





    PHẦN 4





    Thị sát chán chê những đơn vị tả tơi của Quân Đoàn 4 Cộng Sản, Trần Văn Trà nhanh chóng đi đến một quyết định mà Hoàng Cầm và Bùi Cát Vũ đã nghĩ đến nhưng không dám trình lên, là rút quân. Nhưng để cho cuộc thối lui đó được tô vẽ bằng một thứ nước sơn giả dối khác, Trà đề nghị kế hoạch cho Quân Đoàn 4 đi vòng tránh Sư Đoàn 18 Bộ Binh và tiến thẳng về Sài Gòn. Về sau này, Trà đã rất tự đắc huênh hoang viết hồi ký khoe “sáng kiến” bỏ chạy ấy là của mình, tranh công với Văn Tiến Dũng, cũng vỗ ngực nói là “chiến lược” của ông ta. Dũng, Trà và cả bộ chính trị Hà Nội thực sự đã dự định đánh tan tành Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc để gọi là làm nhục Quân Đoàn III vàQuân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên trường quốc tế, điều mà chúng may mắn có được với Quân Đoàn I và Quân Đoàn II của quân ta trong tháng 3.1975, từ đó sẽ nghênh ngang kéo quân trên Quốc Lộ 1 về Sài Gòn. Dù sau này trong tất cả cuốn sử hay hồi ký của tướng tá Việt cộng có nói khéo thế nào, thì người đời sau cũng hiểu rõ rằng, trận đánh tại Xuân Lộc là một cuộc chiến bại nhục nhã của Cộng Sản. Muốn làm nhục một quân đội anh dũng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng Hà Nội đã nhận được một bài học cay đắng tại Xuân Lộc, mà bài học đó sẽ còn lưu lại trong sách sử đến ngàn đời sau.





    Chiến thắng cuối cùng



    Khi tổ chức bao vây Xuân Lộc, Quân Đoàn 4 Cộng Sản đã để rất nhiều thời gian nghiên cứu, thì khi muốn rút lui ra khỏi mặt trận, cấp chỉ huy địch cũng phải vạch kế hoạch tỉ mỉ không kém để làm sao cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 Bộ Binh không giải đoán được ý định của chúng. Quân Đoàn 4 sẽ rút quân dần dần, các đơn vị còn ở lại vẫn tiếp tục mở những cuộc tấn công làm ra vẻ chúng còn quyết chiếm Xuân Lộc. Theo kế hoạch này, Văn Tiến Dũng đã đích thân ra lệnh miệng cho Hoàng Cầm, từ đó Cầm điều động Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn 266 cứ ở yên tại vị trí. Trong khi đó thì Trung Đoàn 209 vẫn cứ tạo áp lực lên cạnh sườn các đơn vị của Lữ Đoàn 1 Dù. Trung Đoàn 270 Cộng Sản rút dần về phía Núi Thị và tổ chức tấn công lên cứ điểm này. Như vậy dưới mắt cấp chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh, lực lượng Cộng quân vẫn có vẻ tiếp tục kéo dài cuộc tấn chiếm Xuân Lộc. Tin tức tình báo cũng báo động cho biết Trung Đoàn 95B của Sư Đoàn 325 thiện chiến Bắc Việt đang có mặt trên cao nguyên Darlac, là thành phần tham gia chiến dịch tấn chiếm tỉnh lỵ Ban Mê Thuột, đã được gọi xuống tăng cường cho mặt trận Long Khánh. Trung Đoàn 95B, mệnh danh là Trung Đoàn Sông Hương, sau một ngày bôn tập, ngày 13.4.1975 đã có mặt trên chiến trường miền Đông.



    Một cuộc họp quan trọng diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Tướng Trần Văn Trà và các cấp chỉ huy ở đó đi đến quyết định: “Xuân Lộc là một trọng điểm trên tuyến phòng thủ của địch, chúng đã tập trung nhiều đơn vị lớn để bảo vệ. Chúng ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ nữa. Vì vậy chúng ta không còn lợi thế để tiếp tục cuộc tấn công Xuân Lộc. Nếu chúng ta chiếm giữ Ngã Ba Dầu Giây thì Xuân Lộc không còn là một trọng điểm nữa, vì nó đã nằm ngoài chu vi phòng thủ. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện hai cuộc chuyển quân: Một là, tập trung sức tấn công vào Dầu Giây từ hai hướng. Hai là, chúng ta rút quân ra khỏi Xuân Lộc”. Rất ngán sợ hỏa lực của Không Quân Việt Nam, Trà lệnh cho các đơn vị pháo 130 ly âm thầm di chuyển vào sát phi trường Biên Hòa trong tầm với tới của pháo, với ý đồ phá hủy phi trường Biên Hòa hay ít nhất quấy rối bằng pháo kích đến tối đa để ngăn chận đoàn phi cơ của quân ta cất cánh yểm trợ cho mặt trận Long Khánh và Dầu Giây. Sau cuộc họp, các đơn vị Cộng quân lục tục rút quân dần dần ra khỏi vị trí hiện tại. Dĩ nhiên những cuộc di chuyển đó không qua khỏi sự quan sát chặt chẽ của những toán Viễn Thám nằm sâu trong lòng địch báo về. Quân Đoàn 4 rút ra khỏi Xuân Lộc thì Chuẩn Tướng Đảo điều động các đơn vị bám sát theo sau, đồng thời nhân cơ hội đó 8 chiếc trực thăng Chinook đã đem vào Xuân Lộc 93 tấn đạn pháo, 100 tấn lương thực thuốc men và đạn súng nhỏ. Trong vòng năm ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh thắng được sáu cuộc tấn công cường kích của Quân Đoàn 4 Bắc Việt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Graham Martin hân hoan gọi về Washington báo tin Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh thắng hai trận đầu tiên, một tại Xuân Lộc và một tại Thủ Thừa, Long An, sau những ngày triệt thoái. Sự kiện đó đã trả lời hùng hồn câu hỏi từ chính giới Hoa Kỳ, rằng liệu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có chịu chiến đấu hay không. Với báo cáo này, ông Martin hy vọng Tổng Thống Gerald Ford có được yếu tố thuận lợi để yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận khoản quân viện bổ sung 722 triệu mỹ kim cho năm 1975. Tổng Thống Ford đã xác nhận mạnh mẽ trước Lưỡng Viện Quốc Hội:”Quân Đội Nam Việt Nam rất muốn chiến đấu. Tại Xuân Lộc, mặc dù quân số ít hơn, nhưng Quân Đội Nam Việt Nam đã chiến đấu rất anh dũng, đã giữ vững vùng đất của họ và đã gây thiệt hại nặng nề lên quân địch…” Những minh chứng rõ ràng đó đã không thuyết phục được những nhà chính trị Hoa Kỳ đã quá mỏi mệt, thiếu kiên nhẫn và không áp đảo được khuynh hướng phản chiến lẫn chủ bại trong Quốc Hội, mà Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits là đại diện cho tất cả những cái đó, với câu trả lời rất lạnh lùng, trịch thượng và tàn nhẫn ngày 14.4.1975:”Tôi sẽ thuận cho quý ngài một ngân khoản lớn để tổ chức cuộc di tản, nhưng không một xu quân viện nào cho Thiệu”. Số phận Việt Nam Cộng Hòa coi như đã được những nhà chính trị kiêu ngạo ấy đánh dấu chấm hết từ ngày 14.4.1975. Hành động phủi tay đó rồi nhiều năm sau sẽ bị công luận thế giới phân tích và phê phán nặng nề, đến nỗi người ta đã đi đến kết luận không lấy gì làm vinh dự và đẹp đẽ lắm dành cho chính giới Hoa Kỳ, rằng kết đồng minh với Hoa Kỳ có nghĩa là chắc chắn sớm hay muộn sẽ bị bỏ rơi. Nhưng đó là việc của người Mỹ. Dù có nhận được quân viện hay không thì quân dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn xác quyết: chiến đấu đến cùng. Mặt trận Long Khánh tiếp tục nổ lớn.



    Trong những ngày tình hình tạm lắng dịu, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa muốn cho thế giới hiểu rõ tường tận hơn ý chí quyết chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và bối cảnh chiến thắng ở Xuân Lộc của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã tổ chức một cuộc thăm viếng tỉnh lỵ này dành cho giới báo chí truyền thông trong và ngoài nước. Buổi sáng rất đẹp trời ngày 13.4.1975, nhiều chiếc Chinook đã chở những ký giả ngoại quốc vào Xuân Lộc. Phái đoàn được thả xuống tại Tân Phong, một vị trí dùng làm Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Chuẩn Tướng Đảo. Tại đây, giới báo chí được mời ngồi nghe người dũng tướng nước Nam, cây cột trụ chống đỡ đất nước giữa cơn nghiêng ngã, thuyết trình diễn tiến trận đánh. Người hùng Xuân Lộc đã quả quyết tuyên bố:”Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ giữ vững Xuân Lộc, dù Cộng Sản có ném vào đây bao nhiêu sư đoàn đi nữa”. Lời xác quyết can cường đó đã được chứng minh bằng cuộc thối quân của toàn Quân Đoàn 4 Bắc Việt trong những ngày tiếp theo. Theo Quốc Lộ 1, đoàn ký giả tiến vào thành phố. Họ đã chứng kiến và chụp hình, quay phim cảnh đổ nát của phần phía Bắc Xuân Lộc. Sau khi Đại Tá Phạm Văn Phúc thuyết trình diễn biến chiến sự trong năm ngày qua, Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 hướng dẫn phái đoàn đi bộ vào khu chợ Xuân Lộc và đến địa điểm triễn lãm vũ khí tịch thu được từ quân Cộng Sản. Cuộc thăm viếng của đoàn nhà báo quốc tế đã đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam Cộng Hòa trong sự chú ý của dư luận quốc tế. Tuy nhiên trong những ngày ảm đạm cuối cùng của tháng 4.1975 ấy, những bài báo ngợi ca chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ còn là những ánh hào quang lẻ loi trước khi toàn quân lực bị bức tử trong sự ngoảnh mặt làm ngơ của thế giới.



    Đánh Xuân Lộc không được, giờ đây Quân Đoàn 4 Bắc cộng tập trung quân đánh vào khu vực Ngã Ba Dầu Giây, là vị trí trách nhiệm trấn giữ thuộc Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng. Muốn đi vòng Xuân Lộc để tiến về Biên Hòa và Sài Gòn, thì Quân Đoàn 4 Cộng quân phải đánh bứt các vị trí của Trung Đoàn 52, để từ đó theo Quốc Lộ 20 tuôn xuống phía Nam. Đại Tá Dũng và chiến sĩ của ông ở trong một tình thế thật hung hiểm, số ít đối đầu với số đông đã đành, mà địa thế khá là bằng phẳng và trống trải khu vực trách nhiệm rất không thuận lợi cho một cuộc phòng thủ lâu dài. Phía Cộng Sản, với giá nào chúng cũng phải đánh thủng chiến tuyến, dù có phải thí quân tàn bạo đến như thế nào đi nữa. Ngày 13.4, trận đại chiến giữa Trung Đoàn 52 và quân Cộng bắt đầu tái diễn. Vẫn một trận bão pháo kinh khủng trút vô giới hạn xuống vị trí của Tiểu Đoàn 1/52. Dứt pháo, Trung Đoàn 33 Cộng quân thuộc Sư Đoàn 6 Bắc Việt hò hét xung phong biển người lên giao thông hào của chiến sĩ Tiểu Đoàn 1/52 đang trấn giữ ấp Phan Bội Châu. Quân ta vừa chống trả vừa lùi dần về phía Ngã Ba Dầu Giây. Đại Tá Dũng lệnh cho Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Mỹ cấp tốc hành quân đến giải vây cho Tiểu Đoàn 1/52, rồi cùng kéo về ấp Nguyễn Thái Học. Nóng lòng cuộc tử sinh của chiến hữu, hai đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52 suốt đêm lầm lũi xuyên qua những cánh rừng lá thấp bụi rậm giăng mắc, để cuối cùng bắt tay được với 1/52. Hai tiểu đoàn quân số đã sụt xuống con số đau lòng, chỉ còn 1/3 số tay súng khỏe mạnh, cùng bảo vệ nhau kéo ra khỏi Ngã Ba Dầu Giây, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 2/52 đã tách ra khỏi Trung Đoàn để về trấn giữ tỉnh lỵ từ mấy ngày trước theo lệnh của Chuẩn Tướng Đảo. Như vậy, Đại Tá Dũng chỉ có thể xoay sở với hai tiểu đoàn thiếu của ông để chống ngăn cơn sóng hung bạo của cả một sư đoàn lên đến 9 tiểu đoàn.





    Hoạt động của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III



    Lực Lượng Xung Kich Quân Đoàn III của Chuẩn Tướng Khôi vẫn còn dậm chân tại Hưng Lộc, vì những chiến xa M48 của Kỵ Binh không thể dàn được đội hình đột phá trên con lộ độc đạo. Nếu đánh thủng Hưng Lộc, thì Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của ông mới có thể tiếp cứu được Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Khôi quyết định đánh bọc hông Sư Đoàn 6 bằng cách điều động Chiến Đoàn 315 và 322 lên phía Bắc Hưng Lộc. Chiến Đoàn 325 được tổ chức thành hai cánh quân như sau. Cánh A vẫn tiến quân trên Quốc Lộ 1 thu hút sự chú ý của quân Cộng ở mặt Nam. Cánh B gồm Tiểu Đoàn 64 thuộc Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân và Chi Đoàn 1/15 dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Phạm Văn Bản, với nhiệm vụ húc qua chốt cộng và bắt tay với Trung Đoàn 52 tại ấp Nguyễn Thái Học. Đến giữa trưa ngày 14.4.1975, cánh quân của Đại Úy Bản đã xông lên tiến chiếm được Đồi 122, cao điểm phía Bắc Hưng Lộc, và sẵn sàng tiến tới nữa. Thật không may, nhiều con suối đã chận ngang đường đi, Đại Úy Bản buộc phải cho con cái tạm dừng chờ Công Binh lên bắc cầu. Sự chậm trễ này đã hiến cho Sư Đoàn 6 Cộng Sản cơ hội phát hiện được cuộc tiến quân bí mật của Chuẩn Tướng Khôi, chúng vội điều quân tới chận đánh Cánh B từ ba hướng Bắc, Đông và Tây. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 64 Mũ Nâu dàn quân kháng cự ác liệt để bảo vệ đoàn chiến xa của quân ta. Quân giặc trùng điệp tràn lên như những bầy kiến đỏ hung dữ. Cuộc chiến đấu của quân ta càng lúc càng khó khăn, sức nặng của hỏa lực và biển người càng lúc càng chồng chất lên vai chiến sĩ Biệt Động Quân và Kỵ Binh. Đại Úy Bản đã kể lại:”Địch quân tiến tới đông nghẹt như một bầy kiến, phóng ra nhiều đợt biển người lên đồi từ ba hướng. Trong tình thế nguy ngập đó, tôi đã gọi Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn yểm trợ hỏa lực phi pháo. Nhưng tất cả hỏa lực gửi đến chỉ là một vài chiếc trực thăng võ trang bắn vài loạt hỏa tiễn rồi bay đi…



    Cường độ tấn công của Cộng quân càng mãnh liệt dần lên. Tôi tưởng rằng quân ta sẽ bị tràn ngập trên Đồi 122, hay bị bao vây và bị cô lập hoàn toàn… Bỗng nhiên Việt cộng rút lui, cuộc giao tranh chấm dứt… Phía chúng tôi có 20 chiến sĩ bị thương, Biệt Động Quân gần 40… Còn xác Việt cộng nằm la liệt khắp cánh đồng lúa “. Mặc dù Cộng quân đã thôi tấn công Đồi 122, nhưng ý định đánh vào mạn sườn Bắc quân địch của Chuẩn Tướng Khôi đã không thành công và bị khựng lại, phần lớn là do địa hình ngăn trở.





    Những chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu



    Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Xuân Lộc, còn có những đóng góp rất âm thầm của nhóm công tác gồm 20 nhân viên đặc biệt từ Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Các chiến sĩ này làm việc suốt ngày đêm để dò sóng truyền tin địch và giải mã những bức điện văn. Nhờ đó quân ta biết được ý định hành quân, nơi tập trung bộ đội và báo cáo tình hình quân số của địch trên khắp chiến trường. Nhờ những dữ kiện đó mà Bộ Tổng Tham Mưu có được chi tiết chính xác để gửi một chiếc C130 chở một trái bom 15,000 cân Anh (tương đương 7.000 kí) có tên là Daisy Cutter bỏ xuống vị trí nghi ngờ là Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt cùng với một trung đoàn bảo vệ đóng quân gần đó. Cũng nhóm Phòng 7 sau đó đã bắt được sóng địch báo cáo 75% Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt đã bị hủy diệt. Vẫn chưa hết, hàng ngày từ 8 đến 12 chiếc C130 trong chiến dịch Flame Wafare (Hỏa Chiến) do sáng kiến của Không Quân Việt Nam, đã chở những cái bè gỗ trên đó chất những thùng cỡ 200 lít dầu và hơi cháy trút xuống các đơn vị địch, tạo nên những cơn sóng chấn động và lửa nóng chẳng kém gì bom lửa Napalm. Tiếng nổ liên hồi ầm ầm của những loạt bom đó rất giống tiếng bom B52, đã làm cho Hà Nội phải la làng inh ỏi, rằng Không Quân Hoa Kỳ “chơi” bom sát thương hàng loạt loại mới. Còn phía quân dân tử thủ Xuân Lộc thì hò reo hân hoan cho là B52 đã nhập cuộc. Khi biết rõ những cuộc dội bom ấy xuất phát từ Không Quân Việt Nam, chiến sĩ dưới đất đã gọi đó là những “B 52 Việt Nam”.





    Trung Đoàn 52 Bộ Binh đánh địch



    Dù bị Không Quân Việt Nam dội bom Daisy Cutter và bom “B-52 Việt Nam”, nhưng quân Cộng vẫn bám cứng khu vực Trung Đoàn 52 Bộ Binh, đồng thời gấp rút điều động Liên Đoàn 75 Pháo Binh pháo kích phi trường Biên Hòa liên tục nhằm vô hiệu quá sức mạnh của Không Quân. Đồng thời đặc công địch đã bò vào phá hủy được kho đạn trong phi trường. Hai sự kiện đó quả thật đã gây trở ngại lớn cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đặc biệt tại tuyến Dầu Giây. Rạng sáng ngày 15.4.1975, Trung Đoàn 33 và Trung Đoàn 95B Sông Hương còn nguyên vẹn sinh lực của Sư Đoàn 6 Cộng Sản mở cuộc tấn công vào ấp Nguyễn Thái Học và Đồi Móng Ngựa. Trên Đồi Móng Ngựa Đại Úy Mạch Mạnh Liêu và đại đội của ông vẫn xác định quyết tâm giữ vững vị trí, mặc dù quân số đại đội đã hao hụt quá nhiều mà không có bổ sung.



    Trung Đoàn 33 và 95B là hai trung đoàn thiện chiến rất kỳ cựu của địch, chúng hoạt động thường xuyên trên vùng Tây Nguyên và đã giao tranh nhiều trận rất lớn với Quân Đoàn II của ta nhiều năm trước đây. Trung Đoàn 33 Bắc Việt được dùng làm thành phần chủ yếu cấu thành Sư Đoàn 6 tân lập của Cộng Sản trong chiến dịch tấn công của năm 1975. Nhiều ngàn trái đạn đủ loại dội ùng oàng ác liệt xuống khắp vị trí của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Sau cơn pháo, Trung Đoàn 33 Bắc Việt tiến chiếm được Ngã Ba Dầu Giây và định đánh bứt ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng với sự có mặt của Cánh B Chiến Đoàn 315 trên Đồi 122, Trung Đoàn 33 Cộng quân buộc phải chuyển sang đối phó với lực lượng này. Trung Đoàn 95B tổ chức ba cuộc tấn công lên Đồi Móng Ngựa. Với một đại đội mà quân số đã dần hao mòn, nhưng chiến sĩ Trung Đoàn 52 Bộ Binh đã dũng liệt đánh văng xuống đội trung đoàn thiện chiến nhất của địch. Dù vậy, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng vẫn cẩn thận gửi tăng viện Đồi Móng Ngựa một đại đội nữa. Đại đội trấn giữ Đồi Móng Ngựa đã được đại đội bạn mang vác tiếp liệu đến bổ sung và tiếp tay di tản các chiến thương. Những sĩ quan cùng chung trong Trung Đoàn cảm khích siết chặt tay nhau thề cùng sống chết trên ngọn đồi thấp này.



    Chẳng lâu la gì, Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 95B Việt cộng xua quân biển người tràn lên đồi. Một đại đội tử thủ chúng còn không lên nổi, giờ đây thêm một đại đội nữa, chiến sĩ Trung Đoàn 52 dễ dàng đánh Tiểu Đoàn 2/95B địch lăn lộn xuống chân đồi. Một tiểu đoàn thứ hai âm thầm men theo Quốc Lộ 20 định đánh vào sườn quân ta trên đồi, thì đã bị Pháo Binh dội những tràng đạn tập trung chết chóc xuống làm chúng phải thối lui.



    Khi Chiến Đoàn 315 của Lữ Đoàn 3 Xung Kích đã bị khựng lại, thì Cộng quân bắt đầu mở cuộc đột phá vào ấp Nguyễn Thái Học do các đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52, Chi Đoàn 3/5 Kỵ Binh và các thành phần khác của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Cộng quân đánh quá dữ, bằng mọi giá chúng phải bứng được quân ta ra khỏi khu vực Ngã Ba Túc Trưng nằm chặn trên Quốc Lộ 20 và Ngã Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ để Quân Đoàn 4 Bắc Việt tiến về Sài Gòn. Quân ta cũng không chịu rút, dù càng lúc quân số càng hao hụt. Nhiều chiến sĩ bị thương hai ba lần, nhưng người nào còn cầm súng được vẫn cứ nghiến răng tựa lưng vào chiến hào tử chiến với giặc Cuộc giao tranh quá đỗi khốc liệt ấy kéo dài liên tục trong mười tiếng đồng hồ, tiếng đạn pháo hai bên nổ rền trời. Đến lúc mà quân số của toàn Trung Đoàn đã sụt xuống con số đau thương là chỉ còn 20% tay súng, Đại Tá Dũng đành phải ra lệnh cho chiến sĩ trên Đồi Móng Ngựa ngay trong đêm phải rút xuống và trở về với Tiểu Đoàn 3/52. Khoảng 6 giờ rưỡi chiều, Đại Tá Dũng chia lực lượng rách nát của ông thành hai nhóm. Đích thân Đại Tá Dũng dẫn một nhóm bộ binh và Kỵ Binh thoát ra khỏi rừng cao su. Nhóm thứ hai là Tiểu Đoàn 3/52 theo một hướng thoát thân. Với kinh nghiệm hành quân nhiều năm trong khu vực tỉnh Long Khánh, cả hai nhóm quân của Trung Đoàn 52 len lỏi giữa những vị trí đóng quân của địch và đã về đến được Trảng Bom an toàn.



    Mặt trận Long Khánh đã thiếu vắng một đơn vị thiện chiến, Sư Đoàn 18 Bộ Binh giờ đây phải tự điều chỉnh trận liệt với Trung Đoàn 43 và Trung Đoàn 48, cộng thêm Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tin Phan Rang thất thủ chẳng mấy chốc đã bay đến Xuân Lộc. Sư Đoàn 341 Cộng quân thôi không đánh Xuân Lộc, chúng di chuyển lên hướng Bắc tấn chiếm được Kiệm Tân và Túc Trưng, song song với những cơn pháo mãnh liệt vào phi trường Biên Hòa. Như vậy ý định cô lập Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra khỏi chu vi phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của Quân Đoàn 4 Bắc Việt đã dần dần thành hình. Một tin tức không vui khác đến từ đất nước Hoa Kỳ. Ngày 17.4.1975, Quốc Hội Mỹ đã chính thức bác bỏ khoản quân viện 722 triệu đô la cho Việt Nam Cộng Hòa. Có nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực xoay sở cứu lấy mình, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phủi tay đứng ngoài cuộc. Thật mỉa mai. Mười hai năm về trước của năm 1975, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị sát hại vì không chấp thuận sự hiện diện của quân đội Mỹ. Mười hai năm về sau của năm 1963, chẳng ai xua đuổi mà quân đội Mỹ vẫn cứ ung dung rút chạy ra khỏi Việt Nam.



    Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III trong một nỗ lực cuối cùng ngăn chận đoàn quân giặc sắp sửa tràn xuống Sài Gòn, đã điều động Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, dưới quyền của Trung Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng viện Lực Lượng 3 Kỵ Binh Xung Kích. Trung Tá Hùng cùng Trung Đoàn 8 Bộ Binh đang giữ thị trấn Phú Giáo ở phía Bắc căn cứ Lai Khê, bản doanh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trung Tá Hùng từng là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Bộ Binh, nên ông rất quen thuộc thông thổ Long Khánh. Nhưng khi ông được cử đi học khóa Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ từ năm 1972 cùng với Chuẩn Tướng Khôi, thì Đại Tá Lê Xuân Hiếu lên thay. Trung Tá Hùng xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, ông từng chỉ huy hai Đại Đội Dù tấn công vào Dinh Độc Lập ngày 1.11.163 để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Khi được gọi về trình diện Trung Tướng Toàn nhận nhiệm vụ đánh Dầu Giây, Trung Tướng Toàn hỏi Trung Tá Hùng chỉ huy Trung Đoàn 8 được bao lâu rồi. Chuẩn Tướng Đảo và Chuẩn Tướng Khôi cùng có mặt lúc đó đã dành nhiều lời nồng hậu cho Trung Tá Hùng, nên Trung Tướng Toàn vui vẻ thăng cấp ngay lên Đại Tá cho ông. Nhưng vì trong văn phòng Tư Lệnh Quân Đoàn lúc đó chỉ có ba ông Tướng, nên sĩ quan tùy viên phải chạy ra ngoài tìm lon mới cho vị Đại Tá tân thăng. Khi Trung Đoàn 8 đến Hưng Nghĩa trên những chiếc GMC, Đại Tá Hùng nhận lệnh Chuẩn Tướng Khôi chỉ huy luôn Chiến Đoàn 322, với nhiệm vụ đánh thông Quốc Lộ 1. Mặc dù Đại Tá Hùng cùng Chiến Đoàn 322 cố gắng mở cuộc đột phá rất quyết liệt xông qua ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc, Chiến Đoàn của Đại Úy Bản đánh từ Đồi 122, nhưng Trung Đoàn 95B Cộng Sản kháng cự dữ dội, quân ta không qua được, vì vậy mà Trung Đoàn 95B bị thiệt hại quá nặng, buộc Sư Đoàn 341 phải trở lại thay thế nó.







    (Mời đọc tiếp phần 5)



    Phạm Phong Dinh

    https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc4.htm
    ================================






    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Sư Đoàn 18 Bộ Binh
    Cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc

    - Phần 5 -
    Phạm Phong Dinh





    PHẦN 5





    Triệt thoái khỏi Xuân Lộc





    Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 Bắc Việt và Sư Đoàn 18 Bộ Binh diễn ra thật đẫm máu từ ngày 10.4.1975 đến ngày 13.4.1975, với phần thắng nghiêng về phía chiến sĩ Cung Tên Miền Đông. Nhưng Quân Đoàn 4 giặc vẫn tiếp tục dùng pháo binh quấy rối quân ta ngày đêm. Từ ngày đó, quân dân Xuân Lộc không còn đương đầu với bộ binh địch nữa, mà chỉ nằm chịu pháo. Một tuần tiếp theo sau là trận đánh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 8 Bắc Việt. Quân Dù đã dần dần thắt chặt vòng vây kẹp tiểu đoàn địch trong khu vực đồn điền Đại Tướng Tỵ để dứt điểm nó.



    Ngày 19.4.1975, Sư Đoàn 7 Bắc Việt trong cố gắng giải cứu Tiểu Đoàn 8, đã gấp rút tung vào chiến trường Trung Đoàn 141 trừ bị. Bộ phận dò sóng của chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu báo lên Chuẩn Tướng Đảo nội dung nghe được rất thú vị như sau:”Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 141 đích thân lên máy vô tuyến thúc giục bô đội xông lên đánh quân Dù, nhưng cán binh Trung Đoàn 141 nghe nói đánh Nhảy Dù, đã sợ hãi không dám lên. Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng quân Nhảy Dù bây giờ đánh không còn “ngon” như hồi trước nữa”. Biết được nỗi dao động của cán binh Trung Đoàn 141 Cộng quân khi đối đầu với chiến sĩ Dù, Chuẩn Tướng Đảo thông báo cho Trung Tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù biết trước cuộc tấn công này. Nên khi quân 141 xuất hiện trước chiến tuyến, chiến sĩ Mũ Đỏ chuẩn bị sẵn trận thế, đã xác minh lời của Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng lính Dù đánh không còn “ngon” là hoàn toàn dối trá. Cuộc giao tranh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Sư Đoàn 7 còn đang dằng dai, thì Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận được tin Quân Đoàn 2 Bắc Việt và Sư Đoàn 325 đã vào tới Rừng Lá, cách Xuân Lộc 20 cây số về hướng Tây. Như vậy Biên Hòa rồi đến Sài Gòn sẽ nằm dưới áp lực rất nặng của quân Cộng. Lúc 9 giờ sáng ngày 20.4.1975, Trung Tướng Toàn và Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu bay vào Xuân Lộc ban lệnh rút quân về chống giữ Biên Hòa. Con đường được chọn lựa triệt thoái sẽ là Liên Tỉnh Lộ 2 ở phía Nam Xuân Lộc. Theo kế hoạch của Trung Tướng Toàn, một khi Sư Đoàn rút ra khỏi Xuân Lộc an toàn, thì đoàn GMC sẽ đưa toàn quân số về Căn Cứ Long Bình để nghỉ ngơi vài ngày, bổ sung quân số và tái trang bị.



    Cuộc quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 BV và Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã diễn ra khốc liệt từ ngày 9 đến 21.4.975, hai bên đều bị tổn thất nặng, nhưng phần thắng cuối cùng đã nghiêng về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Theo ước lượng của Thiếu Tướng Đảo về sau này, thì phía Cộng quân bị giết chết đến 10,000 người, một con số quá cay đắng chưa từng thấy trong một thời gian quá ngắn. Cơn chiến bại này coi như là một vết hằn trong cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Đích thân Tướng Trần Văn Trà xuống “chi viện” cho Hoàng Cầm. Nhưng chính Trà sau khi suy tính nát nước, không thấy một chút le lói hy vọng chiến thắng nào, dù Trung Đoàn 52 của quân ta đã bị tổn thất rất nặng phải rút về Biên Hòa trước, đã không dám đánh SĐ18BB. Trà buộc lòng cho lệnh Quân Đoàn 4 bỏ Xuân Lộc đi vòng về Biên Hòa theo hướng Quốc Lộ 15, chỉ để các đơn vị của Sư Đoàn 7 ở lại bao vây và quấy rối Xuân Lộc. Sau này khi viết hồi ký, thì Trà lại tự cho là mình đã “phát huy sáng kiến” đánh bọc vòng xuống Biên Hòa, nhưng chúng ta nhớ lại trước khi mặt trận Xuân Lộc nổ, cũng chính Trà đã thúc giục “anh Ba” Lê Duẫn cho quân giải phóng đánh Xuân Lộc trước. Cả Trà và Cầm đều là bại tướng, nếu cách chức thì phải cách chức cả hai tướng này, chứ không phải riêng trách nhiệm của Cầm.



    Vì các quân đoàn của địch tránh né Sư Đoàn 18 Bộ Binh đi vòng theo hướng Quốc Lộ 20 và Quốc Lộ 15 xuống đánh Biên Hòa, nên nhiệm vụ bảo vệ Xuân Lộc của sư đoàn cũng chấm dứt. Đồng thời Chiến Đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi đang đánh địch tại Ngã Ba Dầu Giây cũng được lệnh kéo quân về bảo vệ thành phố này. Với hai lực lượng rất mạnh tử thủ Biên Hòa, một lần nữa tướng tá giặc lại kéo nhau đi vòng, bỏ Biên Hòa và tiến thẳng về Sài Gòn. Để đem được toàn bộ sư đoàn và các đơn vị biệt phái ra khỏi Xuân Lộc, là một công tác cực khó khăn, đòi hỏi một kế hoạch tỉ mỉ và kiên quyết. Một lần nữa, người ta lại thấy tài năng lãnh đạo và chỉ huy của những vị tướng trẻ QLVNCH trong những trường hợp dầu sôi lửa cháy như thế này. Để đánh lạc hướng Sư Đoàn 7 BV, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù nhận nhiệm vụ đánh cầm chân chúng để cho toàn bộ SĐ18BB rút đi trước. Kể từ 8 giờ tối đêm 20.4.1975, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô chịu trách nhiệm mở đường theo Liên Tỉnh Lộ 2 về hướng tỉnh Phước Tuy. Rồi đến đoàn cơ giới gồm Pháo Binh, Quân Vận, Công Binh, các đơn vị Tiếp Vận khác, hai khẩu 175 ly, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng sư đoàn. Khi đoàn Pháo Binh di chuyển đến Long Giao, một căn cứ cũ của Hoa Kỳ, thì Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh sư đoàn sẽ thiết trí một căn cứ hỏa lực tạm thời để yễm trợ hỏa lực cho toàn cuộc di tản, với sự bảo vệ cương quyết của Đại Đội 18 Trinh Sát dũng mãnh. Ở khoảng giữa sẽ là các đơn vị Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng, cùng với số đồng bào còn kẹt lại trong thị xã. Các đơn vị thuộc Trung Đoàn 43 của Đại Tá lê Xuân Hiếu và Tiểu Đoàn 82 của Thiếu Tá Vương Mộng Long chịu trách nhiệm đoạn hậu. Tất cả đơn vị đều di chuyển trong đêm 20.4.1975. Đó là chưa kể Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế vẫn còn đang trấn giữ trên Núi Thị và phải rút sau cùng. Khi Lữ Đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút lui, thì Tiểu Đoàn 2/43 là tiểu đoàn đơn độc còn sót lại, Chuẩn Tướng Đảo phải bay trên trực thăng hướng dẫn hướng hành quân cho tiểu đoàn này rút theo sư đoàn trong ngày hôm sau. Trong suốt cuộc hành quân triệt thoái, Chuẩn Tướng Đảo và các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh đều cùng di chuyển bộ với binh sĩ, đặc biệt Tướng Đảo đi lên đi xuống dọc hàng quân để khích lệ và nhắc nhở chiến sĩ luôn cố gắng bảo vệ đồng bào trong đoàn. Một chiếc trực thăng chỉ huy C&C bay trên bầu trời với Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, để giúp Tướng Đảo liên lạc và điều hợp đoàn di tản. Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 ở vào một tình thế cực kỳ nguy hiểm, rất giống như cuộc di tản Hạ Lào 719 năm 1971. Sư Đoàn 7 BV khám phá dù muộn màng cuộc triệt thoái, Trung Đoàn 141 đã hành quân đuổi theo chận đánh và phục kích quân Mũ Đõ dữ dội. Lữ Đoàn 1 Nhày Dù nhận nhiệm vụ chận hậu cho đoàn quân triệt thoái đã đụng độ nặng với Trung Đoàn 141 Cộng Sản tại Bảo Định và chịu tổn thất. Thật đau lòng, tất cả tử sĩ và chiến sĩ bị thương nặng đều không thể cáng theo được. Con đường dài đến 40 cây số xuyên qua những cánh rừng cao su thâm u dầy đặc quân Cộng, giống như một cuộc hành trình đi qua cửa địa ngục. Những tấn thảm kịch đầy máu và nướ c mắt sao cứ mãi đeo đẳng lên đôi vai còm cõi của người lính chúng ta như một định mệnh tàn nhẫn. Vẫn chưa hết, khi đoàn Mũ Đỏ ra đến Quốc Lộ 1 lúc 9 giờ đêm, thì một cảnh tưởng xúc động đến nát lòng đang chờ đón các anh. Hàng ngàn gia đình đồng bào ở những ấp Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa lển mển hành trang, tay bồng tay bế tập trung hai bên đường xin được đi theo quân ta. Nhiệm vụ đánh hậu còn oằn nặng chưa xong, giờ đây chiến sĩ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải bảo vệ sinh mạng của những đồng bào ruột thịt của các anh. Đồng bào không bao giờ chấp nhận Cộng Sản, dù có phải bỏ hết nhà cửa, tài sản khó nhọc chắt chiu từ nhiều chục năm, nhưng để được tự do, thì người dân sẵn sàng cùng dấn thân với người lính Việt Nam Cộng Hòa trên bất cứ con đường khổ ải nào.



    Đoàn quân và dân lẫn lộn xen kẻ nhau kéo đi lầm lũi trong đêm tối hãi hùng. Từ Tân Phong, đoàn người khốn khổ đến được Đức Thành. Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù được Đại Đội 1 Trinh Sát Dù bảo vệ là đơn vị duy nhất đi trên con lộ 2 hoang phế. Các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù rải quân đi sâu vào hai rừng cao su bể bảo vệ đoàn quân dân trên mặt lộ. Khoảng 4 giờ sáng rạng ngày 21.4.1975, Pháo Đội C của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh và một Trung Đội Trinh Sát lọt vào ổ phúc kích của hai tiểu đoàn giặc tại ấp Qui Ca gần ranh giới hai tỉnh Long Khánh – Phước Tuy. Quân giặc đã hò hét xung phong biển người lên tràn ngập cánh quân này. Quân ta đã tận lực chống trả đến người cuối cùng. Nhưng nhờ sự hy sinh cao cả này mà đoàn quân dân lọt đến được khu vực núi Cấm Tiên, để ở đây, Tiểu Đoàn 9 Dù đánh một trận lừng lẫy cuối cùng cho trang chiến sữ đẫm máu và lệ của binh chủng Dù, chịu chết chóc để đưa được đoàn quân dân về đến được Phước Tuy bình yên.



    Hồi tưởng lại những ngày chiến đấu ở Xuân Lộc và cuộc triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 2, Đại Úy Nhảy Dù Hoàng Văn Tuất, một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đã kể lại trong bài viết Trận Chiến Cuối Cùng Của Tiểu Đoàn 9 Dù như sau. Đại Úy Hoàng Văn Tuất xuất thân Khóa 9/68, tốt nghiệp Khóa 5 Huấn Luyện Viên, Tổng Cục Quân Huấn. Khi lên cấp Trung Úy một thời gian, anh xin thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù để thỏa chí trai bốn phương ngang dọc,Trung Úy Tuất nhận một trung đội và bắt đầu cuộc đời chiến trường đỏ lửa của anh. Theo Đại Úy Tuất, một sĩ quan cấp Trung Úy trở xuống thuộc đơn vị khác không phải xuất thân từ binh chủng Dù, chỉ được nhận trung đội để quen dần với hệ thống chỉ huy và kỹ thuật tác chiến của binh chủng Mũ Đỏ.





    Nhớ về các bạn Thiếu Úy Mỹ, Sơn và Đông.



    Hồi tưởng lại mùa xuân 1975 tại Đà Nẵng. Sau những tháng năm dài đóng quân ngoài miền hỏa tuyến, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù hậu cứ đặt tại Đà Nẵng lệnh cho Tiểu Đoàn 9 Dù hàng ngày tung những cánh quân nhỏ cấp Trung Đội hành quân lục soát thường xuyên trên các đỉnh đồi ( 400 hay 500 thước). Thật là bực bội và khó chịu cho chúng tôi, nhưng phải tuân hành. Cánh quân vũ bão hàng đầu, sau trận chiến Thường Đức 1062, Quảng Nam, không còn được dùng đúng chỉ số nữa. Sáng sớm đi lục soát, đến chiều tối mới mò về, y hệt như những chiến hữu Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam vậy. Đôi lúc chúng tôi gặp nhau trên đường hành quân, sau vụ Việt cộng pháo kích vào thành phố và phi trường Đà Nẵng.



    Vào một ngày nắng đẹp, sau hai tuần lễ thay phiên nhau trèo đèo lội suối, chúng tôi thay đồ đẹp tính đi dạo phố, không ngờ lịnh trên cho chuẩn bị hành trang gọn gàng và chờ đợi. Đổi vùng. Lịnh chỉ có thế. Chúng tôi thực sự mừng rỡ, ở một chỗ quá lâu không tốt và cũng là mục tiêu cho bọn Cộng Sản nằm vùng dòm ngó. Tin một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trám chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi khăn gói cuốc bộ đến phi trường. Nơi đây không khí nhộn nhịp hẳn lên, những vận tải cơ C130 lên xuống không ngừng, cố gắng hoàn tất nhiệm vụ là vận chuyển cả Lữ Đoàn Dù xuôi Nam. Nghe tin tình hình vô cùng xáo trộn và bi đát, rồi sẽ có đảo chánh nữa, vì thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mới ra lịnh cho đơn vị Dù về phòng thủ vòng đai an ninh thủ đô. Vì không đủ máy bay nên Lữ Đoàn 1 Dù phải chia làm đôi. Phân nửa về bằng tàu, nửa kia về bằng máy bay. Tiểu Đoàn 8 và 9 Nhày Dù lên máy bay thẳng một lèo về Sài Gòn, còn Tiểu Đoàn 1 Dù về bằng tàu Hải Quân đến Khánh Hòa, thì có lịnh tấp vô bờ phụ với Lữ Đoàn 2 Dù ở Khánh Dương. Sài Gòn thành phố thân yêu, dân chúng vẫn tấp nập buôn bán, làm ăn sinh hoạt bình thường hơn so với các nơi khác. Đơn vị rảnh rang gửi binh sĩ qua học bổ túc chiến thuật, cũng như những ai chưa có bằng Dù đều được về Trại Hoàng Hoa Thám thụ huấn khóa Dù ngay. Chỉ vài ngày sau thì Đà Nẵng mất, Thủy Quân Lục Chiến gặp nguy, cố vùng vẫy và chiến đấu lẻ loi vì không được đơn vị nào đến tiếp cứu, đành mở đường máu cố gắng về Đà Nẵng rồi tìm phương tiện xuôi Nam. Chợt nhớ đến Chiến, người bạn cùng khóa, cùng trung đội, đã tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến, mà trước khi mãn khóa một tuần đã tự sắm bộ đồ bông xanh mặc vào đi khoe khắp Đại Đội. Cầu nguyện cho nó được bình an.



    Học bổ túc cũng chỉ được vài ngày. Lúc bấy giờ mặt trận Long Khánh đã bùng nổ rất ác liệt, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo của Sư Đoàn 18 và các đơn vị dưới quyền của ông quyết không để một tấc đất nào rơi vào tay bọn Cộng Sản. Tướng Cộng Sản giận dữ tung thêm các sư đoàn thiện chiến vào định giải quyết chiến trường mau lẹ, để rồi tiến thẳng vào Sài Gòn càng sớm càng tốt như ý họ mong muốn. Nhưng Bộ Tổng Tham Mưu của ta không để cho chúng được toại nguyện, lịnh tung quân Dù vào trận chiến. Tiểu Đoàn 9 Dù có tên trong danh sách nhập trận. Chúng tôi đành bỏ khóa học Dù nửa chùng. Đoàn GMC chở chúng tôi qua phi trường Tân Sơn Nhứt, để rồi từ đó lại được các trực thăng Chinook đưa vào Long Khánh. Nhìn vào bản đồ mới lảnh sau khi họp với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, sao chấm đỏ (Cộng Sản) ở đâu mà nhiều thế. Thiếu Úy Khánh phụ tá cho Đại Úy Chỉ, sĩ quan Ban 3 kêu nhỏ chúng tôi lại một góc và dặn dò:



    – Chúng mày cẩn thận, trận chiến này ác liệt lắm đó nghe. Ráng giữ mình để rồi còn về nhậu với tao!



    Thiếu Úy Mỹ, Sơn của Đại Đội 92, Thiếu Úy Đông và tôi của Đại Đội 93 hiện rõ nét ưu tư trên khuôn mặt. Chúng tôi lặng lẽ lui ra và căn dặn thuộc hạ thận trọng trong cuộc hành quân này. Chinook thả chúng tôi vào trận chiến, trực thăng đậu ngay trên quốc lộ. Chúng tôi ào ra và thật ngỡ ngàng. Dân chúng kẻ bồng người bế, lần lượt di tản. Cạnh quốc lộ xác chết vô số kể, dân thì không nói chi, còn lính thì được bạn bè phủ cho tấm poncho, rồi vội vàng cất bước, phần đông bị trúng đạn pháo của địch. Chúng tôi dàn quân và tiến một cách thận trọng. Đầu tiên băng qua vườn trái cây, vườn mít. Ngày đầu chúng tôi ăn mít trừ cơm, ôi, những múi mít vàng thơm ngon lạ thường. Đêm đó tôi mắc võng ngủ dưới tàng cây và hương thơm của mít đã ru chúng tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đêm bình yên đã qua, sáng sớm được lịnh di chuyển, gần cả ngày vẫn không thấy động tịnh gì. Chúng tôi bắt đầu lo, hễ vào vùng rồi mà yên tĩnh như thế là biết bọn Cộng Sản ở phía trước đang chờ đón chúng tôi. Tuy nhiên, trên bầu trời Không Quân bạn đủ loại từ A1 Skyraider đến A 37, rồi trực thăng võ trang không ngừng xuất hiện thay phiên oanh kích và bắn phá xung quanh chúng tôi đẻ yểm trợ.



    Đến ngày thứ hai, bọn Cộng Sản bắt đầu lộ diện và giao tranh cầm chừng cốt nhữ chúng tôi vào bẫy mà chúng đang giăng. Chúng tôi tiến chậm. lục soát kỹ vài giao thông hào còn mới toanh, bọn chúng nhữ chúng tôi vào sâu hơn. Qua khỏi những vườn trái cây, sâu vào phía trong, chúng tôi đụng phải vườn cao su bao la ngút ngàn rộng cả trăm mẫu. Việt cộng xuất hiện mọi nơi, giờ thì chúng tôi thực sự chạm địch. Một vài tên Cộng Sản khôn ngoan núp trên cây cao su nhắm bắn chúng tôi tùng thiết sau thiết giáp M113, cỏ mọc cao ngang bụng. Thiết Giáp khai hỏa trước, sau đó chúng tôi xung phong tấn công mục tiêu, mà hễ lên bao nhiêu là bị đốn ngã bấy nhiêu. Một chiếc thiết giáp bị trúng B40 nữa, Dù và Thiết Giáp mới vỡ lẽ, cùng đồng loạt hướng mũi súng lên các ngọn cây cao su mà khai hỏa. Từ xa chúng tôi thấy xác chúng rơi xuống như mít rụng. Tổng kết trong ngày, Tiểu Đoàn 9 Dù thiệt hại nhẹ, tuy nhiên có một sĩ quan Dù tử trận. Được biết anh ấy nhận lịnh chiếm mục tiêu, thấy binh sĩ bị thương anh nóng ruột tiến hàng đầu trong lúc binh sĩ chưa chuẩn bị kịp thì anh đã bị đốn ngã.



    Trận chiến cứ tiếp diễn từ ngày này qua ngày khác, ban ngày tiến chiếm mục tiêu, nửa khuya lặng lẽ rời bỏ vị trí, có lúc 9, 10 giờ đêm vẫn còn đánh. Xác chiến hữu hồi chiều đến giờ vẫn còn nằm bên miệng hố địch mà không làm sao đem ra được. Đại Úy Tường, Đại Đội Trưởng Đại Đội 93 ra lịnh trung đội tôi bằng mọi cách phải đem xác về. Đợi đến khuya chúng tôi lấy dây dù cột võng nối hai, ba sợi lại làm một im lặng bò lên dùng đầu dây cột vào chân xác chết kéo nhẹ về. Việt cộng nghe động liền nổ súng. Khi kéo được xác bạn mình về thì thân thể anh nhận thêm một số vết đạn nữa. Đêm đó chúng tôi chôn xác anh tại chỗ. Khoảng 2 giờ sáng, đang ngủ ngon sau một ngày vất vả, chúng tôi được lịnh bỏ vị trí và dời quân. Cứ như thế cho đến suốt cả tuần. Lương thực và đạn dược bắt đầu cạn dần, tiếp tế rời rạc khó khăn. Đôi lúc chúng tôi xin thực phẩm của dân để bù dắp.



    Trở ngại đến với chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn. Như hôm nay đang di chuyển bỗng gặp một nhánh sông trước mặt mà nhìn vào bản đồ lại không có tên. Chúng tôi cố gắng vượt qua. Nhảy Dù mà, cố gắng hết mình. Nhưng Nhảy Dù dở ở chỗ là nhân tài biết lội lại không nhiều, hành trang cồng kềnh, chưa kể súng đạn, nên khi qua kiểm điểm lại có vài binh sĩ bất khiển dụng vì uống nước sông quá nhiều, cũng như có hai binh sĩ bị nước cuốn trôi vì dòng sông nước chảy siết. Thật vô lý, sau đó chúng tôi tự nguyện mỗi lần về hậu cứ, sau giờ học Thái Cực Đạo là xin cấp trên cho đi học bơi. Ra khỏi vùng bàn giao cho đơn vị bạn, chúng tôi được nghỉ xả hơi một ngày cạnh quốc lộ và cũng nhận được tin vui từ Bộ Tư Lệnh Dù là đã được Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng bằng cách thăng cấp tại mặt trận cho các quân nhân từ cấp Trung Đội Trưởng trở xuống hàng khinh binh lên một cấp. Thêm vào đó, chúng tôi được bổ sung vài sĩ quan hiện dịch về Tiểu Đoàn. Họ đã ra trường sớm hơn ngày mãn khóa, và đồng thời lúc đó cũng là ngày buồn cho Cộng Sản đã được lãnh hai quả CBU do Không Quân ta gởi tặng.



    Sau một ngày ngơi nghỉ lại tiếp tục di chuyển, tiến men theo quốc lộ Sài Gòn – Vũng Tàu về hướng Bà Rịa. Vừa đến gần Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi bị pháo kích, đoàn quân hỗn loạn. Trung Tá Nguyễn Văn Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Dù của chúng tôi bị thương đầu tiên. Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Phó lên thay. Tại Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi được Tiểu Khu Trưởng (một cựu sĩ quan Dù) tiếp đón ân cần và tiếp tế lương thực. Dân chúng Bà Rịa hay tin có mặt đơn vị Dù ở đây, họ vui mừng khôn xiết đem đồ ăn và tặng phẩm tới tấp. Chúng tôi có được hai ngày ở Phước Tuy thật thoải mái, hàng quán chỉ còn thưa thớt nhưng được chúng tôi chiếu cố thật kỹ. Đến ngày thứ ba, binh sĩ gác cầu Long Hương phát giác tăng địch xuất hiện nhưng họ tưởng là chiến xa bạn nên không báo cáo. Lúc ấy Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Dù đóng trong dinh Tỉnh Trưởng được thiết vận xa nằm ngoài làm an ninh. Những trung đội chúng tôi nằm rải rác dọc theo hai bên phố ngoài thị xã. Chiến xa địch sau khi điều chỉnh tác xạ, chúng bắt đầu nã đại liên cùng đại bác về phía Dù. Thấy việc lạ, chúng tôi báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và xin lịnh. Khi được tin đúng là tăng địch, Dù và Thiết Giáp thêm một lần vất vả, vì không ngờ đó là T54, trong khi Thiết Giáp tăng phái chỉ toàn M113 và 2 chiếc M 48. Binh sĩ Dù nằm dọc theo hai bên phố lấy lại bình tĩnh và bắt đầu sử dụng M72 bắn cầm chân chiến xa địch để Thiết Giáp hộ tống Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 9 Dù rút về hướng Vũng Tàu. Chiến xa địch cũng không dám tiến lên, chúng đang đợi bộ binh tùng thiết đến tấn công, chúng tôi lợi dụng khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đưa toàn Bộ Chỉ Huy thoát khỏi tầm đạn tăng địch. Tuy nhiên địch vẫn bám theo sát. Đến cầu Cỏ May, địch lại càng gần ta hơn vì quân ta gặp một trung đội Thủy Quân Lục Chiến đang giữ cầu không cho chúng tôi qua. Sau một hồi thảo luận họ mới kéo hàng rào cản, và không hiểu sao họ lại theo chúng tôi luôn. Thực sự lúc đó địch đã gần kề. Lịnh trên cho toán Công Binh Dù nổ mìn giựt sập cầu. Nhưng mìn mang theo lúc đó không còn nhiều, nên sức công phá chỉ đủ sập một nhịp mà thôi. Như thế cũng khá lắm rồi. Tăng địch bắt buộc dừng lại, nhưng chúng cũng không để yên, luôn bắn đạn tầm xa với theo chúng tôi làm một số binh sĩ theo những chiếc M113 sau cùng bị thương.



    =================================================








    PHẦN 6

    Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo (Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh) Chiến trường Xuân Lộc 1975



    Gần đến thị xã Vũng Tàu, qua khỏi một khúc quanh không xa Trường Thiếu Sinh Quân cho lắm, cả một đại đội địch ở đâu không biết ào ra bao vây chiếc M113 do tôi dẫn đầu và mở đường cho Tiểu Đoàn Dù phía sau. Tuổi chúng còn thật trẻ, vài đứa mặc quần áo của ta trông thật không giống ai. Tôi lấy khẩu T38 nhét dưới đùi, trường hợp bất trắc có thể sử dụng ngay. Nhanh trí tôi liền đứng dậy đưa hai tay tỏ dấu thân thiện và la lớn:



    – Bạn đây, bạn đây, đừng bắn!

    – Một tên tiến đến gần có vẻ là cấp chỉ huy đã hỏi tôi:

    – Bạn hả? Mới lấy được tăng ngụy phải không? Còn chúng nó đâu?



    Tôi vẫn tiếp tục cứng với nó, mặc dù trong bụng hơi run, không biết có qua mặt nỗi bọn ác ôn này không. Tôi chỉ đại ra phía sau, bỗng dưng hắn tưởng thiệt, ra lịnh cho đám lính lui và dạt ra hai bên nhường đường cho xe tôi qua Như đã nói trên là đang ở khúc quanh, xe tôi và chiếc thứ hai khá xa nên không thấy gì hết. Tôi cầm khúc cây nhỏ khỏ vào đầu nón sắt của anh lính Thiết Giáp ra lịnh tống hết ga chạy về phía trước, rồi nói với anh hiệu thính viên liên lạc với chiếc thứ hai rằng bọn chúng đang phục kích trước mặt, hãy đề phòng. Như chuẩn bị trước, những chiếc kế tiếp tiến lên và khai hỏa vào hai bên đường. Bọn Việt cộng chết vô số kể và lẩn trốn để đoàn xe tiếp tục triệt thoái về hướng Vũng Tàu.



    Tới Bến Đá, giờ đây đủ các quân binh chủng của ta thuộc Quân Khu III, chưa kể một số đơn vị thuộc Quân Khu II và còn dân chúng nữa. Không thể tưởng tượng được, Thiết Giáp không còn đất sử dụng và cũng cùng đường rồi. Những tài xế lái thiết xa cho máy nổ, sang số cho xe chạy sát bờ biển, ra lịnh mọi người nhảy ra ngoài, xe tiếp tục lăn xích đi xuống lòng đại dương. Trung Sĩ Hai đứng chết lặng, hai hàng nước mắt tuôn rơi nhìn lần cuối chiếc M113 từ từ mất dạng trong biển nước mênh mông. Giờ thì Thiết Giáp theo lính Dù luôn, chúng tôi đi đâu họ theo đó. Hậu cứ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù ở Vũng Tàu đem thuyền nhỏ đến rước chúng tôi, vì không còn phương tiện hiện hữu nào có thể sử dụng vào lúc này. Lênh đênh ngoài khơi cả buổi, liên lạc nghe ngóng, tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi bản tin nghe được từ máy radio bỏ túi, lịnh Tướng Minh tuyên bố buông súng đầu hàng. Thôi hết rồi. Tiểu Đoàn 9 thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù quăng tất cả vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng xuống biển và tự ý tan hàng sau lời nhắn nhủ đầy xúc động của Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Trưởng. Chúng tôi giã từ vũ khí một cách bất đắc dĩ ngoài khơi Vũng Tàu, không đầy hai hải lý cách đất liền. Ngoại trừ một số chết và bị thương, quân số Tiểu Đoàn còn 80%.



    Viết để hồi tưởng lại, người sống cũng như người chết, bạn hữu, thân bằng quyến thuộc đã hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia và Dân Tộc. Tin vào ngày mai, tất cả sẽ đổi thay như luật trời đã định. Đoàn quân ta sẽ trở về trong danh dự và bọn Cộng Sản không còn hiện hiện trên đất nước thân yêu của chúng ta nữa.



    Ngày 25.4.1975, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được xuất phái ra khỏi Sư Đoàn 18 Bộ Binh, di chuyển về bảo vệ Vũng Tàu. Trước đó, trưa ngày 22.4.1975, một chiếc C 130 chở một trái bom CBU 55 bay lên vùng trời Long Khánh và đã thả nó lên chỗ tình nghi là Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 341, mà đang đóng ngay ngoại ô tỉnh lỵ Xuân Lộc. Tấm thảm lửa phosphor từ trái bom vỡ bùng lên và ngay lập tức, một khoảng không gian bị hút lấy dưỡng khí từ đám lửa, đã làm cho binh đội Việt cộng bên dưới ngã lăn ra chết vì ngạt thở. Tổn thất của Sư Đoàn 341 thật khủng khiếp, 250 cán binh Cộng quân chết trong những tư thế đau đớn. Sau GBU 7 tấn, thì CBU 55 là loại bom sát thương chống người, trong nỗ lực ngăn chống làn sóng Cộng Sản quốc tế. Nhưng một vài trái bom đó không đủ làm thay đổi tình thế, mà chỉ kéo dài thêm thời gian hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng trong ngày 22.4.1975, Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Chiến Đoàn 322 của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng đã chiếm được Hưng Nghĩa, nhưng được lệnh rút quân ngay về bảo vệ Biên Hòa.



    Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Chế nhận lệnh Chuẩn Tướng Đảo đang bay chỉ huy trên C&C rời bỏ con đương Liên Tỉnh Lộ 2 chia thành nhiều nhóm nhỏ cắt đường rừng mà đi. Cộng quân cứ ra rả gọi loa kêu đích danh Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế bó tay qui hàng. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cực nhọc chiến đấu liên tục đến ngày 23.4 mới về đến được Phước Tuy, quân số hao hụt đến hơn 50%. Một con số hết sức đau xót cho số thân nhân của các tử sĩ đang ngóng trông các anh ở hậu cứ Long Bình. Cuộc hành quân hoàn tất buổi chiều ngày 21.4.1975. Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã phải bỏ ra ba ngày để tái trang bị, bổ sung quân số tại Long Bình. Ngày 24.4.1974, chiến sĩ Sư Đoàn nhận được tin vui. Tổng Thống Trần Văn Hương đến Long Bình vinh thăng đặc cách Thiếu Tướng cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và thăng thưởng nhiều chiến sĩ hữu công khác.



    Nhớ lại mười hai ngày đêm chiến đấu tại Long Khánh, các chiến sĩ bộ binh dưới sự hỗ trợ của trên 600 phi xuất Không Quân, Pháo Binh và Kỵ Binh, đã bắn cháy hơn 30 xe tăng địch quân, tiêu diệt 10,000 quân giặc. Sư đoàn di chuyển về khu vực Sài Gòn để chuẩn bị đánh những trận đẫm máu cuối cùng bảo vệ thủ đô. Sáng ngày 30.4.1975, các đơn vị sư đoàn đang trấn giữ khu vực Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa, thì Thiếu Tướng Đảo nhận được điện gọi của Đại Tá Lê Xuân Hiếu báo tin Tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng giặc và lệnh cho toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải buông súng “ai ở đâu thì ở đó chờ quân giải phóng đến bàn giao”. Trong một nỗ lực cuối cùng, Thiếu Tướng Đảo cố gắng liên lạc với các Trung Đoàn Trưởng, nhưng các đơn vị đều đã tan rã. Vẫn không chịu khuất phục và bỏ cuộc, trong bộ quần áo dân sự, Thiếu Tướng Đảo tìm cách về đến được Cần Thơ, với hy vọng Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tiếp tục chiến đấu. Nhưng người anh hùng thất cơ lỡ vận của chúng ta chỉ có thể tìm thấy một thành phố ngơ ngác, hoảng loạn và tin tức về cái chết anh dũng của hai vị Tướng. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh bảo vệ Cần Thơ cố gắng liên lạc với Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, với một hy vọng mỏng manh nào đó. Nhưng Chuẩn Tướng Hai cũng đã uống thuốc độc tử tiết chiều cùng ngày. Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc hãy còn đang đánh nhau với Cộng quân tại chiến trường biên giới Mộc Hóa, rồi cũng tan hàng trong cay đắng. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc đánh dấu chấm hết một cách oan khuất và tức uất kể từ giây phút đó. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, người anh hùng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam trở về Sài Gòn. Ngày 9.5.1975 Thiếu Tướng Đảo bị gửi vào trại tù Cộng Sản. Người anh hùng của đất nước phải trả một cái giá quá đắt cho chiến thắng Xuân Lộc với mười bảy năm tù dài đăng đẵng. Tháng 4.1993, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đặt chân lên mảnh đất tự do Hoa Kỳ. Một trong những công việc trước nhất mà ông nghĩ tới, là đi tìm thăm lại tất cả những chiến sĩ thuộc cấp từng sát cánh chiến đấu với ông từ ngày ông về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Câu hỏi đầu tiên của ông lúc nào cũng là:”Các anh em có phiền trách gì tôi không?”. Đã một phần tư thế kỷ trôi qua rồi mà Thiếu Tướng Đảo vẫn hãy còn rất băn khoăn, rằng ông đã có lỗi để cho chiến hữu của ông phải rơi vào cơn bão xoáy tang tương của đất nước đến như vậy. Nhưng câu trả lời bao giờ cũng là:”Anh em vẫn luôn kính yêu Hằng Minh (danh xưng chiến trường của Thiếu tướng) như ngày nào. Hằng Minh không có lỗi gì hết”. Thiếu Tướng Đảo đã dùng danh xưng chiến trường Hằng Minh để tưởng nhớ đến sự hy sinh dũng liệt của cố Trung Tá Lê Hằng Minh, là bào đệ của ông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến, tại vùng Phong Điền, Thừa Thiên, trong một cuộc phản phục kích đẫm máu với quân giặc.



    Trong trại tù, Thiếu Tướng Đảo đã khảng khái nói với các cai ngục Cộng Sản:“Nếu các ông còn đang giam giữ nhiều chiến hữu sư đoàn của tôi, thì tôi mong là tôi sẽ là người sau chót bước ra khỏi đây. Nếu khác đi thì tôi không còn mặt mũi nào nhìn họ nữa”. Khi được hỏi về những ký ức ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Đảo đã trầm ngâm đôi giây phút:”Chiến đấu là một nghệ thuật.Chúng ta không phải dùng tay và chân thôi, mà còn trí óc nữa. Cho dù biết đang thua cuộc chiến tranh, tôi vẫn chiến đấu“. Với bản tính khiêm tốn, lời nhắn nhủ với tác giả sử gia Jay Veith, người đã bỏ công phục hiện lại diễn tiến Xuân Lộc, của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, được dùng làm lời kết cho thiên anh hùng ca này:”Xin đừng gọi tôi là anh hùng. Những chiến hữu của tôi đã hy sinh tại Xuân Lộc và những chiến trường khác mới chính là những anh hùng“. Không cần thiết phải ngợi ca Thiếu Tướng Lê Minh Đảo là một anh hùng. Những dữ kiện của sự thật đã nói lên được điều đó.



              

    Hình: Nguyễn Ngọc Chấn, CNN (nguồn hình: http://bietdongquan.com)

              


    Tướng Đảo đặt vòng hoa: Lễ đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm ở Phoenix. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Trung Tướng Edison đang nghiêm chào tượng đài chiến sĩ trận vong.



    (Trích trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)

    Tài liệu tham khảo:



    • George J.Veith, Fighting is an Art: “The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9 – 21, 1975″.



    • Đại Tá Hứa Yến Lến, Tuyến Thép Xuân Lộc, 12 Ngày Đêm Ác Chiến Với Cộng Sản Bắc Việt.







    Phạm Phong Dinh

    https://hon-viet.co.uk/PhamPhongDinh_Th ... anLoc5.htm
Hình đại diện
Bạch Vân
Bài viết: 5484
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 19:19
Gender:

Re: - 30/04/2024 - tưởng niệm 49 năm người Việt mất miền Nam Tự Do

Bài viết bởi Bạch Vân »

  •           

    KHU RESORT & NGÔI MỘ TẬP THỂ 70 QUÂN CÁN CHÍNH VNCH
    BỊ CỘNG SẢN TÀN SÁT TẠI CÔN ĐẢO SAU NGÀY 30-4-1975





    Câu chuyện mà chúng tôi sắp kể sau đây là câu chuyện về một “chuyến tàu đêm” không bao giờ về đến bến của một người bạn của chúng tôi và câu chuyện vẫn ám ảnh họ không nguôi cho đến bây giờ.

    Câu chuyện bắt đầu bằng một chuyến du lịch của vợ chồng người bạn (LN) đi Côn Đảo hồi đầu tháng 10/2017. Anh kể, vợ anh là một người vốn khá nhạy với điều mà người ta hay gọi là “âm khí”. Ở đâu có “nó” là người vợ đều có thể cảm nhận được ngay và thường có cảm giác rất sợ hãi.

    Khu resort nơi họ ở tại Côn Đảo rất đẹp, là một trong các resorts nổi tiếng ở đó. Nhưng không hiểu sao, hoàn toàn chỉ bằng cảm tính, người vợ có một cảm giác không yên trong thời gian nghỉ ngơi ở đây, cái cảm giác lành lạnh như lúc nào cũng có những đôi mắt vô hình nhìn mình từ đằng sau.

    Mặc dù khu resort rất đẹp, nhưng hai đêm liền người vợ không tài nào ngủ được. Cảm giác sợ hãi, lành lạnh sống lưng khiến người vợ không tài nào nhắm mắt được dù ở bên cạnh người nhà. Người vợ luôn có cảm giác như có những ánh mắt vô hình cùa ai đó từ cõi âm đang nhìn mình chăm chú khiến người vợ có cảm giác nổi gai ốc và cứ phải quay lại nhìn sau lưng mình, rồi nhìn về những góc phòng.

    Thậm chí, sáng hôm sau, khi ở phòng resort một mình, không chịu nổi sự sợ hãi vì cảm giác rất nhiều “người lạ” cũng đang hiện diện ở trong phòng, người vợ đã phải chạy ra ngoài dù ở ngoài nắng đã lên cao và thời tiết rất nóng. Một cảm giác rất lạ mà người vợ chưa bao giờ thấy dù đã từng đi nhiều nơi, ngủ một mình ở những nhà công vụ hoang vắng, xa khu dân cư.

    Ngày cuối cùng, khi mọi người trong nhóm tour xuống phòng ăn để ăn bữa sang, một cô bạn trẻ đi cùng kể cho người vợ nghe:

    “Hồi tối em hết hồn chị ơi. Em đang xếp đồ vô valy để hôm nay về, tự nhiên linh tính mach bảo, em nhìn qua tấm kính (resort nơi mọi người ở là những ngôi nhà có vách ngăn các phòng bằng kính) thì thấy một người đàn ông đứng nhìn em. Ông mặc sơ-mi màu nâu, tay dài cài khuy, đeo cà vạt. Em hét lên: Anh ơi, có ai trong phòng. Chồng em chạy ra thì không thấy chi cả. Ảnh nói làm sao trong nhà mà có người lạ được, có lẽ em thấy cái chi đó rồi tưởng tượng ra thôi. Tuy vậy, chồng em cũng muốn yên tâm nên gọi bảo vệ lên cùng để đi quanh ngôi nhà và ngoài vườn nhưng vẫn không thấy ai cả”.


    o O o

    Câu chuyện tưởng sẽ đi vào quên lãng theo thời gian, nếu như hai vợ chồng anh ấy không post hình đi chơi đảo của mình lên mạng, và sau đó, tình cờ có một người, một phụ nữ hoàn toàn không quen biết (tên là HN – đang sinh sống tại hải ngoại) vào comment, viết rằng nơi ấy rất đẹp nhưng cô không thể sống ở đó được vì bị một nỗi ám ảnh rất lớn: cha của cô là một Cảnh Sát dưới chế độ VNCH, một trong những công chức, quân nhân sống và làm việc trên đảo trước năm 1975, đã bị nhà cầm quyền cộng sản hành hình vào một đêm tối ở nơi ấy.

    Nghe vậy, người vợ cảm thấy rợn người, nổi da gà và ngay lập tức chợt nhớ lại cái cảm giác xốn xang ớn lạnh và không yên ổn những ngày ở resort Côn Đảo.

    Sau khi nghe câu chuyện này, người vợ đã kết bạn với chị HN và hai người đã nói chuyện với nhau thật nhiều sau đó.

    Và theo lời chị HN kể lại, một sự thật kinh hoàng từ từ được hé lộ:

    Sau khi Miền Nam Việt Nam bị cộng sản Bắc việt cưỡng chiếm, những người từng làm việc cho chính quyền Miền Nam gồm công chức, quân đội, nhân viên làm ở trại tù đều bị cộng sản tập trung lại và bị nhốt. Con số này khoảng 70 người.

    Đêm 23/12/1975, bọn cộng sản tại Côn Đảo đã đánh lừa gia đình các quân, cán, chính VNCH là sẽ đưa hơn 70 người gồm quân nhân, cảnh sát, viên chức chế độ cũ đã từng làm việc tại Côn Đảo lên tàu về Cần Thơ để “học tập cải tạo”. Thân nhân của họ nghe vậy thì chỉ biết hay vậy, và ngay sau đó 70 người bị bắt đưa đi và từ đó, mọi người cũng không được thông báo gì thêm sau đó.

    Và rồi mãi mãi sau đó, không một người nào trong số 70 người ấy sống sót trở về với gia đình !!!

    Sự thật về cái đêm khủng khiếp kinh hoàng đó, người thân của nhóm Quân, Cán, Chính VNCH này không ai hay biết và mọi bí mật có lẽ sẽ hoàn toàn bị chôn vùi theo năm tháng.

    Mãi cho đến nhiều năm sau, có lẽ do Trời xui, Đất khiến, cái màn sương âm u và kinh hoàng che giấu cái chết oan khiên tức tưởi cùng một lúc 70 người đó được vén ra qua lời kể của một kẻ tâm thần, nửa điên nửa tỉnh, một trong những tên cộng sản man rợ mất hết nhân tính, đã ra tay hạ sát các anh, các chú bác này, là gã Tư Đ. trong một lần say xỉn đã “tự nhiên” cao hứng buột miệng kể ra.



    (hình minh hoạ)



    Gã này còn kể lại rằng tất cả những người tù VNCH này bị đưa đến một khu rừng dương hoang vắng trên đảo, tất cả sau đó đều bị đập vào đầu, nhiều người chết ngay tại chỗ, nhưng cũng có nhiều người vẫn chưa chết hẳn, nhưng vẫn bị vùi sống xuống cái hố đã được bọn chúng đào sẵn. Khu nầy cách xa khu dân cư chính của đảo đến khoảng 10 cây số, một địa điểm hoàn toàn hoang vu vắng người, vô cùng tiện lợi cho mục đích của những kẻ sát nhân man rợ đầy thú tính.

    Nhiều năm nữa đi qua… Người thân của những người bị giết chết đau cái nỗi đau không nói được nên lời. Thân phận họ, những người thuộc “bên thua cuộc”, hoàn toàn là thân phận con sâu cái kiến, biết kêu oan ở đâu và kêu oan với ai khi những kẻ nắm quyền cũng chính là những kẻ sát nhân man rợ. Đâu đâu cũng là kẻ chiến thắng, mang quyền sinh sát người khác trong tay? Luật là của bên thắng cuộc, đương nhiên lẽ phải thuộc về họ!

    Thế nhưng đất trời lại có những cách sắp đặt khác mà loài người sẽ không bao giờ hiểu được. Một dự án xây dựng một khu resort tại một địa điểm rất đẹp gần biển, vắng vẻ và xa vùng dân cư này được xây lên, và trong lúc đào đất, nhà thầu thi công xây dựng đã tìm thấy rất nhiều xương người trong một ngôi mộ tập thể khá lớn.

    Điều đáng nói là những người trong đội có nhiệm vụ di dời và mai táng hài cốt ra khỏi nơi đang xây dựng khu resort nói rằng các hộp sọ đều có vết nứt. Trong số những người thợ xây dựng này dĩ nhiên có người địa phương và họ đã nhận ra cặp chân giả của anh Sơn, con chú Chín Khương trên đảo. Khi đó, người ta mới bàng hoàng nhận ra đây là ngôi mộ chung của nhóm 70 người đã bị cộng sản lừa bắt đi “học tập” nhưng thật sự đã bị chúng thảm sát man rợ tại khu rừng dương này đêm hôm đó.

    Sau đó, người ta mới dời đống xương này, đem chôn chung vào hai ngôi mộ bên đường, cách khu resort một đoạn …..

    Từ đó người dân ở Côn Đảo không khỏi kinh hoàng khi biết về số phận bi thảm của 70 người tù VNCH ở đảo năm xưa. Câu chuyện này đã giải đáp nỗi thắc mắc cho bà con trên đảo vì sao những người Quân, Cán, Chính VNCH bị cộng sản lừa bắt đưa đi Cần Thơ đều không có ai còn sống sót trở về. Ngay cả khi những người tù cuối cùng ở các trại tù lao động khổ sai tại miền Bắc đã trở về (1992) và đi H.O thì tin tức của những người tù ở Côn Đảo vẫn bặt tăm.

    Biết rõ về câu chuyện này nhưng người dân trên đảo họ chỉ biết thì thào kể với nhau chứ không ai muốn nói ra vì sợ bị gây phiền phức. Nhưng bây giờ, người dân trên đảo chỉ cần nói ba từ “Chuyến tàu đêm” là những người già cả, những người dân sống lâu năm trên Côn Đảo đều hiểu ngay rằng đang nói về chuyện gì.

    o O o



    Ngôi mộ tập thể có 26 bộ hài cốt của các quân, cán, chính VNCH bị cộng sản sát hại tại Côn Đảo được xây năm 2015



    Được biết, năm 2015, chị TN là người đã phát tâm đứng ra vận động các nhà hảo tâm đóng góp để xây dựng ngôi mộ đầu tiên trong đó có 26 hài cốt. Tiếp đó, chị TN lại tiếp tục xây dựng ngôi mộ thứ hai có 10 bộ hài cốt. Những ngôi mộ đã được xây dựng tươm tất với chỗ đặt bát hương, hoa quả. Số tiền xây dựng mộ là từ những người dân sống ở Côn Đảo, hoặc là những người từng sống ở đây và nay đang sống khắp nơi trong và ngoài nước đóng góp.



    Ngôi mộ tập thể có 10 bộ hài cốt của các quân, cán, chính VNCH bị cộng sản sát hại tại Côn Đảo được xây năm 2016



    Cũng từ đó, những năm qua, chị TN là người thường xuyên chăm sóc mộ phần để vong linh các bác, các chú đỡ tủi hờn, lạnh lẽo bởi tấm lòng nhân ái của chị TN và của những người thương cảm cho những người đã khuất mà đến đây thắp nhang.

    Từ đó, những thông tin về hai ngôi mộ tập thể của những quân, cán, chính VNCH bị cộng sản thảm sát tại Côn Đảo đến tai những người quen biết hoặc họ hàng của vợ con những người đã mất.

    Cho đến nay, đã có khoảng hơn 10 gia đình đã biết thông tin về ngôi mộ tập thể này. Như vậy vẫn còn lại rất nhiều những bác, những chú chưa được gia đình và người thân đến thắp hương cho ấm lòng. Thương thay, có lẽ giờ này họ vẫn tiếp tục đi tìm các bác các chú, còn các chú bác thì vẫn cứ mỏi mòn ngóng chờ ngày vợ con và thân nhân đến thăm cho vong linh đỡ buồn tủi.

    Xin cùng nhau thắp một nén hương, một lời cầu nguyện cho những linh hồn xấu số, những người đã lên “chuyến tàu đêm” không bao giờ đến bến, đã uổng tử mà không được một lời từ giã vợ con và người thân trước lúc ra đi, được sớm siêu thoát khỏi những nỗi đau, oan khiên, nghiệt ngã của một kiếp người!

    (Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn)


    (nguồn: http://phamtinanninh.com/)
    https://baovecovang2012.wordpress.com



              
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Phân loại kẻ thù Cộng Sản

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Phân loại kẻ thù Cộng Sản

    Trần Công Lân





    Chuyện Võ Văn Thưởng bị phế chỉ là bề ngoài, cộng đồng Việt Nam (CĐVN) cần tìm hiểu nhiều hơn về hệ thống nhân sự của cộng sản Việt Nam (CSVN) vì phê bình cộng sản trên mạng không làm cho CSVN lo sợ mà chỉ yên tâm vì người Việt tự do chưa đe dọa được chế độ.



    Nói về lý thuyết hay tư tưởng (Hồ Chí Minh, Mao, Mác) thì ai cũng biết đã vô dụng vì ngay cả Tập Cận Bình còn không vận dụng được thì CSVN chỉ có câm (không nói nữa) và điếc (không nghe nữa). Vậy còn nhân sự?





    Lãnh đạo cao cấp



    CSVN chơi trò dân chủ giả mạo, cũng có bầu cử, ứng cử viên do đảng chọn, ép dân đi bầu, có báo chí thổi kèn từ hành pháp, lập pháp, tư pháp nhưng để do đảng CSVN điều động. Vậy để chọn lãnh tụ đảng quan trọng hơn thủ tướng hay chủ tịch nước. Chúng ta (người Việt tự do) thường nghĩ là phe phái (thân Nga, Mỹ, Tàu) nhưng thử đặt chân vào vị thế CSVN thì sẽ thấy gì?



    Để đóng vai trò lãnh đạo đảng đòi hỏi những gì? Sự sống còn của đảng, thù trong, giặc ngoài; quyền lợi sống còn của đảng trong tương lai sẽ như thế nào khi lý thuyết CS (tư tưởng Mác, Mao, Hồ) không còn xài được. Để bảo đảm vai trò độc tôn (1) lãnh đạo của đảng đòi hỏi guồng máy đàn áp nhân dân: bộ công an.



    Chủ tịch đảng phải là người nắm được linh hồn của bộ trưởng công an, kẻ dữ dằn tàn bạo nhất VN đương thời. (2) Chủ tịch đảng phải là người được sự ủng hộ của đa số các tỉnh ủy (các ông trùm địa phương = sứ quân). Để thuyết phục các sứ quân ủng hộ thì phải có bùa: đó là chính sách ngoại giao và nội trị. Ngoại giao là làm sao đối phó với Tàu, Nga, Mỹ và thế giới với chính sách “cây tre” (thực sự chỉ là “cỏ đuôi chó” theo ngôn ngữ VNCH). Cùng với sự phân chia quyền lợi trong nước khi có viện trợ, thương mại, mậu dịch với nước ngoài, nhân vật chủ tịch (tương lai) sẽ phải thuyết phục các đàn em (sứ quân) đó là con đường tốt nhất để tồn tại và thịnh vượng (tham nhũng). (3) Như vậy chính sách ngoại giao và đối nội cho thấy ai sẽ có khả năng lèo lái đảng trong tương lai. (4) CSVN sợ Tàu thật nhưng không đến nỗi quỵ lụy mà chỉ là nương theo để tránh xung đột (hai bên cùng có lợi) và du giây với Mỹ, Âu Châu để đánh bóng bàn (ping pong) với Tàu mà trọng tài là tư bản nước ngoài.



    Vốn là đảng cướp nên tìm một người có khả năng, vừa khôn ngoan vừa hiểm độc để có thể nắm đầu trùm công an là người ngăn chặn mọi chống đối từ bên trong cũng như bên ngoài thì không dễ kiếm. Đại diện trong Quốc Hội chỉ là bù nhìn. Đại hội đảng là chiến trường thanh lọc, sắp xếp hàng ngũ trung ương, địa phương và chính trị bộ là giai đoạn cuối cùng để chọn lãnh đạo tương lai. Đừng coi thường tiến trình “dân chủ” của CSVN đi từ trên xuống dưới. Vì mục tiêu của đảng là cầm quyền. Mọi đe dọa quyền lực đảng có nghĩa đảng sẽ bị tiêu diệt. Để tìm lãnh đạo có khả năng đó đòi hỏi Khôn và Ác. Từ trên (lãnh đạo trung ương) xuống dưới công an phường (địa phương) đều hiểu điều đó và sự dàn xếp đi từ cao cấp, trung cấp (tỉnh ủy) xuống hạ tầng (địa phương phường xã). Bộ máy công an là xương sống của đảng đi với bộ máy cai trị do các tỉnh ủy nắm giữ. Với bộ trưởng công an như Tô Lâm (hay Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ) có thể xử bất cứ nhân vật nào trong nội các chính phủ, quốc hội, tòa án hay các tỉnh ủy địa phương.



    Mỗi “triều đại” (Lê Duẩn, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng...) đều được chọn lựa theo hoàn cảnh bên ngoài (quốc tế) và bên trong (ai có khả năng ăn chia với các tỉnh ủy và nắm được trùm công an). Nếu công an phường khóm độc ác, thâm hiểm một thì trùm công an phải là 100 hay hơn. Nhưng bộ máy công an chưa đủ nếu không có ngoại vi là các nhóm du đãng (xã hội đen).



    Khi chính sách ngu dân (qua sự phá hoại văn hóa Việt) CSVN sắp xếp các khu du lich, ăn chơi ngoài việc chiêu dụ du khách còn là bộ máy thanh lọc các Việt kiều về VN du lịch: Bạn nếu không về ăn chơi, hưởng thụ thì tất phải là dân làm ăn (và cán bộ được chấm mút). Nếu bạn không thuộc hai thành phần đó thì về làm gì? Phải chăng âm mưu chống chế độ?





    Hạ tầng cơ sở



    Tại sao sau bao năm cầm quyền CSVN vẫn tồn tại? Vì CSVN vẫn nuôi được những kẻ cam tâm làm chuyện ác. Nuôi dưỡng kẻ Ác bằng quyền lợi, đe dọa, mua chuộc và bảo vệ. Mọi sự phê bình, chỉ trích từ bên ngoài (hải ngoại) không làm CSVN sờn lòng khi hệ thống công an và du đãng vẫn đàn áp từng người dân một nếu cần thiết (nhân quyền).



    Khi CSVN cho dân du lịch nước ngoài, du học thì CĐVN mới thấy có những thành phần đi luôn (ở lại) và thành phần đi-về vì làm ăn hai mặt (ngoại quốc lẫn trong nước). Thành phần này chẳng có lý tưởng gì cả chỉ là lợi trên hết. Họ chưa phải là công an nhưng sẵn sàng làm chỉ điểm cho công an khi cần (vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Đức 2017). Vậy chúng ta (CĐVN) sẽ xử trí như thế nào với những hạng người như vậy?



    Những thành phần công an địa phương, du đãng (tay sai cho công an) cũng có gia đình, thân nhân... họ cũng là người nhưng trong đầu óc họ nghĩ gì khi trong gia đình có kẻ đi làm tay sai cho chế độ đàn áp dân lành? Đây là khúc mắc quan trọng nhất cho cuộc đấu tranh dân chủ của người Việt tự do: Nếu chúng ta đấu tranh Nhân quyền, Nhân bản thì hạng người như vậy cần được (sẽ được) chuyển hóa như thế nào để ý thức vai trò của họ đối với tương lai dân tộc và đất nước? Họ theo đóm ăn tàn để có tiền (qua vai trò công an bóc lột dân) để đi du lịch hay mua nhà đất làm giàu thì con cái họ sẽ hưởng như thế nào? Trốn ra nước ngoài hay tiếp tục ăn chơi và làm tay sai chế độ cho đến bao giờ? Họ có muốn bị liệt vào danh sách bị trừng phạt khi ra nước ngoài hay khi chế độ sụp đổ?



    Nếu họ muốn thay đổi thì phải thay đổi nhân sự làm việc cho chế độ. Bao nhiêu người phục vụ chế độ CS thống trị 100 triệu dân Việt? Nếu những khuôn mặt công an địa phương được xác định trong hồ sơ những kẻ vi phạm nhân quyền vả sẽ bị truy tố trong tương lai thì gia đình, vợ con họ sẽ nghĩ sao? Đó cũng là điều những người dân lành có thể thực hiện bằng cách thu thập dữ kiện về các nhân vật ác ôn tại địa phương gửi ra hải ngoại bằng nhiều phương tiện.



    Một khi hàng ngũ hạ tầng cơ sở của CSVN bị lung lay có nghĩa là chế độ bị đe dọa. Rút từng viên gạch củng cố chế độ sẽ đưa đến sự sụp đổ của chế độ. Sự tàn ác hay khôn ngoan của lãnh đạo cũng không thể thay thế việc làm của nhân sự hạ tầng (tướng không thể làm việc của lính). Tiến trình cải hóa này cũng là tiến trình xây dựng Nhân quyền, Nhân bản của VN tương lai. Giáo dục và cải tạo con người không thể chỉ thay đổi chế độ qua cuộc đảo chánh hay đưa ra một hiến pháp. Khi quốc tế đưa ra biện pháp bắt và truy tố Putin nếu hắn ra khỏi nước Nga là bài học cho CĐVN. Nếu chúng ta thực hiện được hồ sơ các nhân vật CSVN ác ôn đàn áp Nhân quyền và vận động quốc tế phong tỏa sự chuyển ngân, xuất ngoại của các viên chức CSVN sẽ khiến những ai theo đảng CSVN phải suy nghĩ lại.



    Liệu chúng ta có quyết tâm thực hiện hay chỉ tiếp tục chống Cộng trên mạng?



    Lại một mùa 30/4 đến và qua đi.





    Trần Công Lân
    Tháng 4 năm 2024 (Việt lịch 4903)


    https://hon-viet.co.uk/TranCongLan_Phan ... ongsan.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ

Bài viết bởi Hoàng Vân »












  • Kính mời quý vị xem bài của Duyên Anh:

    Máu Trung Tá Long
    đã thấm xuống lòng đất mẹ



              

              

    Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần lơ láo đến mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên cộng sản và trước những câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội "giải phóng" cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng danh dự, trách nhiệm, tổ quốc của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của lính nhẩy dù cách cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào Hạ Viện. Những chiếc loa gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng giải phóng miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng. Cộng sản đã tiếp thu Đài phát thanh, Bưu điện... Giọng nói cầy cáo của Lý Quý Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.

    Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long. Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.

    Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhởn chìm cái thật và vấy bẩn lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm, bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian dối, vĩ nhân phường tuồng.

    Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc. Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc.

    - Tôi chứng kiến tự phút đầu.
    - Ông nói sao?
    - Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
    - Thật chứ?
    - Đáng lẽ tôi phải nói dối.
    - Tại sao?
    - Vì nói thật lúc này không có lợi.

    Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử một người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy: 10 giờ 30, Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát tuân lệnh Tổng thống, lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ chạy về nhà mình hay nhà thân nhân của mình. Một mình trung tá Long không lột chiến bào, không phi tang tích huân chương, không liệng súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ. ông xuất hiện ở công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc. Rồi ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào tiếng hoan hô cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu Colt, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan hô cộng sản. Trung tá Long đổ rạp.

    - Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
    - Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
    - Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
    - Rồi sao?
    - Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo xác ông ta đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ tiếc họ đã không thu được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long. Họ đến quá chậm và họ chỉ quay phim một xác chết. ông hãy nhìn cho kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào, cùng cấp bậc, cùng tên mình.

    Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng ta có thêm trung tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia đời sau có soi tỏ niềm u ẩn của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê hương lạc vào tay quân thù mà bất lực cứu quê hương, mà chỉ còn biết đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng tỉ tỉ chữ viết về những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về những sự việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã viết cả pho sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta nhìn quốc kỳ mà không cảm giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị sống trong cái thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng đào nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở chỗ, kẻ sĩ và kẻ vô lại đồng hóa trong "lý tưởng" nguyền rủa xác chết và suy tôn xác sống.



    Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
    - Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần đáp:
    - Nước.



    Hàm Nghi hỏi thêm:
    - Nước bẩn lấy gì rửa?



    Cận thần ngơ ngác:
    - Tâu bệ hạ, thần không hiểu.

    Hàm Nghi nói:
    - Nước bẩn lấy máu mà rửa!



    Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Những kẻ tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền bính. Và biết đâu chẳng bị ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc! Những kẻ này vẫn thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử lại thêm vài phụ trang chó đẻ.

    Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô tưng bừng. Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá Long nằm nguyên chỗ ông ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy phù hộ tôi kéo dài cuộc sống hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.











    ======================================================
    =======================================================
    ======================================================











    BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.


    Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh







    Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy sụp.

    Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp gia-đình.

    Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:



    Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.



    Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.



    Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “...tính của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.



    Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.



    Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn văn Long:



    “...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong gạo cho gia đình...



    ...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....



    ... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công chức.



    ... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cữa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ ai.



    ...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long...”



    Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long chịu nhận vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy...”



    Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung , Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.



    Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:



    “...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc... Ông Giám Ðốc kết luận:...Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới giam giữ mình...”

    Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.



    Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.



    Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.

    Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.


    Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào thành phố.



    Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.



    Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui không ít.



    Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:



    Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.

    Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay chân lao động.

    Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.

    Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.

    Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.

    Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:

    Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.

    Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.

    Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.


    * * *


    Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tượng Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.

    Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử.













    Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ.
    Hình tuẫn tiết của anh hùng Nguyễn Văn Long, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà
    trong ngày 30-4-1975 dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên VNCH.

              




    https://hon-viet.co.uk/DuyenAnh_TrungTa ... ngThan.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Cái chết trong tù Cộng sản của cựu Thủ tướng Phan Huy Quát

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Cái chết trong tù Cộng sản
    của cựu Thủ tướng Phan Huy Quát


    Nguyễn Tú





    Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”



              

    Ông Phan Huy Quát





    Gia đình Thủ Tướng Phan Huy Quát

              


    Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bịnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bịnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.



    Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lịnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội.



    Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979



    Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được xối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.



    Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.



    Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chảy dồn dập trên da. Hạnh phúc thiệt!



    Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.



    Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bịnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhứt trong hoạt động chánh quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.



    Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bịnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bịnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.



    Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”



    Không một phản ứng của bịnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bịnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bịnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.



    Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhứt trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bịnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”



    Bịnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thiệt gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thiệt rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bịnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bịnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bịnh nhơn hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bịnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng xối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bịnh nhân như mấp máy.



    Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bịnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chưn cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.



    Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.



    Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bịnh tình hôm nay ra sao?”



    Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.



    Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bịnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bịnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.



    Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

    Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bịnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bịnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.



    Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bịnh nhơn như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bịnh nhơn đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bịnh nhơn vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.



    Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”



    Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bịnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bịnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhơn, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào.



    Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.



    Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chánh trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhơn dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bịnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.



    Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu suôn sẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chánh trị lại chẳng suôn sẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xảy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chánh trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.



    Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bịnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bịnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bịnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.



    Hôm Bác Sĩ Quát được khiêng đi bịnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu giếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của cha, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhứt là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chánh trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông cha nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.



    Trong thập niên 1940's, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bịnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bịnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chánh trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.



    Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.



    Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chánh quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.



    Cuộc đời chánh trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.



    Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chánh trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.



    Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.



    Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhứt để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhứt vượt biên, thứ nhì chống Cộng.



    Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ tới chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.



    Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhơn danh chánh phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.



    Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.



    Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bịnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.



    Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.



    Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.



    Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)



    Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

    “Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhứt, đến cao nhứt gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mịnh lịnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhứt, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”



    Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”



    Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhứt của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thiệt hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.



    Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhơn từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nảy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.



    Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.



    Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.



    Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.



    Vì ông đã cứng.



    Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhứt, do đó quan trọng vào bực nhứt vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhứt đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chánh phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thiệt rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.



    Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?



    Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chưn.



    Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.



    Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!



    Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!



    Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.



    Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.



    Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.



    Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

    “Anh nằm đây,

    Bạn bè anh cũng nằm đây…”



    Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.





    Nguyễn Tú



    Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhựt báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.

    https://hon-viet.co.uk/NguyenTu_CaiChet ... uyQuat.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Hồi ký của bà Lê Văn Hưng

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Hồi ký của bà Lê Văn Hưng





    Ngày 21/4/75, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói: “Mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bênh anh em chiến sĩ”. Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố đó đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời. Thiếu tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi cũng không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.



    Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đài yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/75 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ nào để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, tử biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ vùng 1, 2, 3, bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.



    Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quít chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau: “Tổng thống Thiệu, Thủ tướng Khiêm, Đại tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, Ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau: “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”. Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi: “Quân không có Tướng chỉ huy thì sao?”. Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.



    Lời phê bình của những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có nhưng vị tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng lãnh, Sĩ quan và Binh sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.



    Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi: “Tại sao tướng Nam, tướng Hưng chết chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?” Lại có người nghiêm khắc trách tôi: “ Bà thật dở. Nếu là tôi, quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?” Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẫm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi xin trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì Ẩ những vị tướng lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị buông tay tự sát sao?



    Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: “Thưa toàn thể quí vị sĩ quan QLVNCH.



    Ngày quí vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quí vị còn nhớ sáu chữ gì ghi trên mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị nào hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại sẵn sàng vào tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.



    Trước đó vào ngày 28/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh tất cả mọi người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất”.



    Tướng Nguyễn Hữu Hạnh người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn dò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tướng Hưng luôn khẳng định: “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.



    Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị Tướng lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lệnh ai? Phải tuân lệnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được tướng Nam và tướng Hưng đáp ứng.



    Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật òa khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ Tổ Quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những Chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đã không chịu đầu hàng. Họ tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của các anh ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần chiến đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy.



    Trong khi Sài Gòn bỏ ngõ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lệnh mật hành quân đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài chiến cuộc thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nảo, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.



    Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1975, dân chúng nhốn nháo hoang mang, đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắn chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.



    Lúc này tướng Nam và tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ bộ chỉ huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến cấp chỉ huy các đơn vị thì mới hay họ chưa biết gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.



    Tìm kiếm Đại tá an ninh, người mà đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay Đại úy dưới quyền. Ông này cũng cuốn gói theo ông Đại tá đàn anh, cho có thầy có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất. Thiếu tướng Nam và Chuẩn tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng, những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đỗ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi: “Có đồng ý đem con đi lánh nạn không?” Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi: “Thành công là đều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp: “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.



    Và để khỏi rơi vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thoát cuối cùng của chúng tôi. Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu tướng Nam và tên Thiếu tá Việt cộng Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở Dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp.



    Sáu giờ chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu: “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tính khí khái can cường...” Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng.” Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền Đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền Tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đã nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”. Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.



    Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là đã thâu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần Thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gãy đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu tá Cộng sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.



    Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do những ngyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ đã không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ. Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng: “Em phải sống ở lại nuôi con.” Tôi hoảng hốt: “Kìa mình sao mình đổi ý?”. “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con”. “Nhưng không để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngũ cực mạnh cho con.



    Chờ em một chút chúng ta cùng chết một lúc”. “Không thể được cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quí vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”. “Nếu vì con, mình thương con, sao không đi ngoại quốc? Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc: “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”. Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.



    Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”. Tôi phát run lên hỏi: “ Nhưng mình ơi, còn em? Em phải làm gì trong lúc này?”. Nắm chặt tay tôi Hưng nói: “Vợ chồng mình tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cài trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.



    Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: “Vâng, em xin nghe lời mình”. Hưng sợ tôi đổi ý, rồi tiếp lời thúc giục: “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”. “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”. Hưng suy nghĩ giây lâu gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi: “Em mời má và các con lên lầu gặp anh”.



    Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: “Bao nhiêu năm chiến đãu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó.” Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên.” Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.



    Vâng lệnh Hưng tôi mời tất cả binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút tử biệt giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói: “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rày la không có nghĩa là ghét bỏ. Rày la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành theo nước, chớ không thể bỏ nước, bỏ dân trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung với bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.



    Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu tá Phương, Trung úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả.” Mọi người đều đứng yên không nói lên được một lời nào. Mẹ tôi chạy lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngọai. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài.



    Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin: “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”. Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chặt cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: “Nghĩa trở lại với tôi”. Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy giao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngã người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay giang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?” Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: “Thiếu Tướng! trời ơi, Thiếu Tướng!” Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ tay và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”. Tôi bảo Giêng: “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ cầu thang, bất cứ giá nào cũng phải ngăn chận Việt Cộng”. Tôi tìm kiếm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng để ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap vấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lìa xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa tự sát theo. Bé Hải lúc ấy 5 tuổi, ôm hai chân cha, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.



    Nghĩa điện thọai khắp nơi tìm Thiếu tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội mở đặc lệnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta.



    Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: “ Alô, Alô, ai đây?”. “Dạ thưa chị đấy à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng: “Anh Cẩn có chuyện chi cần không?”. Tôi cố gắng giữ cho giọng nói bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút.” Tôi lúng túng vài giây: “Ông đang điều động quân ngoài kia”. “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng tôi cần gặp. Trung úy Nghĩa đâu chị?”. “Nghĩa đang ở bên cạnh Thìếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”. Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa hỏi: “Đại tá Cẩn đòi gặp Thiếu tướng làm sao bây giờ Nghĩa?”. Nghĩa lúng túng: “Cô nói Thiếu tướng chết rồi”. “Không thể nói như vậy được Đại tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.



    Trí óc tôi chợt loé sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: “Thiếu tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”. “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu tướng còn giữ y lệnh không?”. “Cẩn vui lòng chờ một chút”. Tôi lại áp chặt ống điện thọai vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: “Alô. Cẩn nghe đây: Lệnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”. Cẩn đáp thật nhanh: “Lúc nào, cũng sẵn sàng chớ chị!”. “Tốt lắm, vậy thì y lệnh”. “Dạ, cám ơn chị!”. Tôi buông máy xuống gục bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: “Vĩnh biệt Cẩn, Vĩnh biệt Cẩn!”.



    “Anh Cẩn ơi, hồn anh có phảng phất đâu đây, khi tôi ngồi viết lại những dòng nầy, nước mắt tôi rơi trên giấy, anh có cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi! Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?” Kính thưa toàn thể quý vị thân bằng quyến thuộc của Đại tá Cẩn. Kính thưa qúy vị đã đọc những dòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.



    Mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại lại reo. Lần này chính giọng của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: “Alô, chị Hưng”. Tôi vừa khóc vừa đáp lời Thiếu tướng: “Thưa Thiếu Tướng Ẩ..”. Giọng tướng Nam buồn bã u uất: “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi xin chia buồn với chị, nghe chị Hưng”. Tôi vẫn nức nở: “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”. “Hưng đã nói với chị nghe hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại tá Ẩ.. thi hành. Phóng đồ và lệnh không tới tay các Đơn Vị Trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”. Nói đến đây, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam hỏi tôi: “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”. “Thưa biết, Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng nói vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”. “Chị quên còn có dân chúng sao? Cọng sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì Ẩ.. Đàng chị thế nào?”. “Thưa Thiếu Tướng, tụi nó tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”. “Còn mấy chú đâu hết?”. “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi. Tôi không màng đến tài sản. Miễn chúng đừng đụng đến xác Hưng”. “Chị tẫm liệm Hưng chưa?”. “Thưa chưa, vừa tắm rửa thay quần áo thì Thiếu Tướng gọi tới”. “Chị nên tẫm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. Chúng nó sẽ không để yên”. “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?” Người thở dài trong máy. Người nói những lời và đến chết tôi cũng sẽ không quên: “Số phận Việt Nam khốn khổ thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”. Người chép miệng thở dài: “Thôi chị Hưng ơi”. Bỗng giọng người trầm xuống ngậm ngùi: “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết. Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”. Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi: “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”. “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.



    Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Ở dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã bỏ đi hết, trừ còn Nghĩa ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ, gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẻo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cọng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế. Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Đại tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên được giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của tướng Nam.



    Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, vừa tụng đứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng. Tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện: “Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiên phù hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cọng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ”.



    Trung úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, các sĩ quan Quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai dòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên. Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, tướng Nam và tướng Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người, chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại tá kia. Xin quý vị hiểu rõ dùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đắt nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát hay bị bắt trở lại.



    Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả sinh mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người của dòng máu Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không nêu gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, chà đạp nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản.



    Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao tướng Nam và tướng Hưng đã tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem thành bại để luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ đem tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người miền Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: “Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người nằm xuống? Họ đã nằm xuống không phải vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sĩ nhục những người dám chết cho tổ quốc.”





    Phạm Thị Kim Hoàng
    Phu Nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng




    Nguồn: http://www.nguyenkhoanam.com/tam_tu3.html

    https://hon-viet.co.uk/PhamThiKimHoang_ ... anHung.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

30 tháng 4 - Ði tìm thời gian đánh mất

Bài viết bởi Hoàng Vân »














  •           

              

    Sài Gòn không còn ngày



    Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, cái im ắng đến chết người.



    Nhưng trong bóng đêm, tôi đã nghe rõ được tiếng của im lặng.



    Cái im lặng của cõi đêm, của một cuộc đời, của mảnh đất tôi đang sống đã khép lại.



    Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc lát đã mất hút. Niềm hy vọng như cạn mòn.



    Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi cộng với 50 binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Và Neil Sheenan trong Innocence perdu đã chả từng nói: “Cette guerre que nous n!aurons jamais gagné” Cái trận chiến mà chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng. Và nay chúng ta sắp sửa làm một cuộc hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt, cô độc và đơn thương một mình, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.



    Ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Chuồng chim bồ câu trên sân thượng ăn dần nay chỉ còn vài cặp. Chợt nghĩ. Ít lâu nữa sẽ không có mà ăn nữa.



    Bụng tự nhiên nhói lên.



    Tương lai như mù mịt. Vui chưa thấy, lo thì không thiếu. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra sao? Đó cũng là mối lo của nhiều người, nhất là những người có dính dáng nhiều đến chế độ Sài Gòn.



    Chiến tranh đã chấm dứt. Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn.



    Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã xong. Trong khi đó, 8 chiến xa đã vào thành phố trên đại lộ Thống Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi từ trong nhà ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua. Bộ đội tỏ ra ngơ ngác, hiền lành và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào nguợng ngập.



    Mãi vào lúc 16 chiều ngày 30/4/1975, ba vị thuyết khách của ông Dương Văn Minh (DVM), thuộc thành phần thứ ba là luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và Linh Mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhứt ra về. Các ông là những người được tướng DVM cử làm đại diện vào trại David chiều ngày 29/4/1975 để thuyết phục những người của Mặt trận yêu cầu họ đừng đánh phá vào Sài Gòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng DVM mà thôi. Quân Bắc Việt đã tiến quân vào Tân Sơn Nhất (TSN) nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều 30 tháng tư mới ra về được.



    21 năm sau, ngày 28/1/1996, Chân Tín trả lời phỏng vấn đài VNCR đã nói khác: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang trên đà tan rã”. Nay mới đây nghe tin ông ra tờ báo chui. 86 tuổi đầu tưởng đã tự cho phép mình hưu tranh đấu. Ông vẫn chưa ngưng nghỉ, chưa hưu, chiến đấu đến cùng.



    Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt lạnh lẽo của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài Gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những dường phố lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào của xứ Tiệp.

    Những chiến xa trên có cắm cờ của mặt trận Giải Phóng miền Nam như niềm hy vọng nhỏ nhoi sót lại của người Sài Gòn.



    Những chiếc chiến xa đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho tôi có cảm tưởng đường Tự Do (TD) của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của Paris. Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8 1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải phóng, chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc.



    Nhưng Champs Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài Gòn. Đường TD không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt.



    Ở một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy một nhóm nhỏ người đứng nhìn chiếc chiến xa đi qua. Bên kia đường, có một thanh niên mặc quần tây áo trắng bỏ ngoài quần, chắp tay đứng nhìn. Không có biển người mà cũng không có tiếng vỗ tay reo hò.



    Và đừng quên cộng thêm 125 nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó.



    Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô tả trong truyện ngắn Ba lẻ một:

    Chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo, đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhắm hướng Nam truy kích.



    Đài phát thanh Sài Gòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn (TCS). Tiếng hát một thời. Tiếng hát của của một đời ngưòi.



    Anh cất tiếng hát không phải khúc ca da vàng, nhưng lạc lõng với bài: Nối Vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái, một sinh viên tranh đấu.



    Dân Sài Gòn đã đón tiếp quân Giải Phóng như thế đấy. Một nhúm người người dân ngơ ngác, 125 nhà báo và TCS với Nối Vòng Tay Lớn. 8 chiến xa có trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa của Liên Xô từ ngoài Bắc chạy thẳng vào chứ đâu phải của mặt trận giải phóng miền Nam?



    Trên chiến xa có cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi một tình thế?



    Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh độc lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Người ta không thấy có một đại diện nào của MTGPMN. Nhiều người chê trách ông Minh hèn “bán đứng miền Nam”. Nếu ông Minh hèn thì những kẻ chạy vắt giò lên cổ từ những ngày cuối tháng tư phải gọi bằng tên gì? Kẻ trốn chạy và kẻ ở lại lãnh thẹo, ai hèn hơn ai? Sài Gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không thức thời cúi mình xuống nhặt cái chính quyền bị người ta vứt lại từ đống rác đó.



    Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa, người nói ông Bùi Tín, người nói Chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov, trong Viet Nam viết:

    Ngồi trên một chiến xa vào dinh độc lập, Ông Bùi Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông, ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này.



    Tôi chờ các ông từ sáng nay để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể giao một cái mà ông không có.



    (Pénétrant à bord d’un char dans la cour du Palais, il se préparait à jouer un double rôle: journaliste, il désirait être témoin de la capitulation, officier le plus élevé en grade de son unité, il avait pour de voir de la recevoir. J’attends depuis ce matin pour vous remettre le pouvoir, annonca le général Minh1quand Bui Tin entre dans le salon. Il n’en est pas question, répliqua le colonel. Votre pouvoir s’est écroulé. Vous ne pouvez donner ce que vous n’avez pas.)



    Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây: ”Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng, vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta”.



    (Entre Vietnamiens, il n’y a ni vainqeur, ni vaincus. Seul les Américains ont été battus. Si vous êtes patriotes, c’est le moment de vous réjouir. La guerre pour notre pays est terminée”.



    Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện.



    Cũng trong tháng 9 năm 1975, các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy còn nhắc nhở mọi ngưởi rằng: Ai còn nói ngụy là ngụy…



    Hồi mất Điện Biên Phủ (ĐBP), cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh phải mất 56 ngày đêm. Mất Sài Gòn nhanh hơn, chỉ có 55 ngày. Ít hơn một ngày. Hồi ĐBP, chỉ mất một nửa. Lần này mất tất cả.



    Về phía những người thua trận



    Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói cuối cùng. Thiếu Tá Long, Cảnh sát Quốc Gia đã đến đứng trước tượng TQLC trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn rồi rút súng tự sát. Ông đã nằm chết ngay dưới chân pho tượng.



    Trung sĩ Quân Cảnh Trần Minh, thuộc đại đội một quân cảnh phụ trách an ninh khu vực Bộ Tổng Tham Mưu (TTM). Lúc 10giờ 30, sau khi nghe tin đầu hàng, trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ TTM.



    Thêm vào đó là những cái chết của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh. Chuẩn tướng Trần văn Hai, sư đoàn 7 bộ binh. Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh quân khu 1. Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó quân đoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh quân đoàn 4. Những cái chết anh dũng. Nhưng đã thay đổi được gì và có thể đại diện cho những vị khác đã bỏ chạy không? Đó là những cái chết bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.



    Và kẻ chết cuối cùng vẫn là kẻ có lý.



    Và tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng.



    Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích.



    Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết. Những cái chết đó giá trị bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.



    Còn số phận những người còn lại?



    Tôi ghi lại đây hình ảnh một anh lính VNCH, đi chân đất, hai tay áo rách, đầu gối rách, chắp tay. Đằng sau anh là một bộ đội mặc đồ đen, cầm súng lăm lăm và sau chót là đám đông dân làng, khoảng 6, 7 chục người khoanh tay bất lực với lời ghi chú của nhiếp ảnh viên:* Un avenir qui ne s’annonce pas vraiment radieux pour ce soldat de Thiệu: pendant combien d’années sera-t-il rééduqué… (ảnh của Abbas. Gamma). Một tương lai không mấy sáng sủa cho người lính này của Thiệu: Người lính này sẽ bị đưa đi học tập cải tạo trong bao lâu.



    Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết.



    Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả.



    Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng bờ sông. Có tới mười người rụt rè dơ cánh tay vẫy chào.



    Nhiệm vụ của người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài Gòn rồi, nhưng làm sao thay vì chỉ có 10 cánh tay rụt rè giơ lên, phải nhân lên bao nhiêu triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi.



    Vào cái giờ này của ngày chiến thắng. Toàn bộ báo chí đã ngưng xuất bản. Gần 50 chục báo hằng ngày của Sài Gòn sáng nay vắng mặt. Họ đâu cả rồi? Tất cả liên lạc viễn thông với thế giới bên ngoài cũng bị cắt. Họa chăng còn lại đại diện của các tòa đại sứ sau đây: Pháp, Bỉ, Nhật, Khâm sứ Tòa thánh, Thụy Sĩ và lãnh sự Ấn độ. Chế độ mới hầu như tạm thời cắt đứt với thế giới bên ngoài.



    Cho mãi đến ngày 23 tháng năm, liên lạc với thế giới bên ngoài mới được nối lại và chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài vào ngày 24 tháng năm. Chuyến bay này chở một số người ngoại quốc còn kẹt lại trong thành phố mà phần lớn là người Pháp.



    Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này.



    Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào?



    Không dễ dàng gì để những người dại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài Gòn.



    Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới.



    Phía trí thức miền Nam: Mặt trận Giải Phóng, ảo tưởng và ảo ảnh



    Xin ghi lại dây hình một bé gái chừng 12 tuổi, đầu quấn một khăn trắng đang đi trên một bờ ruộng với lá cờ MTGPMN, hai mầu, ở giữa có ngôi sao với lời tiên đoán:* le drapeau du FNL flotte sur le Sud-VietNam. Il sera sous peu remplacé par le drapeau du Nord, devenu celui du Viet Nam réunifié( ảnh của JC Labbé-Gamma). Lá cờ MTGPMN tung bay ở miền Nam VN. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ được thay thế bằng cờ của miền Bắc, trở thành cờ của VN thống nhất.



    Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã để lại một di sản thừa như một cục bướu ung thư cần nhổ. Đó là MTGPMN. Mặt trận này đối với trí thức thành phần thứ ba hay đối với sinh viên VN hải ngoại chỉ dẫn đưa họ đến một kết quả là: những ảo tưởng vĩ đại (grandes illusions) và đối với toàn thể thế giới là một âm mưu lừa bịp trắng trợn.



    Xin nhắc để mọi người cùng nhớ: những trí thức đi theo Mặt trận hồi đó gồm có các ông luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Liên Minh Các Lực lượng Đấu tranh Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (LMCLLDTDCVHBVN), phó chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (HĐCV CPLTCHMNVN), chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc (UBTUMTTQVN) và vợ là Ngô Thị Phú, ở Sóc Trăng. Lâm Văn Tết, Phùng Văn Cung, Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ nữ sĩ Vân Trang. Nguyễn Văn Chì, Chánh án Phạm Ngọc Thu, dược sĩ Đỗ Thu, Kỹ sư Cao Văn Bổn, Kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn Văn Ngưỡi, kỹ sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bà Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Lữ Phương, bà Bùi Thị Nga, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật. Nhà văn Thanh Nghị Hoàng, Trọng Quỳ và vợ ca sĩ Tâm Vấn. Thêm vào đó gs Lê Văn Hảo theo vào năm 1968, chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, thêm chủ tịch UBKNHTT. Trong dịp tờ Quê Mẹ phỏng vấn ông năm, 1999 ở Pháp, ông Hảo giải thích: dư luận gán cho ông về cuộc rhảm sát Mậu Thân ở Huế là không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi, nói là mời họp rồi giữ tôi ở lại luôn, không về thành phố lần nào. Cùng với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân đã theo bộ đội về Huế và tôi được biết Phan và Xuân đã từng ngồi xét sử nhiều người có quan hệ với chính quyền Sài Gòn, trong những phiên xử của cái gọi là toà án nhân dân.



    Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót.



    Sau 30 tháng 4, đám trí thức trên vỡ mộng. Họ không có một vị trí nào trong chính quyền Cộng Sản tương lai và danh xưng MTGPMN cũng không ai muốn nhắc tới. Chẳng bao lâu sau ngày giải phóng, cờ của Mặt trận bị cuốn gói, xếp một chỗ.



    Có thể bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa là người đầu tiên xin ra khỏi đảng CS và không tham dự phái đoàn nhân sĩ trí thức miền Nam ra ngoài Bắc. Lý do chính là hai vợ chồng chính thức phản đối việc thống nhất hai miền như một thứ bội phản đối với miền Nam. Đơn xin rút tên ra khỏi đảng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra một điều kiện: Phải 10 năm sau mới được quyền công bố chính thức rút tên ra khỏi đảng.



    Sau này, trong bài phỏng vấn trả lời trên tờ Far Eastern Economic Review (FEER) ngày 17/10/1996, bà đã trả lời như sau.



    Hỏi: Quel est l!évènement le plus marquant pendant les 50 années passées. (Biến cố nào được coi là nổi bật nhất trong 50 năm đã qua?).



    Trả lời: L’effondrement du mur de Berlin qui mit un terme à la grande illusion Sự sụp đổ bức tường Bá Linh chấm dứt một thời kỳ cuả ảo tưởng lớn.



    Và nói như ông Hồ Sĩ Khuê: “Thành viên Mặt trận thực sự chẳng có bao nhiêu. Nhưng ở Sài Gòn, sao mà ai cũng có vẻ là người của Mặt trận quá.” Nhưng bên trong, họ chỉ làm bù nhìn. Hình nộm “ngồi chơi xơi nước” như theo lời tường thuật của kỹ sư Trương Như Tảng. Ông Tảng vốn là một sinh viên du học bên Pháp, có dịp gặp Hồ Chí Minh, coi HCM như khuôn mặt lãnh tụ sáng chói nhất để chống lại người Mỹ, và trước mắt, chống lại chính quyền Ngô Ðình Diệm đã viết: Hồi ký của một Việt cộng (A Viet Cong Memoir) cho thấy MTGPMN chỉ là một sự dàn dựng, họ được đưa vào bưng để làm bung xung, đánh lừa cả thế giới. Họ bị bịt mắt, dẫn đi quanh co trong rừng. Những buổi họp, để giữ bí mật, các thành viên mặt trận đều bịt mặt, vì thế chẳng biết ai vào với ai. Ai là thật, ai là giả? Ðó là kinh nghiệm đau xót của một số ít trí thức miền Nam. Trong The Myth of Libération, Trương Như Tảng tố cáo sự dàn dựng giả dối của chính quyền Cộng sản Hà Nội: “Trong nhiều năm, họ đã nghe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng tuyên bố cam kết”, qua lời Tổng bí thư Lê Duẩn, rằng “Miền Nam cần có chính sách riêng của miền Nam”. Hay như lời Thủ tướng Phạm Văn Ðồng tuyên bố với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghĩ ngu xuẩn và tội lỗi là thôn tính miền Nam”.



    William Shawcross, trên tờ Washington Post, nhận xét:

    “He became the Viet Cong’s Minister of Justice, but at the end of the war, he fled the country in disillusionment and despair. He now lives in exile in Paris, the highest level official to have defected from Viet Nam to the West. This is his candid, revealing and unforgettable autobiography.”



    (Tạm dịch: “Ông trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Việt cộng, nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam với tâm trạng bị vỡ mộng và thất vọng. Nay ông tỵ nạn ở Paris. Ông là một trong những viên chức cao cấp nhất đã đào thoát ra khỏi Việt Nam sang Tây Phương. Ðây là cuốn tự truyện đáng nhớ, phơi bày (nhiều chuyện) và thành thật.”)



    Vai trò bù nhìn của MTGPMN cũng được đề cập đến trong hồi ký của Vũ Thư Hiên. Ông viết: “Trẻ con miền Bắc cũng biết Mặt trận Giải phóng là do miền Bắc dựng nên”.


    Người trí thức miền Nam một lần nữa bị lừa gạt.



    Riêng Nguyễn Hữu Thọ, sau 1975 được làm phó chủ tịch nước. 1981, phó chủ tịch quốc hội, 1988, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Nhưng cuối cùng thì ông cũng phải thốt ra một câu như sau:



    Dân chủ không thể có bằng sự ban ơn, mà bằng sự đấu tranh



    Sau này, sau khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, nhiều người trong bọn họ trước đó mang ảo tưởng sẽ có vai trò, sẽ được dùng, sẽ được lãnh đạo miền Nam, bị gạt ra bên lề một cách thảm hại, có chức mà không có quyền.



    Màn lường gạt, tráo trở này chắc chắn không phải lần đầu mà chắc chắn cũng không phải lần cuối.


    Những người trí thức này chỉ quên một điều: Người Cộng Sản bao giờ cũng ăn thịt trước tiên những đứa con đẻ của mình.



    Niên lịch mới, Sài Gòn thời của những tiên tri giả.



    Bộ đội chính quy, cán bộ miền Bắc đã đành là có mặt. Nhưng dân 30 tháng tư, bọn cơ hội nhố nhăng thì đầy đường, đầy ngõ. Không biết ở đâu ra mà họ đông thế.

    Chúng là những tiên tri giả, bán rao thời cuộc. Gọi theo một thứ ngôn ngữ chuyên dùng hơn thì đó là bọn tiêu bạc giả, vốn liếng là sự bịp bợm, sự tráo trở và tư cách vô liêm sỉ. Có thể bọn họ tuần trước, tháng trước, năm trước còn “đả đảo Cộng Sản” nay thì hoan hô.



    Bên cạnh đó, có một số trí thức đã có dính dáng, hoạt động bí mật trong Mặt Trận nay xuất đầu lộ diện. Trong số này, có Giáo sư Lý Chánh Trung, sau làm đại biểu Quốc hội. Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối Diện nay đổi là Đứng Dậy.



    Đổi tên tờ báo đã khéo, chơi chữ đã khéo. Nhưng Đứng Dậy có thể hiểu lầm là nổi dậy đấy. Hãy coi chừng.



    Một số người khác như Nguyễn Đình Đầu, luôn luôn dấu mặt sau hội trường dật giây và em rể, giáo sư sử địa Trần Đức Quảng, gs Châu Tâm Luân, TT Thích Minh Châu, LM Chân Tín, Trần Bá Cường, v.v…



    Và nếu nói theo người Pháp: Il n’y a que le premier pas qui compte, có nghĩa chỉ bước đầu tiên là quan trọng thì những người trên là những người đầu tiên ló mặt sau ngày giải phóng.



    ————————————————-

    Ngày 4/5/1975, xung đột với Campuchia



    Những tin tức nóng hổi sau đây nhiều bạn đọc, sau hơn 30 năm, có thể đây là lần đầu tiên đuợc nghe nói tới. Điều đó không lạ, vì tin tức thông tin nằm trong mạng lưới tuyên truyền của chế độ CS. Vào ngày 4/5/1975, có nghĩa là chỉ bốn ngày sau khi miền Nam thua trận, quân đội Khemer của Pol Pot đã đổ bộ xâm chiếm đảo Phú Quốc. Ngày mồng 8, quân đội trên bộ của Pol Pot đột nhập vào tỉnh Tây Ninh. Ngày 10, chiếm đảo Thổ Chu và bắt hơn 500 thường dân. Để trả đũa, bộ đội VN chiếm đảo Poulo Way, sau đó thì rút lui. Tất cả những biến cố trên xảy ra dân chúng đều không hay biết vì các báo bị đình bản. Nhưng đài phát thanh cũng không thông báo cho dân chúng biết.



    Nòng súng của bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì đã chuẩn bị cho một cuộc chiến khác. Hai cuộc chiến trước đây là chiến tranh chống chủ nghĩa Đế quốc thực dân, vậy thì sẽ gọi tên cuộc chiến sắp tới là gì? Cho đến nay, có hai cuộc chiến đã xảy ra, một phía Nam và một phía Bắc Việt Nam (VN.) Vẫn chưa có một tên gọi thích đáng. Chúng vẫn chưa có một giấy khai sinh hộ tịch. Phải gọi đó là những cuộc chiến tranh gì? Cũng không ai nhắc tới nửa lời về lẽ thắng thua của hai cuộc chiến ấy. Mọi chuyện được bung bít dấu nhẹm như thường lệ. Nói gian dối là cái lệ của người làm chính trị chẳng khác gì rỉ sét là cái đương nhiên của vỏ tầu biển. Nói gian dối riết rồi bị lộ, bị chìm chẳng khác gì rỉ sét lâu ngày đục vỡ sàn tầu.



    Quân đội Khờ Me Ðỏ mới vào Nam Vang hôm 17 tháng 4, thì ngay ngày hôm sau đã chuyển quân về hướng biên giới VN. Và như đã trình bày ở trên, đã chiếm đảo Phú Quốc. Theo ông Phan Hiền thì sau đó, nhiều cuộc thương thuyết đã diễn ra từ tháng 4-1976, nhưng kết quả không đi tới đâu và hai bên đã ngưng mọi thương thuyết vào ngày 18/5/1976… Sang đến tháng 4/1977 thì tranh chấp giữa hai bên càng trở nên ác liệt. Các tỉnh biên giới của VN như Tây Ninh, Hà Tiên phải di tản dân chúng. Tây Ninh thì một phần dân chúng phải bỏ nhà, Hà Tiên đến ba chục ngàn người phải di tản đi nơi khác. Phóng biên Roland-Pierre Paringaux đã nhìn thấy hàng đống thây người bị giết, bị cắt cổ ở các ruộng thuộc tỉnh Hà Tiên. Francois Nivolon cũng đã nhìn thấy những cảnh chém giết, dốt nhà tàn bạo như thế ở làng Mỹ Đức, cách biên giới Cam Pu Chia chỉ 4 km. Có gia đình cả bố mẹ, 4 anh chị em đều bị giết, trừ một người con gái sống sót kể lại như một nhân chứng. Sau này, Ông Ngô Diên tố cáo có cố vấn Trung Quốc trong các binh đội quân Khờ me đỏ. Phải chăng, đằng sau Pol Pot là kẻ thù cố cựu của VN? Thật vậy, do sự xúi dục của Bắc kinh, chính quyền Căm bốt (Cambodia) mới dám gây chiến tranh biên giới với Việt Nam và cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31/12/1977.



    Ông Trần Văn An, một cán bộ tỉnh, cho biết từ 1975, tại tỉnh Tây Ninh, tỉnh giáp ranh với Cam bốt, có một 1090 thường dân bị giết do quân đội Pol Pot gây ra. 70.000 dân chúng phải dời bỏ ruộng vườn đi nơi khác. 15000 mẫu hoa mầu bỏ không canh tác. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những con số đưa ra, sự thẩm định độ chính xác cần được dè dặt.



    Trong một tài liệu sau này VN thu nhặt được cho thấy Pol Pot coi cuộc đối đầu giữa Cambốt và VN là một đối đầu giữa Sống hoặc Chết. Sự thù ghét của Pol Pốt đã rõ ràng và minh bạch trong cuốn Sách đen ghi nhận: “Dân tộc Cam Bốt nuôi một mối hận quốc gia đối với Việt Nam, một kẻ hiếu chiến đi xâm lược, nuốt chửng đất đai của Cambốt. Người Cam Bốt biết rõ ràng tính xảo trá, mưu mô quỷ quyệt và giả hình của VN. VN hành động như một Hitler đối với Cambốt một cách man rợ và Phát xít. Chúng ta phải bằng mọi cách giết người VN, một đổi 30.”



    Cũng sau này, trên mặt báo Le Figaro đã cho chạy một hàng tít lớn, phóng viên Yves-Guy Berges xác nhận: “Hà nội đang tiến hành một cách khoa học một cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử” (Hanoi procède scientifiquement au plus grand génocide de l’histoire). Điều này xem ra có vẻ không đúng sự thật. Le Figaro tỏ ra thiếu ngay thẳng và trung thực. Hà nội đã không đến mỗi ngu dại như thế, vì họ có cách xử lý khôn ngoan và khéo léo hơn. Nhưng mặc dù Pol pot gây hấn trước đã mang quân sang chiếm đóng Phú Quốc, việc VN mang quân sang chiếm đóng Campuchia đã bị cộng đồng thế giới lên án khiến uy tín ngoại giao của VN bị suy giảm, nhất là đối với các nước Đông Nam Á. Về phía người Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance nói: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Cam pu chia của Việt Nam.”



    Ngày 5/5/1975, Thông cáo của tòa Tổng Giám Mục (TGM) Sài Gòn.



    Sau tiếng hát của Trịnh Công Sơn (TCS) trên đài phát thanh Sài Gòn, dấu hiệu thứ hai đón tiếp chính quyền mới là vị đại diện của Thiên Chúa giáo/



    Chưa đầy một tuần sau ngày giải phóng, TGM Nguyễn văn Bình gửi tâm thư kêu gọi giáo dân phải hòa mình vào nhịp sống mới, nỗ lực đón nhận trong tinh thần hoà hợp, hòa giải dân tộc. Lá thư có đoạn như sau: “Một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc VN… Đây là một niềm vui chung của cả dân tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây cuĩng chính là một hồng ân của Thiên Chúa.. Hơn mọi lúc, giờ đây người công giáo phải hoà mình vào nhịp sống của toàn dân, đi sâu vào lòng dân tộc… người công giáo chúng ta phải phải sẵn sàng thi hành một cách tích cực mọi nghĩa vụ công dân do Chính phủ cách mạng lâm thời chỉ dẫn.”



    Nội trong năm 1975, có cả thảy ba lá thư chung như thế. 12 tháng 6 một lá thứ hai và nhân dịp Hội nghị Hiệp thương thống nhất tổ quốc diễn ra tại TP Sàigòn, một lá thứ ba mà nội dung nhằm thứ nhất trấn an người Thiên Chúa giáo (TCG), linh mục, tu sĩ trong toàn địa phận. Thứ hai bảo đảm với chính quyền CM về sự sẵn sàng hợp tác trong hoàn cảnh mới. Theo tinh thần hiến chế: Gaudium et Spes. Anh em ơi, hãy vui mừng. Một vài Kitô giáo trí thức cấp tiến như Nguyễn Ngọc Lan đã dùng thánh kinh để gọi Ngày Giải Phóng: đó là tin mừng cứu độ đã được gửi đến.



    Bảo hãy đừng sợ thì còn nghe được. Bảo hãy vui mừng thì quả thực không dễ.



    Một số khác thì tỏ ra lo ngại về đường lối hòa giải của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình. Sài gòn có khoảng 600 linh mục, trong đó có hơn 100 vị đã du học nước ngoài và 2000 tu sĩ phần đồng khép mình đưới sự chỉ đạo của đức cha Bình. Tất cả những cơ sở trường tư thục TCG như đại học, đại chủng viện như cơ sở dòng Tên, Đồng Công, Chúa Cứu Thế, học viện thánh Piô 10, Đàlạt, các cơ sở thương mại như nhà in Nguyễn Bá Tòng, trại gà Đàlạt, thương xá Eden, nhà sách, cơ sở nhà in Tân Định đều phải giao nạp cho chính quyền mới. Theo Georg Evers, Missio 2003, CHLB Đức trong bài Tình trạng nhân quyền tại Cộng hào Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), tự do tôn giáo, bản dịch Việt ngữ của Liên Đoàn công giáo Việt Nam tại Đức thì Giáo Hội miền Nam có 226 trường trung học, 1030 trường tiểu học. Ngoài ra theo niên giám 2004, vào năm 1962-1963, giáo hội TCG miền Nam có có 58 cô nhi viện nuôi hơn 6000 trẻ em, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong và 159 phòng phát thuốc phát thuốc cho khoảng gần 2 triệu lượt người. Tất cả đều bị trưng thâu, nộp cho nhà nước.



    Sự chọn lựa của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã hẳn không phải dễ. Một tháng trước ngày qua đời, phóng viên Hải Nam, tức Trương Bá Cần, báo CGVDT đã phỏng vấn cụ trong 20 năm “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, cụ là người đứng đầu Công Gíao VN, xin cụ cho biết cảm tường của cụ trong 20 năm qua sống dưới chế độ VNDCCH, cụ còn thấy sợ không. Trả lởi “vẫn còn sợ “ và cụ nói tiếp: “Đời con người giống như một cuộc leo núi. 50 năm đầu là thời gian leo núi và những năm còn lại sau này là xuống núi. Khi leo lên núi thì thời gian kéo dài và khó khăn, còn khi xuống núi thì dễ dàng và nhanh hơn. Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người”.



    Sau này, tác giả Tuệ Không, trong một bài viết vào 10/5/1995, cho rằng tất cả bài phỏng vấn trên là ngụy tạo của Uỷ Ban Tôn giáo chính phủ dựng đứng lên. Toà TGM Sài Gòn cũng xác nhận cụ Nguyễn Văn Bình đã quá suy yếu, kiệt sức để có thể trả lời một bài phỏng vấn như thế. Bài phỏng vấn từ câu hỏi đến câu trả lời là của ông Trương Bá Cần dàn dựng viết ra. Ông có đưa tới trình Đức Cha vẫn đang đau yếu, chỉ đọc mấy câu, câu được, câu mất và yêu cầu đừng đăng. Nhưng ông Trương Bá cần đã viện cớ là bài đã lên chữ rồi, ở nhà in, để rồi xin cứ đăng.



    Theo tôi, có lẽ tâm trạng và lòng mong ước của cụ Giám Mục Bình thể hiện rõ nhất trong câu trả lời lúc 80 tuổi của báo Iregno Attualita, đăng lại trên Église d’ Asie là: “Lúc này đức cha ước vọng gì nhất. Trả lời: Sau những biến cố Đông Âu, tôi hy vọng mọi sự sẻ tiến triển tốt đẹp.”



    Phía Phật Giáo, cả hai vị lãnh đạo của hai khối đều không có tiếng nói. Thượng toạ Thích Tâm Châu chọn lựa ra đi như nhiều người. Thượng toạ Trí Quang thì tịnh khẩu suốt hơn 30 năm nay. Phật tử như rắn không đầu. Người cần lên tiếng và đáng nhẽ phải lên tiếng là TT Trí Quang. Còn ai uy tín hơn ông trong lúc này, người đã từng được nước Mỹ qua phóng viên James Wilde và Frank Mc Culloch trên tờ Time mệnh danh “politician from the pagoda” hay “a most extraordinary man” (người phi thường nhất). Tôi chỉ muốn đổi một vài chữ như sau. Trước 1975, ông là một politician outside the pagoda và sau 1975, một politician inside the pagoda.



    Nhưng ông Diệm, ông Thiệu không còn, Thượng toạ Trí Quang không có giá nữa. Ông chỉ có thể là người của thời cuộc dưới một chế độ kiểu ông Diệm, ông Thiệu mà thôi. Trong suốt hơn 30 năm quy ẩn và ngồi dịch rất nhiều kinh sách, ông chỉ làm được một thứ chính trị inside the pagoda, một điều hữu ích cho chính ông và cho những kẻ thù của ông ở bất cứ phía nào. Đó là: Ta bảo cho các người hay, ta không bao giờ là người Cộng Sản như các người nghĩ, nhưng ta là nhà tu thật trong chế độ Cộng Sản. Và TGM Bình thì có thể nói: Ta bảo cho các người hay, có người chê ta ba phải. Nhưng trước sau, ta là nhà tu thật dưới thời ông Diệm, ông Thiệu. Nhưng ta trở thành nhà chính trị bất đắc dĩ dưới thời Cộng Sản.



    Và có lẽ, tôi thích nhất câu nói để đời sau đây của nhà tu bất đắc dĩ: “Nó giết mình hôm trước, hôm sau nó đem vòng hoa đến phúng điếu mình.”



    Có lẽ chính nhờ hiểu cái lẽ quyền biến của câu trên đã giúp ông không phải nhận một vòng hoa phúng điếu.



    Sau 1975, chúng ta có chủ nghĩa CS và có thêm chủ nghĩa bất đắc dĩ. Bất đắc dĩ để Thượng toạ Trí Quang phải quy ẩn trong chùa và bất đắc dĩ, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình phải làm chính trị. Kẻ làm chính trị phải đi tu và kẻ đi tu phải làm chính trị.



    Và cả miền Nam đều làm những công việc bất đắc dĩ như thế.



    Ngày 6 tháng 5/1975, bộ mặt thứ hai của Sàigòn sau Giải Phóng



    Bộ mặt thứ nhất là những tiên tri giả ở trên, bộ mặt thứ hai là những người buôn bán giả. Chỉ sau một tuần, cái điểm nỗi bật của một thành phố chết vừa mới trỗi dậy là sự xuất hiện rất nhiều những người buôn bán lẻ. Họ ngồi dọc theo các đường, từ đầu phố hay đầu con hẻm. Bán đủ thứ và mua cũng đủ thứ.



    Người buôn bán phần đông là những người chưa bao giờ buôn bán. Đây là lần đầu họ làm nghề buôn bán bất đắc dĩ. Sự buôn bán này là một bài toán trắc nghiệm người chủ mới trong thế chờ đợi thời thế, nghe ngóng động tĩnh.



    Nghĩ đến hoàn cảnh bất đắc dĩ của cả miền Nam, xin mượn lời hát của TCS:

    Hãy sống dùm tôi

    Hãy nói dùm tôi

    Hãy thở dùm tôi…



    Nhiều người không muốn sống, không muốn thở và đã hẳn không muốn nói nữa.

    Cuộc truy diệt văn hóa, sách vở miền Nam.



    Người ta kể trường hợp ông N.L., một cán bộ vào tiếp thu văn hoá miền Nam có dịp đọc cuốn Loan Mắt Nhung của nhà văn Nguyễn Thụy Long. Ông thích cuốn sách đó, mang về Bắc trình ông Tố Hữu. Ông Tố Hữu đọc xong nói: ”miền Bắc đã không thể có người viết văn như thế này…”.



    Vậy mà lần đầu tiên người dân Sài Gòn phải đốt sách vở.



    Nhà văn Bùi Ngọc Tấn trong cuốn Viết về bè bạn cũng đã từng trải nghiệm việc phần thư như thế ở ngoài Bắc: “thế là tất cả các thư từ đều được đem ra đốt. Dưới bếp nhà anh chị tôi, vắng vẻ. Tôi nhớ là mùa nắng hanh. Những bức thư bắt lửa. Đây mới thật là lễ Hiến tế… Tôi đưa từng lá thư vào lửa. Khuôn mặt của từng người bạn hiện ra trong ngọn lửa lem lem. Tôi và Nguyên Bình cùng im lặng. Không ai nói một lời trong suốt lễ hóa vàng. Không cả tiếng thở dài nữa.”



    Trong cuộc truy lùng sách vở Ngụy, bị đánh giá đồi trụy và phản động này, thì ông Linh mục (LM) Trương Bá Cần, nguyên giáo sư sử học, hay Trần Bá Cường tỏ ra biết lợi dụng thời cơ nhất. Trần Bá Cường đã yêu cầu địa phận, nhà xứ, nhà in nộp tất cả tài liệu ấn phẩm tôn giáo. Từ đó cho người sàng lọc tài liệu nào không cần thì đem bán ki lô, tài liệu nào xử dụng được hay có giá trị lịch sử thì ông cất giữ cho riêng mình. Người viết bài này biết rằng riêng địa phận Sài Gòn và nhà in Tân Định còn tàng trữ rất nhiều tài liệu quí giá từ thời Pháp thuộc. Các văn kiện liên quan đến Tòa thánh, các phúc trình địa phận, các thư từ giao dịch của các vị giám mục tiền nhiệm, các sắc chỉ, bài sai, các sách cũ quý và hiếm không đâu có, các sách đạo như kinh bổn, hạnh thánh, báo chí như tờ Nam Kỳ địa phận trong suốt hơn 40 năm… Không biết ông Cường đã cướp được những tài liệu gì và cất giữ ở đâu. Điều chắc chắn là cả một di sản văn hóa tinh thần có giá trị lịch sử đạo TCG bỗng chốc trở thành tiêu ma.



    Sau này, cái tội dối với lịch sử đó, mình ông gánh vác lấy.



    Trách chính quyền CS truy diệt văn hóa miền Nam đã là một lẽ, ngay một số nhà văn miền Bắc cũng có cái nhìn khinh miệt, đánh giá thấp văn học cùng văn nghệ sĩ miền Nam, dù đã sau nhiều thập niên. Trong truyện ngắn Rửa tay gác kiếm xuất bản vào năm 2002 mới đây, ta còn đọc được những đoạn văn như sau của Bảo Ninh:

    Chỉ mỗi mình Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống Cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổ thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ dựng điếu cày và trong nhà bếp, trong nhà cầu…



    Họ đã cố hủy diệt văn học miền Nam mặc dù đã không hiểu gì về Văn học ấy. Càng không hiểu được sức sáng tác từ tinh thần tự do sáng tạo của các nhà văn miền Nam cũng như hệ thống tự do xuất bản so với miền Bắc. Bình Nguyên Lộc viết 820 truyện ngắn vào năm 1966. Đến 1975, số lượng đã hẳn trên 1000. Truyện dài của ông gần 100 cuốn. Và còn vô số truyện dài chưa in, khoảng 30 truyện. Nhà văn Duyên Anh có khoảng 60 tác phẩm. Phạm Duy đã sáng tác gần 1.000 bản nhạc đủ loại. Hay có, dở cũng có. Trịnh Công Sơn trên 600 bài, nhiều bài thuộc loại nhạc vượt thời thời gian đi vào bất tử cả tử lời ca đến nhạc điệu. Chỉ xét về lượng sách xuất bản, có nhà văn nào ở miền Bắc có thể so sánh bằng?



    Nguyễn Tuân, nhà văn hàng đầu miền Bắc, trước tiền chiến có 10 tác phẩm nổi tiếng như Vang Bóng một thời, Tàn đèn dầu lạc, từ 45-75 có 10 tác phẩm đều tầm thường như Hà Nội Ta Đánh Mỹ giỏi… Những Tô Hoài, ngoài một vài cuốn ký, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan, nhất là Nam Cao đã viết được gì?



    Văn Cao bất hủ thời tiền chiến nay để lại được gì? Có bằng số lượng 2% phần trăm so với Trịnh Công Sơn? Có đi được nhiều thế hệ tuổi trẻ như Trịnh Công Sơn? Hay như Huy Cận với những bài Cướp súng giặc, Giết giặc, Tăng gia sản xuất, hoặc Lưu Trọng Lư với Cái mũ nồi, Tươi đẹp mầu cờ. Nhà văn Thanh Tịnh với Bài trừ hàng xa xỉ phẩm, Chống tư tưởng sợ Mỹ…



    Xin trích dẫn nhà thơ Lưu Trọng Lư nổi tiếng với Lá Thu Vàng để chúng ta có dịp ngậm ngùi:

    Đứa nào rẽ thúy chia uyên.

    Bắn cho nổ con ngươi, lòi con mắt

    Chặn bàn tay, trói giật bàn tay.



    Và đây là thi sĩ Tố Hữu, nhà thi sĩ đứng thứ nhì ở miền Bắc:



    Thảm lắm anh à lũ ác ôn

    Giết cả trăm người trong một sáng

    Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn

    Có những ông già nó khảo tra

    Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà

    Có chị gần sinh không chịu nhục


    Lấy vồ nó đập thai ra

    ó em nhỏ nghịch ra xem giặc

    Nó bắt vô vườn, trói gốc cau

    Nó đốt, nó cười… em nhỏ hét:

    Má ơi nóng quá, cứu con ra.



    Ngày 15 tháng 5/1975, giáo chức được lệnh phải trình diện tại Bộ Giáo Dục.

    Một trong những sai lầm của chế độ mới là để giáo sư cũ đi dạy trở lại.



    Bởi vì, tất cả không trừ một người, đều không đủ tư cách làm một thày giáo trong chế độ mới. Không phải chỉ đi học hai ba tuần lễ chính trị đã đủ để biến họ thành một giáo viên của mái trường xã hội chủ nghĩa. Việc dạy và học trở thành một màn kịch lừa đảo, tráo trở và ngô nghê. Thày đóng kịch còn trò mất tin tưởng. Con người sống bất đắc dĩ, sống hai mặt, nói một điều nghĩ một điều. Đi dạy mà sợ học trò, nhất là học trò lớp nhỏ. Đối với học trò lớn, dễ có sự thông cảm hơn. Không tin nhau thì còn dạy dỗ gì được. Cái tồi tệ nhất của học đường không phải là thiếu trường sở, cơ sở vật chất, thầy giỏi, phương pháp giáo dục năng động, cho bằng sự mất niềm tin nơi giới trẻ đánh mất niềm tin ở thầy.



    Chính trị hóa học đường là điều xúc phạm nhân phẩm thầy giáo.



    Trong Nam, trước 30/4/1975 người thầy chưa hề bị xúc phạm như thế. Sau 30/4/1975, đi dạy học là một dằn vặt khổ sở đối với thầy vì cảm thấy mình hèn, không nhân cách. Mỗi ngày, ông thầy phải tranh đấu với chính mình, vật lộn với cái đầu của mình, phải tìm cách chiến thắng những tư tưởng bất đồng cứ ngo ngoe muốn ngóc đầu dậy để phản đối cái này cái kia. Có nhiều thứ để phản đối, để không đồng ý. Vai trò nhà văn, nhà giáo quả không xa nhau lắm ở chỗ biết nói sự thật. Xã hội phải tin vào người thầy và trả lại vai trò truyền đạt kiến thức và nhân phẩm.



    Bộ mặt thứ ba của Sài Gòn sau Giải Phóng: bộ mặt của kẻ chiến thắng?



    Có cuộc diễn binh ăn mừng chiến thắng. Chiến thằng gì, ai chiến thắng ai? Đã nói rằng cuộc chiến này không có người thắng, kẻ thua. Vậy ăn mừng chiến thắng là bỉ mặt đối với người Sài Gòn. Người Sài Gòn muốn quên, còn họ muốn nhớ. Họ muốn phô trương sức mạnh, họ muốn người Sàigòn nhìn nhận thua cuộc. Họ muốn xác nhận một điều không cần xác nhận nữa. Và mỗi năm, họ tái diễn lại cảnh này.



    Tôi tự hỏi khi thống nhất nước Đức thì dân chúng Tây Đức ứng xử thế nào, nhà cầm quyền Tây Đức đã hành xử ra sao? Đã bắt đi học tập? Đã đầy đi kinh tế mới? Đã tịch thu tài sản, nhà cửa dân Đông Đức? Đã truy diệt đốt phá sách vở bên Đông Đức? Đã bắt các nhà văn, nhà bao Đông Đức vào tù? Đã dựng nên những bức tường ô nhục? Đã gọi dân quân Đông Đức là bọn Ngụy, bọn phản động? Đã xua đuổi người ta ra biển? Đã có bao nhiêu người dân Đông Đức phải trốn ra khỏi nước họ? Và một câyu hỏi chót: Dân Tây Đức đã hy sinh bỏ ra bao nhiêu tỉ để thực hiện việc thống nhất nước Đức?



    Các anh em đồng bào, những thanh niên trí thức từng du học, từng đi làm bên các nước Đông Âu, hãy làm nhân chứng viết lên điều này. Các anh đã thấy gì, nghĩ gì và so sánh gì khi nghĩ tới hoàn cảnh thống nhất đất nước sau 1975 so với nước Đức?



    Bài học thống nhất nước Đức là bài học lớn mà người CS khi nhìn lại đã không học được, chỉ vì việc thống nhất này xảy ra sau 1975. Nhưng ngay cho dù xảy ra trước 1975, vị tất đã học được gì? Bằng chứng là sự tan rã chế độ CS Đông Âu, nào họ đã rút ra được bài học gì? Bộ mặt thứ ba này cho thấy một điều: Họ luôn luôn cư xử với người Sài Gòn như kẻ thắng cuộc, như kẻ đô hộ với người bị trị. Đó là một thứ thực dân kiểu mới.



    Người ta thấy trên đường phố diễn hành những đại bác 130 ly của Xô Viết, hoả tiễn SAM 2 Xô Viết xuất phát từ Thủ Đô Hà Nội. Một lần nữa xác quyết rằng, đấy là thành quả chiến thắng của Hà Nội chứ không của một ai khác. Một thành quả mà Hà Nội đã trả một giá không rẻ. Trong Les gens de la C.I.A, 1980, Guérin đã cho biết một cán bộ CS ở Bình Dương, vào năm 1963-1965, nhóm của ông này có cả thảy 75 người, đến ngày giải phóng, chỉ còn mình ông sống sót. “Des soixante-quinze membres des années 1963-1965, je suis le seul survivant”. Dương Thu Hương nhắc lại số học sinh trong 4 lớp Trung Học cùng thời với bà, sau chiến tranh, chỉ có hai người sống sót trở về.



    Đó là cảnh mà một thi sĩ Trung Hoa đã ngao ngán viết: “Nơi vó ngựa chiến đi qua, mười năm sau, cỏ chưa mọc và gió thổi còn mang mùi máu…”.



    Theo một tài liệu Mỹ cho thấy từ 1961-1968, có 259.447 cán binh Cộng Sản bị giết và 389.171 bị thương cộng với khoảng 300.000 bị chết, nhưng không tìm được xác.



    Đó cũng là cảnh mà một chuyên gia người Mỹ, ông Keith Weller Taylor đã ngạc nhiên nhận xét về sức sống của người VN: Những chuyên gia về sự tồn tại.



    Cảnh đó cũng được quay chiếu thành film: We we’re soldiers. (Chúng ta đều là những người lính). Ở nơi đó, vị trung tá chỉ huy trước cảnh hoang địa với sự hy sinh của hơn 2 phần 3 đồng đội chỉ còn mỗi một điều an ủi: ”Cuối cùng thì những kẻ còn lại vẫn là những người chiến thắng”.

    ————————————–

    27/5/1975, bộ mặt thứ tư của Sài Gòn sau Ngày Giải Phóng: Sự sợ hãi.



    Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy? Chỉ một lệnh này thôi đủ làm dân thành phố đau ruột. Nhà nào chả có sách vở, nhà nào mà chả có chữ nghĩa.



    Hình như chế độ tạo cho mọi người dân “mặc cảm tội lỗi” đến làm gì cũng sợ. Làm việc gì, nói điều gì, phát biểu điều gì cũng phải dòm trước, dòm sau, uốn lưỡi bảy lần mới nói. Cái tâm trạng đó biến nhân cách con người thành thiếu trung thực, nghĩ một đằng làm một nẻo. Sống như thế kể là đáng buồn. Sợ bóng, sợ gió, sợ đủ thứ. Trước đây còn trẻ sợ ma, sợ người chết, nay bắt đầu sợ người sống. Nhất là sợ chế độ.



    Chế độ mới quản lý con người bằng cách đẩy họ đến tâm trạng sợ hãi bằng cảnh cáo, bằng hù dọa, bằng học tập, bằng lý lịch, bằng bản tự kiểm mà biểu tượng là các vị công an phường khóm với những hình thức chế tài, kiểm soát, chế độ xin cho.



    Như ở Ba Lan thời cộng sản, 65% dân chúng có hồ sơ của mật vụ Ba Lan. Thế thì sống luôn luôn trong sự sợ hãi và bất an thường trực. Thân phận lưu đầy ở đây là cảm thức mình là kẻ tội phạm. Cảm thức này phải sống trong lòng chế độ mới biết được. Mới đây, tôi về Việt Nam (VN), ra Hà Nội, đến các khu vực “cấm thành” dọc theo đường Hoàng Diệu, khu Ba Đình, tự nhiên cảm giác bất an, lo sợ tự nhiên dấy lên trong tôi. Sau 30 năm trở lại, tưởng nó chết rồi, nó còn đó trong vô thức ngóc đầu trở lại. Tôi vội vã rời khỏi khu vực đó..



    Đó là một thứ phong kiến kiểu cộng sản.



    Cái khốn khổ dằn vặt con người không phải là đã phạm tội gì mà vận dụng hết cách như trí nhớ, sự khôn ngoan, trí thông minh nghĩ ra, tưởng tượng ra tội phạm.



    Cái cảm nghiệm này đối với những người theo Thiên Chúa giáo (TCG) thật sự không xa lạ gì. Khi còn nhỏ tuổi, người theo TCG cũng thường rơi vào mặc cảm mình lúc nào cũng tội lỗi, một ngày ít lắm cũng phạm tội đến 7 lần. Trẻ con mà có tội gì? Vậy mà mỗi tuần mỗi xưng tội. Mỗi tuần ngồi thần ra để đẻ ra tội, đẻ càng nhiều càng tốt. Có gì khác nhau giữa người Thiên Chúa giáo và người Cộng Sản?



    Người miền Nam sinh ra ngờ vực, cái gì cũng có cảm giác mình bị lừa.



    Chủ nhật 1/6/1975
    Quân bài mạt chược cũng biết đóng kịch và người tử tế không còn nữa.




    Đã một tháng trôi qua, đã có rất nhiều thay đổi. Mọi người đều cố gắng vận dụng khả năng thích ứng, sao cho thích hợp với hoàn cảnh mới. Thật cũng không dễ dàng gì. Trước 1975, tôi có thú giải trí xoa mạt chược cuối tuần. Đã một tháng hầu như quên lãng. Nay chợt nhớ lại. Thời gian như đã từ lâu chưa chơi lần nào.



    Lần đầu tiên, tôi lén lút đi xoa mạt chược cho đỡ ghiền. Nhưng 160 quân bài mạt chược nay cũng phải mặc thêm bộ áo che chắn như người để khỏi gây ra tiếng động khi xoa bài. Chủ nhà đã nghĩ ra được sáng kiến đến lạ. Ông tốn kém đi mua một lốp săm xe đạp, cắt ra thành từng khúc vuông nhỏ, rộng nửa đốt ngón tay, rồi quấn ngoài quân mạt chược. Vì thế quân bài xoa va vào nhau không phát ra tiếng kêu, tránh cho hàng xóm khỏi nghe thấy. Nhưng từ nay, mỗi lần đánh quân bài ra, nó nhảy tưng tửng đến là buồn cười. Không ngờ, nó đóng kịch cũng hay.



    Đi ra đi vô phải ra lần lượt từng người một để tránh sự dòm ngó của người chung quanh.



    Niềm vui nho nhỏ, giải trí cũng đã sứt sẹo, mất vui.



    Trên đường về nhà, từ chỗ đánh mạt chược ở khu Hàng Xanh, nhất là vùng Thị Nghè, đường Nguyễn Huệ, bờ sông Sài Gòn, người ta bán đủ thứ do ăn cắp, hôi của từ các kho hàng, các hãng xưởng. Có thể tìm thấy đủ thứ ở các nơi đó. Nạn con buôn chạy hàng, manh múm, nạn chợ đen, giá cả mỗi nơi mỗi khác thay đổi từng ngày. Hàng thùng thuốc lá của các hãng Bastos, hãng thuốc lá M.I.C, thùng bia của hãng B.G.I. được đem ra bán. Xăng được bán lẻ từng chai ở mọi chỗ với cái chai không được bày ra đường làm dấu hiệu. Xăng này do bộ đội bán ra, vì các cây xăng bị đóng cửa. Giá cả từ 1.000 đồng đến 2.000 đồng một chai.



    Sau này, tôi cũng nhập vào dòng chảy buôn bán xuôi ngược này. Nhiều nguồn, nhiều cách buôn lắm. Tôi mua lại những chai thuốc viên Aspirine từ Hànội mang vào. Mua cả lố hàng 2, 3 chục ngàn viên. Tôi đem đến bán cho một hai cơ sở bào chế.. Họ nghiền, tán thuốc Aspirine Hà Nội rồi cho máy chạy ép ra thuốc Aspro trong Nam, có vỉ nhựa bọc. Viên thuốc cứng nhắc, trình bầy đẹp, in ấn đẹp, viên thuốc không mềm nhũn như thuốc Hà Nội mà giá đắt gấp 3, 4 lần hơn. Chưa biết là có pha thêm bột không? Bào chế xong, tôi lại đến mua lại cho một số hiệu thuốc quen và bán lại cho những người bán lẻ, có thể họ bán lại cho chính anh cán bộ đã bán Aspirine Hà Nội.



    Thật là một vòng xoay đến buồn cười. Thật ra đó chỉ là vấn đề thương hiệu, vấn đề tên nhãn thuốc.



    Nói chung, mọi người từ trong Nam đến ngoài Bắc đều “có vẻ tin tưởng” vào những sản phẩm trong Nam hơn. Thuốc ngoài Bắc, người ta gọi là “thuốc rởm”. Đây là lúc người ta so sánh nhiều thứ lắm. Ngoài Bắc thế này, trong Nam thế kia. Mà bao giờ kẻ thắng trận cũng thành kẻ thua.



    Tôi là người gốc Bắc, nhưng do sự tiếp xúc thường xuyên với người cán bộ, tôi cảm thấy tôi có chất Nam nhiều hơn chất Bắc. Chất Nam Kỳ làm tôi có cảm tưởng không giống chút nào với những người mới vô nữa. Tôi khác họ. Trước đây, có thể có kỳ thị Nam Bắc. Nay có thể có kỳ thị Bắc-Bắc, Bắc 54 với Bắc 75.



    Nếu cần tổng kết một tháng trôi qua thì phải nói đã ló dạng nạn buôn bán, mánh mung, nạn chợ đen, tham nhũng, nạn chụp giựt lừa đảo bắt đầu. Một xã hội đen, một xã hội bên lề đã thành hình. Đó cũng là đặc trưng của Sài Gòn sau 30 tháng tư. Có những người trước đây tử tế như thế nay sinh gian tham, mánh mung, lừa đảo. Đã thấy xuất hiện những người tử tế không còn tử tế nữa. Người thật thà trở thành gian manh.



    Người ăn nói trung thực trở thành nói láo khoét. Con người sống trung thực bắt đầu biết đóng kịch. Chủ nghĩa bất đắc dĩ đã sản sinh ra những người vợ trung chinh nay bắt đầu thay lòng đổi dạ. Học trò siêng năng trở thành lười biếng. Thanh niên ngưỡng vọng cao vời bắt đầu mất lý tưởng.



    Đó là điều mà Dương Thu Hương cho là một nghịch lý: ”Một dân tộc dũng cảm biết bao trong chiến tranh và hèn mọn biết bao trong cuộc sống thời bình”.



    Chiến tranh đã cướp đi tất cả những gì là cao quý, trong sáng chỉ còn để lại bọn khôn ngoan cơ hội, bọn trục lợi, bọn ăn may theo trình tự: Trong chiến tranh, người trẻ chết trước người già, người nghèo cùng khổ bán máu chết thay cho bọn giầu có quyền, có chức. Người ít học chết thay cho bọn có học, chết thay cho bọn đầu cơ chính trị.

    Người bắt đầu không ra người. Cái gì đã làm dổi thay cá tính con người như vậy. Những mánh khóe lừa đảo đủ loại ra đời mà không sách vở nào dạy hết được. Chính bản thân tôi cũng bị lừa vài lần đến đau điếng. Tại sao xã hội lại thay đổi như vậy? Trước đây, cũng không thiếu tầng lớp người nghèo xác xơ, tại sao cảnh đó lại không xảy ra?



    Trục xuất Khâm sứ Toà thánh và hủy bỏ việc bổ nhiệm Giám Mục (GM) Nguyễn Văn Thuận làm phó Tổng GM (TGM).



    Trong thời gian này, có xảy ra vụ trục xuất Khâm sứ Toà Thánh và phản đối việc bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận làm phó Tổng GM có quyền thay thế. Việc trục xuất do sự phát động của một số 20 Linh mục (LM) cấp tiến Triều và Dòng, trong đó có LM Thanh Lãng, giáo sư đại học Văn Khoa.



    Ngoài Thanh Lãng còn phải kể đến Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Bích, Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Phan Khắc Từ, Hoàng Kim, Nguyễn Thới Hòa, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Nghị, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Nguyễn Thiện Toàn, Đinh Bình Định. Nhiều tin đồn và dư luận xôn xao và đã có xáo trộn trong đám giáo dân. Một nhóm sinh viên căng biểu ngữ trước tòa TGM Sài Gòn vào ngày 13/5/1975 phản đối việc bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận.



    Theo như lời phỏng vấn ông Nguyễn Văn Hanh trên tờ Sàigòn Giải Phóng thì: ”Do đó đã xảy ra xôn xao và xáo trộn, thậm chí có chết người trong cuộc xô xát đêm 3/6/1975, gần cầu Trương Minh Giảng”. Phần LM Thanh Lãng, người cổ xúy cho việc này thì đã viết một bài: “Tạm tổng kết vụ Giám Mục Nguyễn Văn thuận”. Nhân đó ông Nguyễn Văn Hanh đã không quên thừa dịp này đề cao LM Thanh Lãng là: ”là nhà văn và là nghiên cứu có tiếng là trí thức và ôn hoà…” Trong khi đó thì lại có một tiếng nói khác của LM Trần Du, đăng trên tờ Đứng Dậy, số 72, trang 46 như sau: “Quyết định bắt Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận rời Sài Gòn không thể thi hành được. Hai triệu dân công giáo không chấp nhận. Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận không có quyền từ chức. Vậy thì chính quyền có thể giết ngài, có thể giết cả tôi, có thể bỏ tù Ngài hay bỏ tù tôi.. Nhưng không thể tự ý trục xuất Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Sài Gòn”.



    Phần TGM Nguyễn Văn Bình trong một lá thư gửi LM, tu sĩ, giáo dân ngày 7/6/1975 đã xác định:

    - Việc bổ nhiệm là hợp với nhu cầu mục vụ
    - Chính tôi đã đồng ý hoàn toàn việc bổ nhiệm này.
    - Mấy tổ chức mệnh danh công giáo chỉ là thiểu số.
    - Những tội danh gán buộc cho Đức khâm sứ Henri Lemaitre và Đức TGM Nguyễn Văn Thuận hoàn toàn thất thiệt.
    - Chấm dứt các chiến dịch bôi nhọ, vu cáo.
    - Chận đứng các chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận.



    Bất chấp kháng thư của Tổng GM Nguyễn Văn Bình, hai tháng sau, ngày 15/8/1975, Ủy ban MTDTGP TP. HCM và Ủy ban quân quản trình bày vụ TGM Nguyễn Văn Thuận tại Nhà hát thành phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), ông Phó chủ tịch Mai Chí Thọ tuyên bố: ”đưa giám mục Nguyễn Văn Thuận về lại Nha Trang, vì Giám Mục Thuận được chuyển đến Sài Gòn không phù hợp với tình hình mới.” Cũng trong ngày ấy, tức 15/8, Ủy Ban quân quản mời Đức Cha Bình và Thuận đến “làm việc” tại dinh Thống Nhất (dinh Độc lập), giữ cha Thuận lại, đưa xe bít bùng chở đi câu lưu tại Cây Vông, thuộc tỉnh Khánh Hoà, sau đó chuyển ra Bắc, bị tù 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam, cho tới ngày 23/11/1988.



    Xin ghi lại đây mấy dòng nhật ký của TGM Nguyễn Văn Thuận: Ngày 1 tháng 12, năm 1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình, tôi bị gọi đi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên xe cam nhông… Chúng tôi bị đưa lên tàu, chở ra miền Bắc – một cuộc hải hành dài 1.700 cây số. Dĩ nhiên trong điều kiện như một đàn súc vật người chen chúc, thiếu ánh sáng, thức ăn và không khí, nhưng đầy ắp những tiếng uất ức nói không nên lời. Trong 9 năm biệt giam cơ cực, có lúc tôi bị giam trong một xà lim không có cửa sổ. Có khi đèn điện bật sáng từ ngày này qua ngày khác. Trong thời gian, tôi bị biệt giam, tôi được giao cho 5 người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn có hai người ở với tôi… Khi tôi bị quản thúc tại làng Giang Xá, cách Hà Nội khoảng 20 cây số, người canh giữ tôi là một tín hữu công giáo.



    Vụ việc này xảy ra chỉ không đầy hai tháng sau khi “chỉ thị của Thủ Tướng Chính phủ về các hoạt động tôn giáo”



    Thứ bảy, 7/6/1975, thân phận một nữ sinh viên tranh đấu trước 75.



    Trong giới sinh viên, nhiều người biết đến Cao thị Quế Hương như một người tranh đấu điển hình, nhất là trong giới Phật tử. Cuộc biểu tình, tuyệt thực nào mà không có cô. Ra tù, ra khám như chơi. Nổi tiếng tranh đấu như thế, chắc hẳn vào tù không khỏi bị các quản ngục làm nhục cách này, cách khác. Báo chí nhắc đến cô với ngưỡng phục vì lòng can đảm, vì nhiệt tình hăng say. Vào những giờ phút chót của VNCH thì cô vẫn đang ngồi tù ở Biên Hòa. Ở một nơi nào, trong một trại giam biệt lập, mà ít người biết.



    Hôm nay, cô Cao Thị Quế Hương từ Đà Lạt về mỗi năm để làm giỗ cho anh Nguyễn Ngọc Phương và để gặp lại bạn bè tranh đấu thời trước. Cao thị Quế Hương là một khuôn mặt nổi bật trong giới sinh viên tranh đấu trước 1975. Nhắc lại cái thời kỳ ấy, có một số các bà, đặc biệt có chị Yến và một bà người Tàu chuyên nấu bếp ở chùa Ấn Quang Họ thường tổ chức nấu ăn, tiếp tế tương chao cho tù nhân ở nhà giam Tân Hiệp Biên Hoà. Đám giỗ Phương đã được tổ chức ở Tịnh Xá Ngọc Phương của cố ni sư trưởng Huỳnh Liên. Mỗi lần giỗ như thế thì có đông các ni sư, ni cô và các bà Sài Gòn tụ tập lại. Lẽ dĩ nhiên là thường ăn đồ chay.



    Trong thời kỳ đó, toà án mặt trận vùng 3 chiến thuật xử lần thứ nhất tạm phóng thích khoảng 10 sinh viên, trong đó có cô Cao Thị Quế Hương, Nguyễn Ngọc Phương, tự Ba Triết, Dương Văn Đầy và Huỳnh Tấn Mẫm. Mẫm nguyên là chủ tịch Sinh Viên 1970, lãnh đạo thành đoàn Tòa xử lần 2. Mẫm và Đầy và một sinh viên được thả, số còn lại bị giữ cho đến ngày được trao trả. Trừ Nguyễn Ngọc Phương.



    Cuối năm 1972, Nguyễn Ngọc Phương và một số tù Chí Hoà nhịn ăn để chống lại đại tá Vệ, giám đốc nhà tù Chí Hoà. Phương đuối sức, được đưa vào bệnh viện Sài Gòn. Đến đầu 1973, Phương chết. Sau này Lê Văn Nuôi, chủ tịch thành đoàn, chủ bút báo Tuổi Trẻ thường nhắc lại kỷ niệm về Phương: Phương chưa kịp mừng Hiệp Định Hoà Bình ra đi thì đã mất.



    Đám ma Phương được nhiều dân biểu, nghị sĩ đối lập như các dân biểu Kiều Mộng Thu, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Nhuận v.v… đến nhà ở đường Cao Bá Nhạ phúng điếu. Sau đám tang Nguyễn Ngọc Phương, Cao Thị Quế Hương bị bắt lại và bị giam ở trại Chiêu Hồi Đức Tu Biên Hòa cho đến trước ngày giải phóng. Cao Thị Quế Hương trốn khỏi trại trước ngày giải phóng và ra ở nhà chị Dậu, một phụ nữ đấu tranh nổi tiếng ở Vũng Tàu, đến tháng 5-75 mới về lại Sài Gòn.



    Cuộc đời của Cao Thị Quế Hương sau đó củng chìm lỉm vô danh như nhiều người khác. Cô về sống với mẹ ở Đà Lạt như một người quy ẩn. Nói quy ẩn cũng không đúng hẳn. Cô giữ chức chủ tịch Hội Liên Hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt.



    Đó là những bóng người như những bóng đêm câm lặng nhường chỗ cho những bọn múa rối ra đời và sắp ra đời, tuỳ theo mỗi thời kỳ… Thoạt đầu là những Trí thức yêu nước, sau này là trí thức hải ngoại tìm về v.v…

    Đến có thể nói một điều chua chát như thế này. Rất nhiều người đã “nổi” nhờ chế dộ độc tài Nguyễn Văn Thiệu miền Nam như: Cao thị Quế Hương, Huỳnh Tấn Mẫm, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, các quý vị đi theo Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN). Sau giải phóng, thay vì nổi thì họ chìm.



    Sài Gòn của tin đồn thất thiệt.



    Nay thành phố giới nghiêm từ 10 giờ tối. Dù không có giới nghiêm thì cũng không ai muốn ra khỏi nhà vào cái giờ ấy. Có nhiều tiếng nổ lớn ở phía Bắc thành phố vào lúc 3 giờ… Có tiếng còi hụ của xe cứu hỏa, người ta đồn với nhau là tiếng nổ do Plastic gài vào xe của của bộ đội. Cũng có hai bộ đội bị đâm chết ngay cạnh rạp ciné Mini-Rex, đường Lê Lợi. Nhiều người còn kháo với nhau có mảnh giấy ghim trên ngực người chết ghi “chúng tôi không muốn cuộc cách Mạng của các ông”. Thật sự thì đã có ai nhìn thấy mảnh giầy ghim trên ngực đó không? Chắc là không. Chỉ đồn, chỉ bịa, chỉ tưởng tượng đủ thứ. Tôi không tin có mảnh giấy đó.
    Mảnh giấy đó chỉ nằm trong đầu người ta mà thôi.



    Thay vì nghe đài phát thanh thì nay dân chúng đã có “Radio Catinat”, mỗi ngày phát thanh tin đồn thất thiệt hai mươi bốn trên hai mươi bốn.



    Sài Gòn không có thông tin, nên nẩy ra rất nhiều tin đồn để lấp chỗ trống đó. Càng cấm, tin đồn càng nhiều. Có những tin đồn đến hoang đường, đến không tưởng mà người ta vẫn kháo nhau cho là thật. Tin đồn được tung ra từ các đám người đấm bóp thời cuộc, ngồi ở cà phê đầu đường tán dóc cho qua thì giờ.



    Bà Ngô bá Thành trong một cuộc phỏng vấn đã nhận xét: ”Radio-Catinat là một lực lượng đáng kể ở thành phố Hồ Chí Minh. Nó vượt qua dễ dàng những phương tiện truyền thông chính thức của chúng tôi”.



    Hôm nay. Hôm nay là hôm nào? Hôm nào cũng được, miễn là ngày của chúng tôi. Một số đồng nghiệp trẻ tổ chức ăn với nhau tại nhà một cô giáo bên Khánh Hội.



    Không khí đầm ấm, nhớ đời. Cuộc sống của chúng tôi chỉ có ý nghĩa thực sự ở những lúc này.
    Chúng tôi gần nhau hơn, chia sẻ nhiều hơn, mặc dầu bữa nhậu dù cố gắng lắm cũng rất đạm bạc. Ăn xong, một số các em nữ giáo viên trẻ đàn hát nhạc cũ. Hát nhỏ thôi. Hát lén thôi. Nhưng chính ở chỗ hát lén mà nó đậm đà, mà nó cảm động. Ăn trộm, ăn vụng đã ngon, lần đầu tiên hát lén cũng thấy hay không thể chê được. Nhiều em gái, dơm dớm nước mắt. Chúng tôi chia tay, trong lòng ai cũng muốn có những bữa ăn như thế nữa.



    Thứ ba, 10/6/1975, đại sứ Pháp Merillon ra đi.



    Chuyến máy bay thứ ba ra nước ngài chở theo tất cả những nhà ngoại giao còn sót lại. Trong số này, có ông đại sứ Pháp Mérillon, nổi tiếng vào những câu chuyện giờ thứ 25 của Sài Gòn. Ông ôm gói ra đi trong một tình trạng bị đối xử thật tồi tệ đối với đại diện một cường quốc như nước Pháp. Hà Nội hình như muốn khép tất cả các cánh cửa ra ngoài. Với sự ra đi của ông Đại Sứ Pháp… hầu như mọi liên lạc với thế giới tư bản bị cắt đứt. Hà Nội hình như muốn đóng cửa để dễ làm việc, giải quyết những chuyện nội bộ cho xong. Sau này, tại hải ngoại đã có cuốn sách dựng đứng việc Đại Sứ Mérillon thương lượng với chính quyền giải phóng về một giải pháp bị thất bại. Lại một chuyện hoang tưởng nữa, mất công ông Đại Sứ viết bài báo cải chính cũng không xong.



    Thứ năm, 12/6/1975, trình diện học tập cải tạo



    Ngày đánh dấu một thay đổi lớn với tất cả những nhân viên, sĩ quan trong chế độ cũ. Guồng máy chính trị chế độ bắt đầu chạy, bắt đầu xiết. Thông cáo cho hay, các sĩ quan và viên chức chính phủ cũ sẽ phải đi học tập cải tạo tối thiểu một tháng đối với Sĩ quan quân đội và cảnh sát ngụy, những người làm chính trị, dân biểu, bộ trưởng, nghị sĩ. Họ phải trình diện trong ngày mai và chỉ được mang theo quần áo mặc thay đổi và còn nói rõ mang theo 1.3610 đồng để trả tiền ăn trong một tháng.



    Đối với các Hạ sĩ quan trở xuống, chỉ phải trình diện học tập ba ngày. Tờ Sài Gòn Giải Phóng giải thích: “Họ có phần trách nhiệm của họ vì đã cầm súng đánh giặc cho kẻ thù, hoặc đã làm việc cho kẻ thù”.



    Chắc nhiều người nay ở Hải ngoại đã hẳn không quên được cái ngày lịch sử này đối với đời sống còn lại của họ.



    Tôi gọi đó là ngày mà chính quyền dựng lên một bức tường ô nhục phân biệt giữa kẻ thắng, người thua. Sau 30 tháng tư, nhiều bức tường ô nhục đã được dựng lên như thế.



    Tiện nơi đây, xin trích dẫn những con số khác nhau về số những người đã phải đi học tập cải tạo. Dư luận dân chúng thì đưa ra con số là 80 vạn người tù học tập cải tạo. Năm 1976, P. de Beer đưa ra con số 200.000. J. Lacouture, vào tháng 5, 1976 đưa ra con số 300.000. Những người có khuynh hướng thân CS thì đưa ra những con số như sau: Tháng tư, 1978, Chanda cho có 50.000, tháng tư 1978. RP. Paringaux cũng 50.000. tháng 6, 1979, F. Nivolon, trên tờ Le Figaro, thiên tả, đưa ra con số 50.000.



    Trong truyện đi học tập, có một số cựu viên chức miền Nam đã được miễn như các trường hợp kể sau đây: Trong Hồi ký không tên, Lý Quý Chung có ghi lại như sau, khi ông nhận được một phong bì giao tận tay: giao cho nguyên Tổng Trưởng Thông Tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền, Lý Quý Chung, thông báo được miễn học tập tập trung. Ký tên: Cao Đăng Chiếm. Phó chủ tịch Ủy Ban Quân Quản.



    Khi nói rằng Lý Quý Chung được miễn học tập cải tạo tập trung thì có nghĩa là ông được miễn khỏi phải vào các trại tập trung như cô nhi viện Long Thành. Nhưng ông vẫn phải tham dự các khóa học tập tại chỗ, tổ chức nhiều nơi và nhiều ngày trong thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ.



    Chẳng hạn, hơn một ngàn giáo sư trung học cả công cả tư trong thành phố cũng được miễn đi học tập tập trung. Nhưng họ vẫn phải tham dự các khóa học tập ngắn ngày trong thời gian liên tiếp ba tuần lễ.


    Một trường hợp điển hình khác là ông Lý Chánh Trung, đã từng được đưa vào bưng để tiếp xúc với những lãnh đạo MTGPMN. Khi giải phóng xong, dù sau nay dược là dân biểu, được tiếp tục giảng dạy ở Đại Học Văn Khoa. Ông vẫn phải tham dự các khóa học tập về chủ nghĩa Mác Lênin, không phải một vài tháng, mà kéo dài cả năm, có trao dổi, có làm bài, có chấm điểm.



    Vậy thì bất cứ ai ở miền Nam, nếu không trực tiếp là đảng viên cộng sản, hay đã tham gia trực tiếp vào MTGPMN thì dù được miễn học tập cải tạo tập trung vẫn phải dự các lớp học tập tại chỗ. Đó có thể cũng là trường hợp của tướng Lê Văn Nghiêm và một số trí thức miền Nam khác.



    Vì thế, việc miễn học tập tập trung cũng còn dành cho một số người khác như Dương Văn Ba, Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Bá Thành (cựu Tổng giám đốc Cảnh sát Sài Gòn, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm) v.v…

    Nhưng sau đó những người trên vẫn tham dự những buổi học tập diễn ra từ ngày 15/8 đến 22/8, do Tạ Bá Tòng hướng dẫn.



    Bên cạnh đó, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương là những trường hợp đặc biệt của đặc biệt. Bốn vị này thay vì đi học tập tại chỗ thì người ta gọi là những buổi trao đổi. Thật ra thì cũng là một thứ học tập, ở mức độ nhẹ nhàng và thoải mái thôi. Chỉ có khác là học ở Sài Gòn. Trong những buổi học tập này, cụ Hương là người hăng hái nhất, phát biểu cũng nhiều nhất.





    Cuối cùng thì có thể nói là cả miền Nam phải học tập. Trẻ, già, lớn, bé, từ phường khóm đến trường học. Không miễn trừ cho bất cứ người nào.



    Nhà nào cũng có người là sĩ quan phải đi học tập. Không sĩ quan thì ngụy quyền. Đâm ra nhà nào cũng có chuyện buồn, cũng có chuyện phải lo. Anh rể tôi, anh cột chèo đều phải đi cả. Các chị tôi đã hẳn buồn và lo lắm. Tôi làm sao không buồn theo.





    (Xem tiếp phần II)



    Nguyễn Văn Lục
    https://hon-viet.co.uk/NguyenVanLuc_30T ... nhMat1.htm




    ============================





    30 tháng 4 -
    Ði tìm thời gian đánh mất
    (Phần II)

    Nguyễn Văn Lục











    Cuối cùng cả miền Nam đều buồn.



    Mẹ tôi không nói ra, nhưng có vẻ héo hắt đi. Đôi mắt hõm sâu thêm vì những đêm không ngủ. Nụ cười úa tàn không còn oan oang như trước nữa. Bố tôi thì bề ngoài thấy như vẫn vậy. Thói quen của mẹ dấu diếm những điều cho riêng mình đã thành tật. Do đó, nó khoét sâu vào tâm khảm, đục khoét cơ thể lúc nào không hay. Người cứ nhẹ đi như bấc. Có những buổi trưa bất ngờ sang thăm mẹ. Mẹ ngồi ngủ gục, ẻo lả một bên. Tôi ngỡ ngàng kinh ngạc, xót xa. Con rể đi học tập, con trai lang thang, lếch thếch ngoài Vũng Tàu tìm đường đi. Con cả ở ngoài bắc vẫn biệt tăm, vẫn mù mịt, không biết sống hay chết. Đã mấy chục năm rồi sao chưa về. Nổi đau quá khứ trộn thêm nỗi lo hiện tại. Các con tứ tán. Mẹ vẫn không một lời ca thán. Mà mẹ biết trách ai bây giờ.



    Chẳng bao lâu sau, mẹ từ giã cõi đời vì gánh nặng cuộc đời không gánh nổi.



    Mẹ tôi chết. Không còn cách gì cản quyết tâm phải ra đi của tôi nữa. Đúng là mẹ tôi ép tôi phải ra đi.

    ————————————-

    Từ ngày Cách mạng vào đến giờ, tôi tự hỏi: đã có một ngày, đã có việc gì làm cho chúng tôi vui? Chưa. Chỉ có những chuyện buồn, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Thế giới chia cách từ chỗ đó.

    Trong vấn đề đi học tập này, chắc cần phải nói thêm cho rõ. Có vài người trong chính quyền mới là các ông Năm Xuân, Mai Chí Thọ và ông Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt, ông Sáu Ngọc, giám đốc công an thành phố rồi Sáu Đức, tỏ ra nới tay đối với một số trí thức miền Nam. Không có mấy ông này thì nhiều người cũng khốn khổ lắm. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận, sau 30/4/75, lãnh đạo đã cho ông một đặc ân là lên danh sách những người được đi học tập cải tạo riêng. Ông Nhuận có kể trưởng hợp Dương Văn Ba bị lọt sổ (DVB). Can thiệp mấy cũng không được. Ông Tạ Bá Tòng thì cứ nhất định phải đưa DVB đi học tập. Đến phút chót, ông Tòng mới xét lại và miễn cho DVB khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Có những anh đã được can thiệp như dân biểu Thạch Phen, đại uý quận trưởng, gốc Khmer hay Trần Ngọc Giao đã được miễn học tập tập trung… Nhưng về địa phương thì lại khác, bị bắt, rôi được thả, rồi cả hai ông đều chết. Không có ông Mai Chí Thọ thì ông Nguyễn Chức Sắc, chồng bà dân biểu Kiều Mộng Thu hay dân biểu Lê Tấn Trạng làm sao thoát cảnh tù đầy.



    Cũng cần nhắc lại ở đây là thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) đã đánh giá khá tích cực ba thành phần sau đây sẽ là những yếu tố thuận lợi sau này trong việc xây dựng, tái thiết và phát triển miền Nam. Bỏ qua ba yếu tố này sẽ là những bất lợi bất cập gây trở ngại cho việc tái thiết và phát triển miền Nam.
    Đó là 3 thành phần cơ hữu của chế độ cũ cần được đánh giá đúng mức: Người Việt gốc Hoa, viên chức và sĩ quan chế độ cũ và khối người Thiên Chúa giáo.



    Rất tiếc, sự đối xử phân biệt với người Hoa cũng như việc trục xuất người Hoa ra khỏi VN, việc đánh tư sản mà phần lớn là người gốc Hoa, việc bắt viên chức cũng như sĩ quan đi học cải tạo lâu ngày đã đưa đến thảm cảnh ‘boat people’ như mọi người đã thấy. Việc trục xuất khâm sứ toà thánh và các thừa sai ngoại quốc mà theo đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch là nên duy trì tòa Đại sứ Hoa Kỳ để cho việc bang giao quốc tế không bị gián đoạn.



    Nếu đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch, một người có kinh nghiệm về những bang giao chính trị trên thế giới, được chấp nhận, thì đã hẳn có thể tránh được nhiều thảm họa cho đất nước.


    Cơ hội xây dựng đất nước đã một lần để hụt tay



    Một chuyện vui kể lại: Gia đình tôi có dịp đón tiếp anh chị Kim, con nhà bác từ Hà nội vào. Anh chị cũng hiền lắm. Hình như cũng không được khá giả gì. Anh có cô con gái là nữ ca sĩ nổi tiếng miền Bắc lúc bấy giờ. Giọng cháu lanh lảnh, thánh thót, sắc cạnh, cao vút, nhưng không truyền cảm lắm. Nghe vẫn chưa quen, thấy thế nào ấy. Thấy hay, nhưng vẫn không cảm được. Cho cái gì, anh chị cũng nhận mang về, tất cả chỉ là đồ cũ. Tôi có chai rượu Black and White để dành, nhân dịp đó mang ra đãi anh. Hình như chỉ qua chầu rượu thứ hai, anh đã say mèm. Say rồi , anh chả giữ ý tứ, chả rào trước đón sau, chả nói theo bài bản nữa như lúc mới đến. Anh lộ nguyên hình hài là anh, con người thật. Anh chửi hăng quá, chửi cho đã như thể chưa bao giờ có dịp để chửi như thế, như thể đã nhịn nhiều năm. Anh chửi những nhân vật đời thường anh chỉ biết tụng niệm.



    Xin đổi câu thơ này ra để tặng anh:

    Sống mình không được nói

    Chết mới được ra lời.



    Anh không chết, nhưng rượu vào làm anh chết giả và lúc đó anh mới sống thật với lòng mình. Tôi chỉ buồn cười. Cũng thương anh rồi dìu anh đi ngủ. Chị ấy thì sáng hôm sau có vẻ rất băn khoăn khổ sở về bữa rượu hôm trước. Tôi thì thấy thường quá, say nói lăng nhăng ai chấp làm gì. Từ đó, anh chị không bao giờ vào chơi nữa. Thật đáng tiếc.



    12 tháng 6, 1975. Mỹ gửi đến tòa Đại sứ Việt Nam một thông điệp



    Thông điệp này do sứ quán Mỹ ở Paris gửi đến sứ quán của VN ở Paris: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hận gì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”.



    Sau đó có buổi họp giữa ta và Mỹ, cấp bí thư thứ nhất ngày 10/07, giữa ông Đỗ Thanh và Pratt chủ yếu bàn về vấn đề MIA. Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ, Mỹ có thể đóng góp khôi phục lại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, hợp tác kinh tế.



    Và theo ông Trần Quang Cơ, nguyên thứ trưởng ngoại giao Công Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN0, năm 1977 ta đã có đủ khả năng để ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng ta đã bỏ qua. Thật là đáng tiếc.



    Thứ bảy 14 tháng 6, 1975, thay đổi giờ thay đổi đời.



    Kể từ sáng nay, giờ Hà nội (GMT-7) thay thế chính thức cho giờ ở Sài Gòn (GMT- 8). Đây là một thay đổi duy nhất mà người Sài Gòn không ai để ý tới. Chuyện thay đổi cả đời người còn chưa lý tới, một giờ thì nhằm nhò gì. Bây giờ là giờ của cách mạng hiểu theo nghĩa nào cũng đúng cả: Giờ của lịch sử, giờ của người chiến thắng.



    Chỉ có kẻ thua trận là không có giờ và dĩ nhiên không có cả tương lai nữa.



    Gia đình tôi lại có dịp tiếp đón một ông chú bên nhà vợ. Mọi người gọi là chú Tiến. Nghe nói, hình như chú là thứ trưởng bộ kinh tế thì phải. Tội nghiệp chú, các bà cô vợ tôi được dịp chửi rủa xả láng, nói bóng nói gió, chê bai đủ thứ. Chú chỉ cười. Chú chả thèm xin bất cứ thứ gì, có cho chắc cũng không lấy. Chú giầu chăng? Phần tôi, phải nhận tôi quý mến chú, dù ông chỉ hỏi thăm tôi một hai câu..

    Giống anh chị Kim, ông chỉ tới thăm một lần và không bao giờ trở lại.



    Dù sao, có bà con ở phía cách mạng cũng lợi, vì có thể chửi mà không sợ đi tù.



    Thứ ba, 17 tháng 6, 1975, tất cả các ngân hàng tư nhân đều bị đóng cửa.



    Tất cả tài sản và tiền của các ngân hàng đều phải chuyển giao về ngân hàng quốc gia VN. Tất cả các hãng xưởng, nhất là của người Pháp đều rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động được. Đó là các hãng Citroen, các đồn điền cao su, các hãng nước ngọt vv. Họ phải chuyển giao hãng xưởng, tài sản tư nhân phải bán, ra đi với hai tay trắng. Lời hứa của tướng Trần Văn Trà, ủy ban quân quản thành phố vào ngày 8 tháng năm trước đại diện 120 đại diện báo chí ngoại quốc không còn ai nhắc tới nữa: “tất cả các tài sản của người ngoại quốc sẻ được bảo đảm tôn trọng”. Theo ông Duchemin đã được Mai văn Bộ trấn an: Người Pháp cứ việc yên tâm ở lại làm ăn.



    Cái mà chính phủ nhắm tới là Người Tầu đang nắm giữ việc thương mại, buôn bán ở Chợ lớn. Nhưng chính phủ còn chưa ra tay. Mặc dầu vậy, những người Tầu có tiền của cũng đã chuẩn bị trong tay một giấy thông hành Đài Loan rồi.



    Đừng quên rằng, sau những người Tàu Chợ Lớn, còn có cả một nước Tầu đứng sau họ.



    Thứ bảy 21 tháng 6, 1975, giáo dục dưới mái trường XHCN.



    Ngoài các trường công đã được hoạt động ngay những ngày đầu giải phóng, nay một số trường tư và trường chuyên môn dạy nghề được phép mở cửa, hoạt động trở lại. Đây là cái cửa mở đầu tiên được mở ra. Nhưng coi chừng, cửa chỉ mở hờ. Trường Regina Pacis nay không còn dạy giáo lý hay đọc kinh mà thay vào đó là những bài hát ca tụng Bác Hồ…



    Các trường đại học cũng mở cửa lại, nhưng chưa có chính thức giảng dạy. Các chức Viện trưởng, khoa trưởng đều từ ngoài Bắc vào nắm giữ. Chuyên với hồng bắt đầu từ đây. Đây là keo thử thách nữa về sự phân biệt thế nào là chuyên, là hồng.



    Đất nước tiến lên hay thụt lùi cũng từ cái khâu này.



    Lại có vụ ám sát giết hai bộ đội sáng nay ở đường Trần Hưng Đạo. Họ bị cứa đứt cổ. Chẳng biết là thật hay giả. Dù sao, những tin tức kiểu đó cũng là món ăn giải trí và bổ đưỡng cho những kẻ thua trận.



    Các giáo sư tuần tự đến trường đều đặn. Không bảo nhau mà trong trường chia ra phe phái rõ ràng không có quy ước và không có giới tuyến. Anh Hiệu trưởng cu ky một mình. Anh kín đáo quá. Hiệu phó lăng xăng vẫn không che đậy hết cái gốc tư sản của anh. Mọi việc giao tiếp, xử lý, hình như anh đại diện hiệu trưởng lo liệu. Một anh trẻ tên Hùng, đang là đoàn viên, rất gương mẫu, rất kỷ luật, rất khe khắt với chính mình và đồng nghiệp. Con mắt có vẻ soi mói mọi người, mọi chỗ. Anh cũng cu ky một mình theo cách của anh. Sau này, anh tình nguyện đi lính sang Campuchia. Anh đã không có cơ hội trở về. Cùng lắm anh có Hương, một đoàn viên khác là bạn đồng hành. Nhưng tuy không nói ra người ta vẫn đọc được tâm sự ẩn kín của Hương. Ánh mắt lúc nào cũng gợi buồn, sự cố gắng đến mệt mỏi, nụ cười gượng gạo. Hoá ra, số phận Hương có thể còn khổ gấp đôi lần những người bạn đồng nghiệp. Một số nữ giáo viên lớn tuổi mà có thể chồng con đi học tập, họ làm việc, tuân thủ như cái máy không hồn. Một cuộc sống bất đắc dĩ. Một cuộc sống mơ về một cuộc sống ở một nơi nào khác.



    Đa số giáo viên trẻ còn vui đùa hồn nhiên họp thành một đám. Hố thẳm rơi của những người cùng thân phận. Nhiều tình cảm nẩy nở giữa họ do cùng tâm trạng, cùng hoàn cảnh, cùng suy nghĩ. Ít lắm, có vài đồng nghiệp trẻ mà nhen nhúm quý mến nhau hết mực, trân trọng hết mực, bảo vệ nhau hết mực..cho mãi đến về sau này.



    Điều mà người ta không hề có, điều mà người ta không có dịp để sống trong những thời gian trước 75..



    Thứ sáu 27 tháng 6, 1975, các tin đồn mỗi ngày mỗi nhiều.



    Có bốn bộ đội canh gác ở ngay trong thư viện quốc gia bị giết. Hai bị đâm chết, hai bị cắt cổ. Trong ngày, nhiều tiếng nổ lớn được nghe thấy từ phía Tân Sơn Nhứt. Hai thường dân cưỡi Honda bị bắn hạ trước cửa toà lãnh sự Pháp vào lúc 4 giờ. Đến 20 giờ tối, ba bộ đội bị bắn chết bởi hai người đi trên xe Honda ở góc Phan Thanh Giản, Phan đình Phùng.



    Tin đồn như thức ăn hằng ngày của dân Sàigòn.



    Mùng 10, tháng 7, 1975, tờ báo Công giáo và dân tộc: tiếng nói của chính quyền.



    Sau đúng 10 tuần lễ, một tờ báo công giáo được xuất bản:



    Tờ Công giáo và Dân tộc do nhóm Trương Bá Cần, hay nói ngược lại là Trần Bá Cường, Vương Đình Bích, Phan KhắcTừ, Huỳnh Công Minh điều hành. Họ là người của Cộng sản. Xin ghi lại đây lời của Vương Đình Bích: “Đảng Cộng Sản đã gây dựng 4 người chúng tôi làm đầu nảo mọi hoạt động của đảng trong giới Công giáo” . Phần Huỳnh Công Minh, khi được chọn làm đại biểu Quốc Hội đã phát thệ: “Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ”. Trong một bài viết trên Tin nhà, số 43, 2000. Nguyễn Hữu Tấn Đức gọi bọn bốn ông này là Prêtres et commissaires. Linh mục và cán bộ. Thật ra tiền thân của nó là từ một tờ báo Công Gíao và Dân Tộc (CGDT) ở giáo xứ Paris, từ 69-75 do ông Nguyễn Đình Thi đứng đầu. Nó có mặt từ đây cũng là do tiền của Nguyễn Đình Thi tài trợ lúc ban đầu. Tất cả 4 người trên đều có dính dáng, liên lạc hay hoạt động với chế độ cộng sản từ trước. Tờ báo chỉ là nối kết những tổ chức tôn giáo nhà nước như trước đây ở Hànội. Chẳng hạn, ngoài Bắc có tổ chức với cái tên rất dài là: Ũy Ban liên lạc toàn quốc những người VN yêu tổ quốc, yêu hoà bình (UBLLCGTQ) Tờ báo CGDT ở Sài Gòn tọa lạc trên một toà nhà ba tầng gồm 50 nhân viên, trong đó có một vài tu sĩ. Vốn liếng tài trợ tờ báo là những hợp tác xã, cơ sở kinh doanh được nhà nước tài trợ như xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, khách sạn Đại Kết, công ty Tinh Hoa, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề và máy vi tính Bạch Đằng..



    Cho đến nay, tờ báo vẫn còn họat động đều đặn. Có lẽ đây là tờ báo duy nhất được sinh ra từ sau giải phóng và tồn tại lâu dài như vậy. Nó không thể chết, vì nếu nó chết thì cái đã làm nên nó chắc hẳn cũng không còn nữa. Vì có tính cách chính thức như tiếng nói của chính quyền nên nhiều người nghi kỵ và dè dặt. Người dân có cái nhạy cảm và dị ứng với cái gì chính thức, cái công quyền. Trước đây, các tờ Chỉ Đạo, Cách Mạng Quốc Gia cũng nhận được sự rẻ rúng của dư luận quần chúng. Đây là cái bình phong che chắn cho chế độ. Sau này, chính nội bộ của họ cũng tố cáo nhau như trường hợp giữa ông Nguyễn Đình Đầu và ông Trần bá Cường tức Trương Bá Cần viết lộn ngược. Ông Vương Đình Bích thì đã viết thư hạch hỏi ông Phan KhắcTừ về tội lem nhem tiền bạc, về tổ chức, về chuyện một vợ hai con của ông. Tiền bạc vốn tài trợ ngoại quốc khoảng 150 ngàn Mỹ kim. Vốn vay để thêm thu nhập cho tờ CGDT như ở trên đã nhắc tới. Ông Bích hỏi ông Từ tiền lời lãi do xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, đỡ đầu cho công Ty Tinh Hoa, vay vốn hai tỉ để lập nhà máy may và trồng 33 mẫu cao su, rồi đầu tư với công ty Singapore, đầu tư khách sạn Đại Kết, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề may và trường dạy vi tính Bạch Đằng là bao nhiêu, tiền đó bây giờ ở đâu. Tất cả đều do ông Từ đừng tên. Làm sao người dân biết được những chuyện làm ăn đó. Thì cũng do chính họ tố giác nhau mà dân mới biết được.



    Nhưng chuyện lem nhem của các ông thì có liên quan gì đến chính quyền, miễn là tiếng nói của các ông vẫn theo một điệu nhạc đã sọan sẵn, bài bản được dàn dựng.



    Sau này, Đức cha Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội đồng Giám mục (HĐGM) Việt Nam đã trả lời phỏng vấn trên tờ Églises d’Asie là: “người Thiên Chúa giáo hết tin tưởng vào Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (UBĐKCG) và tờ báo Công giáo và Dân tộc”. Câu trả lời như thế có thể bị hiểu lầm là trước đây người ta vẫn tin, bây giờ mới hết tin.



    Thứ tư mồng 9 tháng 7, 1975, vẫn lại những phụ nữ có chồng đi học tập.


    Có một nhóm phụ nữ có chồng đi trình diện học tập cải tạo đã tụ tập trước dinh Độc Lập cũ. Họ đòi hỏi cho biết tin tức về chồng con của họ. Bộ đội đã đến giải tán. Có những tin đồn cho biết, có 4 xe nhà binh chở bọn họ bị giết trên đường đi. Chế độ càng bưng bít, tin đồn càng nhiều. Sự lo sợ càng lúc càng gia tăng. Người ta bắt đầu đặt ra nhiều dấu hỏi về số phận những người đi học tập này.



    Sau này, vào năm 1979, Việt Trần đã nhắc lại điều ấy trong cuốn sách của ông: J’ai choisi l’exil. nxb Seuil, 1979.



    Hai chị tôi cũng nằm trong số những người đàn bà bất hạnh trên. Anh rể tôi, một sĩ quan đại uý an ninh quân đội. Một thứ sĩ quan bàn giấy mà suốt đời chỉ là đại uý. Chưa hề bao giờ biết bắn súng. Vậy mà anh đi biền biệt ra Bắc hơn mười năm sau mới trở về. Chị lớn tôi, một nách 7 đứa con, hai đứa lớn nhất còn ngồi ghế đại học, đứa út chập chững vào trung học. Chị nhỏ cũng không thua, 6 đứa. Gia đình chị lớn trước đây sống bương chải nhờ có thêm hiệu hớt tóc ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Cuộc sống đạm bạc qua ngày, chắt chiu và hà tiện để nuôi các con ra người. Chị tôi cùng lắm là loại đàn bà đảm đang, khéo thu vén như nhiều người khác. Nhưng nay chồng đi học tập. Gánh nặng đè trên hai vai các chị. Bỗng chốc hai chị tôi trở thành những người đàn bà phi thường. Một chị buôn bán kem. Một chị xông xáo, hàng gì cũng buôn, buôn đủ thứ. Đã hai lần, hễ cứ buôn bán có tiền là “xuất cảng” quẳng mấy đứa nhỏ ra biển. Hết lớp này đến lớp kia như lên cơn dồng. Hai lớp đã quẳng chúng ra biển đều thoát và không bị hãm hiếp. Nỗi lo, nỗi mừng cứ như sóng dồi. Các chị tôi như mê, như say điên cuồng không còn biết sợ là gì. Tôi sang trước, năn nỉ, lạy van các chị đừng cho các cháu đi nữa. Vẫn đi. Đi là đi. Đi xong tất cả chừng nấy đứa thì chị nào chị nấy như cái khăn ướt vắt khô nước, cạn kiệt. Chị nhỏ tuổi gục xuống như cây chuối bị phạng ngang lưng như mẹ tôi trước đây, chưa kịp đi đoàn tụ. Bên này, tôi tức tưởi khóc lén một mình. Chị lớn vừa sang ít lâu, gục theo không kèn, không trống. Gục xuống vì công việc đã hoàn tất. Mission accomplie.



    In memoriam những dòng này cho hai chị tôi. Những người đàn bà bất hạnh trong một đất nước mà trời đất nổi cơn gió bụi, mà nước mắt như mưa sa, mà lòng người độc ác vô tận, mà hận oán như trời đất bao la.


    Dù sao thì các anh rể tôi cũng may mắn hơn nhiều người đi học tập khác. Tôi có người bạn, anh Nguyễn Thanh Ty, anh nguyên là giáo sư biệt phái nên phải đi học tập. Mới đây anh có viết một cuốn sách và gửi tặng cho tôi đọc: Trong lao tù, CS, Trại Đá Bàn và A.30. Mấy tháng sau ngày đi học tập, anh đã nhận được thư vợ viết như sau: Nếu những ngày tới, em không còn cách nào kiếm được gạo nuôi con nữa thì mẹ con em sẽ cùng uống thuốc chuột chết cho xong. Em và các con đã khổ quá rồi. Nỗi bất hạnh của anh không dừng ở đó, sau này anh biết vợ anh đã bỏ lại các con cho bà nội để tìm một bến đậu khác. Nào có thể trách ai bây giờ.

    Một trích dẫn cuối cùng. “Hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo thời bình, là người con gái ở miền quê Bầu Trai. Tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt” (Trích Người Bàu Trai. Tháng tư 2004.)



    Qua những câu truyện kể trên, hễ mà một chính quyền hảnh dân, làm dân khổ thì ta sẽ xếp hàng về phía những người cùng thân phận hay đứng về phía kẻ có quyền lực. Sự chọn lựa hẳn đã là rõ.



    Một cảnh đời khác đang vẽ ra…



    Trong khi đó thì theo tin hãng France-presse cho biết, ở Hà nội nay có nhiều xe Honda từ Sàigòn chạy trên đường phố. Xe gắn máy dần thế chỗ cho xe đạp. Một nếp sống mới đang thành hình. Người ta còn thấy nhiều loại nước uống sản xuất bởi hãng B.G.I cũng được bầy bán ở đây. Bát nước chè xanh nay thay thế bằng ly nước xã xị hiệu Con Cọp.



    Sàigòn thì như một thành phố bị chiếm đóng và có nạn hôi của những người thua cuộc để khuân về Hà nội. Nhiều nhất là salon, tủ lạnh, quạt máy, máy hát, vải vóc, thuốc tây và ngay cả bột giặt. Nghĩa là tất cả những gì ở Hà nội không có. Những chiếc xe nhà binh chở lính vào thì nay đầy nhóc những món hàng của kẻ thua cuộc để lại. Một cuộc vơ vét thẳng tay và khá trắng trợn.



    Hãng giấy Cogido có 8.000 tấn giấy trong kho đã được lệnh chuyển ra Bắc. Tất cả những xe hơi mới của hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco, có 165 xe được tân trang cũng chờ để được chở ra Bắc. Cách mạng bị mang tiếng nhiều về vấn đề này lắm. Những lời mỉa mai, bóng gió không thiếu qua cái câu chẳng thơm tho gì: Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng này.


    Hạt gạo miền Nam đã thiếu hụt nay lại phải cắn chia đôi, chia ba cho miền Bắc.



    11 tháng 7, 1975, Tướng Trần Văn Trà: Mắt xích cuối cùng của cánh miền Nam



    Tướng Trà , tác giả cuốn sách: Kết thúc chiến tranh 30 năm, bị gọi ra Bắc để trả lời và trình bày về những rối ren, về tình trạng an ninh và nhất là tình trạng tham nhũng hối lộ. Vai trò của ông và mặt trận có dấu hiệu không còn nữa.



    Cho đến lúc này, nạn tham nhũng trong thành phần cán bộ lãnh đạo, trong chính quyền bắt đâu lộ dạng. Và kể từ đó đến nay, sau gần 30 năm, không có dấu hiệu gì có sự cải tiến. Đã có bao nhiêu nghị quyết? đã có bao nhiêu lần tuyên bố cương quyết diệt trừ tham nhũng?



    Ở một nước Tự do thì người dân sẽ có cảm tưởng chính quyền coi thường dân chúng. Có thể thế được chăng? Có thể kéo dài mãi chăng?



    11 tháng 8, 1975, tờ Tin Sáng với nhóm cựu dân biểu đối lập thời VNCH



    Một tờ báo tư nhân đầu tiên đã được phép xuất bản. Tờ Tin Sáng mà một số người đứng đầu trước đây đều là những dân biểu đối lập trong chính quyền Ngụy. Đó là các ông Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Bình, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Phan Ba, Dương văn Tòng.



    Lý Quý Chung tin tưởng rằng với sự có mặt của tờ Tin Sáng cho thấy có sự hợp tác giữa chính quyền mới và những người trí thức chế độ cũ. Ông còn nói thêm, xưa làm báo như thể những người bửa củi, còn bây giờ làm báo như một người thợ nề xây cất.



    Theo những người chủ trương tờ báo, họ hãnh diện đây là tờ báo duy nhất không phải Cộng Sản trong lòng một chế độ Cộng Sản. Tờ báo tồn tại được bao lâu? Đó là câu hỏi chưa có câu trả lời. Trong le Nouvel Observateur, mồng 4 tháng 8, 1975, Jean Lacouture viết:



    “Ngô Công Đức n’est pas un conformiste. Le revoici à pied d’oeuvre. On verra dans la marge de liberté d!expression qui lui sera laissée un test décisif de L’esprit démocratique du nouveau régime”. Năm năm sau N. Chomsky trong Guerre en Asie viết: “Cinq années se sont passées. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et ses amis parait toujours. Le test est il positif?” Câu hỏi vẫn còn đó, câu trả lời thì có rồi.



    Sau này, ông Võ Văn Kiệt trong một bài phỏng vấn vào ngày 30 tháng 4 năm 1980 cũng coi Tin Sáng như một biểu tượng hợp tác giữa chính quyền CS và trí thức miền Nam.



    Nhưng chẳng bao lâu sau thì tờ Tin Sáng bị đóng cửa, vì “đã hoàn thành nhiệm vụ” (Tin sáng 1975-1980)


    Tờ Tin Sáng ăn mừng:



    Ông Hồ Ngọc Nhuận có ý tổ chức một bữa ăn “Đoàn Viên” trong nhóm bạn bè của ông, ở địa chỉ số 132, Lê Lai. Không biết ai trong số những người này đã thay chủ bút mời bữa ăn đó. Có thể là Nguyễn Xuân Lập, Trần Thị Huệ, Huỳnh Tấn Mẫm hay Dương Đầy. Chỉ biết là phường khóm không cho. Cuối cùng chỉ vì một bữa ăn mà phải cầu cứu đến ông Tạ Bá Tòng. Ông Tạ Bá Tòng lại xin ở cấp cao hơn nữa. Nhận được giấy phép ở cấp cao hơn nữa rồi mấy người lu bu, tụ tập đầy đủ ở trên lầu. Phường khóm đã vác súng đến hỏi chguyện. Năn nỉ mãi thì cũng được thông cảm, sau khi xin lỗi và hứa lần sau rút kinh nghiệm hơn. Ông chủ tịch phường khóm khi ra về không quên nhắc: “Nên nhớ, thủ tướng cũng phải xin phép, nếu muốn làm gì ở đây…”



    Thứ năm 7 tháng 8, 1975, Học Tập Không Ngày Về



    Nay đã hơn 7 tuần rồi, quá cái giới hạn đi học tập một tháng rồi. Chính quyền cho biết nay những người đi học tập có quyền gửi thư về nhà một tháng một lần. Lại một hứa hẹn nữa nhằm xoa dịu đám vợ sĩ quan ở nhà. Chính sách học tập cải tạo là một lãng phí nhân tài, sức lao động sản xuất và nhất là gây hận oán trong bà con, thân nhân người đi học tập. Việc kéo dài thời gian đi học tập một cách không cần thiết làm buồn lòng dân Sàigòn và tạo ra sự mất tin tưởng vào chế độ. Có ai có đủ thành thật để cho biết họ đã học được gì? và đã cải tạo được như thế nào? Vì vậy mà thành phần những người đi học, dù sau này đã được sang đây vẫn canh cánh bên lòng nỗi hận oán chế độ?



    Nhân khi đọc bài này, tôi có người bạn là anh Lê Tấn Lộc, giáo sư Triết, nguyên Trưởng Khu Học Chánh 12 tỉnh miền Đông. Với chức vụ đó, anh phải đi trình diện học tập cải tạo. Hai người bạn tù đã chết. Anh có kể rằng có một phái đoàn của Hội Ân xá quốc tế tới thăm trại học tập. Họ đã lùa các anh tù cải tạo vào trong rừng, chỉ để lại một số người làm cò mồi. Trong khi đó, trên tờ Tin Sáng, một trí thức tên tuổi có viết rằng: người đi học tập được ăn thịt gà rôti, nghĩ mát và chơi bóng chuyền. Vui và khỏe mạnh. Cũng ông, khi người con trai của ông làm nghĩa vụ sang đánh Campuchia.. Ông đã làm một bài thơ ca tụng những người thanh niên lý tưởng đã từ bỏ gia đình ra đi giúp nước. Sau này, một số trí thức, trong đó có ông, đã ký tên trong một danh sách biện hộ cho đường lối của chính quyền trong vấn đề tù cải tạo, vấn đề người di tản vv.



    Anh Lê Tấn Lộc có quyền bất nhẫn về chuyện đó như kẻ trong cuộc bị phản bội

    Xin nêu danh tánh một số trí thức miền Nam đã đặc biệt đứng tên ủng hộ chế độ mới, ủng hộ chính sách đi học tập cải tạo trong một lá thư gửi ra cho bạn bè người ngoại quốc. Họ không cần thanh minh với 3 triệu người VN di tản, mà chỉ biện bạch với người ngoại quốc thôi. Họ là Giáo sư Hồ đắc An. Ông Trương Bá Cần. Ông Võ Đình Cường. Thượng tọa Minh Châu. Nghệ sĩ Kim Cương. Dân biểu Lý Quý Chung. Bác sĩ Trần Văn Du. Nhà báo Ngô Công Đức. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà. Nhà văn Vũ Hạnh. Giáo sư Trần Vình Hiển. Ông Tôn Thất Dương Kỵ. Giáo sư Bùi Thị Lang, Luật sư Trần Ngọc Liễng, Thẩm phán Trần Thúc Linh, luật sư Nguyễn Long, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Châu Tâm Luân, sư Huỳnh Liên, ông Huỳnh Công Minh, Thẩm Phán Triệu Quốc Mạnh, giáo sư Nguyễn Vinh My, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Nguyễn Quang Nhạc, Giáo sư Chu phạm Ngọc Sơn, giáo sư Phạm Biểu Tâm, giáo sư Trần Kim Thạch, giáo sư Lê Văn Thới, Luật sư Ngô Bá Thành, giáo sư Lý Chánh Trung, ông Phan Khắc Từ, kỹ sư Lâm Văn Vạng, kỹ sư Đinh Xa.



    Trong số những người này, đôi khi có người bất đắc dĩ có tên. Họ cũng muối mặt câm lặng, cũng có thể khổ sở lắm. Nhưng phần tôi, cũng bất đắc dĩ phải hài tên họ ra vì trong tay tôi có tên tuổi họ và lá thư trên.



    Đây là nội dung mở đầu tóm tắt của lá thư đó: Nous, intellectuels de l’ancien sud Viet Nam, profondément indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du VN, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre”



    Và quan điểm của các trí thức có tên tuổi ở trên trùng hợp với quan điểm của một vài nhà báo: “Ces camps ne sont ni des clubs de vacances ni des Goulag”. Ý kiến của R. Pic, tháng tư 1976. J. Lacouture thì viết: “Ce n’est pas le Goulag apparemment- pas l’école des Roches non plus” tháng 5, 1976. Nói tóm một chữ: Chúng không phải những trại tập trung. Cũng không có cái bề ngoài của một trại diệt chủng. Đó là ý kiến của phóng viên đã đến thăm trại Nam Hà và đã gặp cựu đại tá Lê Thanh Hoà, cựu Trung Tướng Huỳnh Văn Cao, cựu nghị sĩ Ng. Văn Hàm.



    Họ, những người trí thức có tên ở trên đã tự hạ mình để nói gian dối che đậy cho chế độ.



    Phần tôi, xin được phép kiệm lời khi nói đến số phận người tù cải tạo. Bởi vì tôi không đủ tư cách, đủ lời để nói về điều ấy. Còn quá nhiều người mà nỗi khổ, nỗi nhục của họ không thể cất ra lời. Chẳng biết văn chương nào có thể chuyển tải những nỗi đau làm người của kẻ thua trận. Tôi cùng lắm chỉ đứng ngoài mà nhìn vào. Chỉ biết rằng khi tôi đọc: Một nửa Việt Nam Cộng Hoà nối dài của Tạ Chí Đại Trường nhắc đến đoạn: một người đàn bà ngồi trên xe ba bánh trên một đoạn đường đất đỏ, bụi mù. Xe vừa lướt qua thì thấy một đoàn người tù cải tạo đang lếch thếch trên đường về trại. Bà mủi lòng hất bao bố củ sắn xuống và những người tù xấu số đã chạy xô đến tranh dành như một lũ chó đói. Người đàn bà trên xe Lambretta ba bánh thấy cảnh đó bèn vội ôm mặt khóc. Tôi cũng chẳng làm gì khác hơn người đàn bà bất hạnh ấy.



    —————————–

    Thành lập Hội Trí thức yêu nước



    Bên cạnh việc cho Tin Sáng hoạt động trở lại, còn có một biến cố khá quan trọng không thể không nói đến ở đây: việc thành lập Hội Trí Thức yêu nước. Để có được cơ sở hoạt động, chính quyền đã lấy một cơ sở của các cha dòng Đa Minh. Đó là câu lạc bộ Phục Hưng mà trước đây dành cho sinh viên có chỗ ăn ở. Cư xá này do cha Đỗ Minh Vọng, Cras thiết lập từ 1955. Đây chẳng những là nơi dành cho SV có chỗ ăn ở, nó còn là chỗ sinh hoạt của các tổ chức sinh viên công giáo, nơi đào luyện các trí thức trẻ trước khi vào đời. Sau Giải Phóng, như nhiều tổ chức khác tự động tan rã. LM Nguyễn Huy Lịch thời đó đã cho mượn trụ sở này. Người đến tiếp nhận cư xá Sinh Viên là ông Tạ Bá Tòng, một người cư xử rất tốt với đám trí thức miền Nam. Ông Tạ Bá Tòng đã giao cơ sở này cho Hội Trí Thức yêu nước mà đại diện là các ông Chu Phạm Ngọc Sơn và Lý Chánh Trung.



    Tổng Thư Ký Hội trí thức yêu nước là ông Huỳnh Kim Báu, một đảng viên đảng Cộng Sản. Phần đông còn lại là trí thức cũ miền Nam, giới nhà văn và nhà giáo cộng với trí thức đi học tập về. Chẳng hạn như trường hợp Thế Uyên mới được thả ra từ trại học tập. Những người này đến Hội Trí thức như những người trú mưa dưới một cái dù che chắn cho khỏi ướt áo. Họ có mặt mà như thể vắng mặt, chìm lẩn vào đám đông.



    Trong số những trí thức cũ, có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ trước đó đã theo mặt trận hoặc có cảm tình với Mặt trận và lúc này họ nổi bật lên như Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Hà Thúc Huy, Nguyễn Đình Đầu, Trần Văn Quảng, Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Hoàng Hộ, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Biểu Tâm, Châu Tâm Luân, Nguyễn Tân, Nguyễn Hữu Thái, Trương Thìn, Phạm Trọng Cầu, Hỷ Khương, Hoàng Điệp, Trần Long Ẩn, Miên Đức Thắng, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Đỗ Hồng Ngọc.



    Sau này Hội có tổ chức những đêm văn nghệ hát nhạc TCS và được rất nhiều người đi nghe và tham dự. Thay vào tiếng hát Khánh Ly nay có nam ca sĩ Thanh Hải hát nhạc TCS. Nhiều người đi nghe cho rằng Thanh Hải có thể thay thế được tiếng hát của Khánh Ly.



    Trịnh Công Sơn trong đêm Văn Nghệ đầu tiên này đang bận ở Huế đã không vào được. Mãi đến năm 1979, TCS mới bỏ Huế vào Sàigòn. Nhưng anh đã có gửi hai bài hát của anh vào nhờ nhạc sĩ Miên Đức Thắng hát dùm. Hai bài hát của TCS có tên là:



    Gánh rau ra chợ và Máy kéo nông trường.



    Chị Trần Tuyết Hoa, vợ anh Nguyễn Hữu Thái trong dịp này đã khuyên TCS không nên sáng tác những loại nhạc như thế. Không biết Miên ĐứcThắng hát như thế nào và hát làm sao. Hát gánh rau ra chợ, hát máy kéo nông trường đã hẳn không phải là dễ. Tự nhiên MĐT lại gánh cái trách nhiệm nặng nề này. Đây là hai bài hát lỗi nhịp nhất trong cuộc đời sáng tác của họ Trịnh. Biết để mà hiểu, không phải để ghét. Bằng vào hai bản nhạc này, người ta tự hỏi TCS có còn là TCS nữa hay không.



    Thái Kim Lan, với bài: “Trịnh Công Sơn; nơi vùng ưu tư thành tiếng Du ca” đã viết như sau:” Cả một công trình sáng tác mười mấy năm đang bị đe dọa phải chối bỏ, kiểm soát, tự phê bình…Không có bàihát nào của Sơn trong quá khứ được cho lọt sổ. Nhạc Sơn bị cấm phổ biến..Tôi có cảm tưởng đau đớn là Sơn đang tập đi lại những bước nhạc ấu trĩ trong sự nghiệp sáng tác của mình, như kiểu kìa một đàn vịt đang bơi dưới ao hồ…” Sau này, tình hình khá hơn, chế độ lỏng tay hơn, TCS sáng tác được mấy bài khác đỡ hơn như Một hòn bi xanh, Ở trọ, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui… Hòn bi … xanh là có vấn đề rồi. Không có lập trường. Riêng bài Ở trọ, tôi nghĩ đấy chỉ là một bài hát rất tôn nghiêm. Tôi nay ở trọ trần gian, mưa nắng cũng ở trọ để rồi khoác áo chân như, bước tới hư vô. Bài hát rất người, rất tôn nghiêm, rất mùi đạo. Cuộc đời như một ở trọ. Đến bài Tôi chọn một niềm vui. Mỗi ngày, tôi chọn một niềm vui, cùng nhau ca hát.. Tôi chọn nơi này, để thấy tiếng cười rộn rã bay. Tôi chọn một lần thôi, tôi chọn nắng đầy.. Nhưng mổi ngày, tôi chọn ngồi thật yên để nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình, vì sao tôi sống, vì đất nước cần, một trái tim. Hay và ngậm ngùi. Nhưng lại bị hiểu xuyên tạc, bị phản bác là đất nước nay đã thống nhất, thiếu gì niềm vui, hà cớ gì anh lại phải chọn niềm vui. Cắc cớ nữa, tại sao anh lại chọn ngồi thật yên. Anh phải nhúc nhích di chớ. Hà cớ gì lại chọn ngồi thật yên.. Có vấn đề, có vấn đề rồi.



    Nhưng biết được hai bài này và những bài sau mới hiểu được thân phận người trí thức dưới chế dộ CS, hiểu đuợc nỗi lòng của họ Trịnh. Cũng như sau này, tôi được biết rằng, họ Trịnh than thở với một người bạn thân của mình là làm bài kiểm thảo đưa cho Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) xem trước, HPNT đọc xong cũng chê là viết chưa đạt yêu cầu, phải viết lại. HPNT đang cố lấy điểm để có được cái thẻ đảng. Tôi vẫn bực ông chưa hết và tôi biết rằng viết những dòng này những bạn bè chung quanh ông mà tôi dược biết họ, một số sẽ không vui. Nhưng tôi đành lòng trích một bài viết của tôi vào tháng 12, 2002: Về chính sách của Hànội và thái độ của một số nhà văn miền Bắc đối với văn học miền Nam qua cuốn Chân Dung Và Tác Phẩm của Trần Đăng Khoa: “Trong cuốn ký, chốc lát, thái độ của ông trở thành hung hãn, côn đồ. Ông xách mé gọi người lính Cộng Hoà là thằng lính Ngụy, thằng Diệm, thằng Thiệu. Những người CS thứ thiệt gọi như vậy còn nghe được. Nhưng ông, một trí thức miền Nam, được ăn học, được đào tạo, có cái nếp sống văn hoá của miền Nam, thật khó mà chấp nhận cái ngôn ngữ chợ cá như vậy. Chắc không phải là ông quá.”. Ông vẫn chứng nào tật ấy, trên Nét Cố Đô, 2005, vào cái giờ này của hơn 30 năm sau, qua lời phỏng vấn cò mồi của Nguyễn Xuân Hoàng (Không phải NXH, giáo sư triết, nhà văn) ông cũng vẫn miệt thị gọi: bọn ngụy. Bọn ngụy là ai. Là tất cả bạn bè của ông, là tất cả họ hàng, bà con thân thuộc của ông ở ngoài Huế.



    Đấy là nỗi khốn khổ thứ hai của họ Trịnh bị bạn bè ép. Ép mà phải cắn răng chịu.

    Viết đến đây, tôi có điều để thưa. Trước hết cám ơn anh chị Nguyễn Hữu Thái, cựu sv kiến trúc, cựu sv tranh đấu Sàigòn cũ, người đã có cái hân hạnh đứng… bên cạnh tướng Dương Văn Minh, ký giấy đầu hàng CS. Mặc dầu, tôi đã có đôi lần viết hơi nặng lời với anh, anh vẫn không giận, vẫn hỏi thăm rồi gửi cho tôi bài viết của chị Trần Tuyết Hoa, vợ anh và chị đã thẳng thắn tiết lộ hai bài hát sáng tác bất hủ của họ Trịnh. Xin dùng mấy dòng chữ này cám ơn anh chị thay độc giả.

    Phần những người được coi là bạn thân của họ Trịnh. Nhiều người chẳng hề tiết lộ hai bài hát này và những bài sau kế tiếp. Ngay cả mới đây, những người viết kỷ niệm 5 năm ngày TCS mất cũng né tránh. Viết thật mới là yêu mến TCS. Ở trong chế độ CS, đừng ai nói hay. Làm người bình thường đã là khó. Huống chi là người hùng.



    10 năm sau, Hội Trí thức yêu nước này kể như không còn sinh hoạt gì đáng kể nữa. Một phần người ta lo sinh kế, lo tìm đường đi nước ngoài. Phần khác cán bộ đảng nhà nước ngoài Bắc vào nhiều. “Sự có mặt của họ kể như những thành phần Indésirable”.



    Trong số những hội viên hội trí thức yêu nước có Nguyễn Văn Trung. Ông chưa tham dự được bao nhiêu buổi hội họp thì đã bị bắt vào hồi 18 giờ 30, ngày 14 tháng 6, 1978. Với tội danh được ghi trong biên bản: can tội Phản Cách mạng. Biên bản ghi tiếp. Sau khi bị can bị bắt, vợ của bị can là Trần Thị Minh Chi đã cùng đi với chúng tôi khám xét nhà ở thì thấy có những vật kê dưới đây, nghi có liên can đến vụ án (19. tội phản cách mạng):



    – Một giấy chứng nhận của trường Đại Học Văn Khoa.

    – Một số sách báo, tài liệu cắt báo và chép tay

    – Một máy đánh chữ

    – Một chứng nhận được giữ sách báo cũ.



    Trên đây là những tang vật liên quan đến tội phản cách mạng. Tôi cũng đọc lá thư của Bà Chi gửi vào cho chồng, đã qua kiểm duyệt của Ban Chấp pháp như sau: “Về tả bố, chẳng khác nào như trong truyện được săn sóc nuôi cho ăn uống mập thiệt là mập, trước ở nhà xanh vàng, mặt có những vết nhăn. Bây giờ thấy tròn quay, những vết nhăn biến đâu, trắng..



    Bà Trung đã phải viết như thế đấy. Không viết không được. Viết như thế rồi cũng lộ ra những chỗ viết thật thà trong một lá thư khác như: Lưng quần tây của anh rộng nhờ ai khâu bớt vào hai bên.



    Và trong hoàn cảnh cô đơn, tuyệt vọng như thế. Ông Trung có lúc tưởng mình không có hy vọng sống còn. Ông đã viết một lá thư như chúc thư để lại ngày 26-11-1978 trong đó có đoạn như sau: “Đối với họ hàng. Cho Bố gửi lời thăm chào từ biệt họ hàng nội ngoại. Xin tha cho Bố những điều đã làm mất lòng và xin hãy thương yêu giúp đỡ nhau, coi những tỵ hiềm là nhỏ mọn. Gia đình Đào chịu khó tiếp tục chăm sóc ông nội. Đối với bạn bè quen thuộc. Chuyển lời Bố xin mọi ngưởi tha thứ những điều đã làm cho buồn phiền và cầu nguyện cho Bố.” Nguyễn Văn Trung 26-11- 1978.



    Xin đọc với tâm tình chia xẻ về cái khốn khổ trong lao tù Cộng Sản.



    Và đến gnày 21 tháng 12 năm 1978. Ông Trung nhận được giấy tạm tha với nội dung: Căn cứ kết quả cuộc điều tra. Không ghi chữ nào cả. Xét thấy: Sức khoẻ bị can quá yếu (bệnh tim)… Trong khi chờ kết quả cuộc điều tra và quyết dịnh di lý.. Ký tên. TL Giám Đốc Công An, Trưởng phòng chấp pháp: Ngô Văn Dần.



    Tội vẫn còn đó. Vẫn thế. Chỉ tạm tha thôi.



    Cả hai Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung đều là trí thức thành phần thư ba. Viết cũng nhiều, ảnh hưởng cũng không ít. Ngưởi tham gia tích cực bằng hành động, người tham gia chỉ bằng ngòi bút. Một dân biểu, một đi tù. Tôi chỉ xin tóm tắt sự nghiệp của các ông bằng cách trích dẫn điều họ viết.



    – Đối với Lý Chánh Trung, sự nghiệp viết lách của ông tóm tắt trong câu này: “Về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học”.


    – Đối với Nguyễn Văn Trung, có thể tóm tắt trong lời phát biểu sau đây của ông: “Tham gia Cách Mạng là tham gia vào một quá trình tự tiêu diệt sau này”.



    Về cái hội này, xét về mặt nhân đạo, nó cũng là nơi che dù cho nhiều trí thức miền Nam sau khi đi học tập về khỏi cảnh vùi dập đi kinh tế mới, hoặc khỏi bị phường khóm làm khó dễ, hoặc đỡ đần bao gạo khi túng đói. Sau này, hội trí thức giải tán và dổi ra thành Hội Liên Hiệp Khoa Học Kỹ thuật do Chu Phạm Ngọc Sơn làm chủ tịch. Hội này hoạt động bằng cách mở các lớp dạy sinh ngữ và các sinh hoạt khoa học kỹ thuật. Cuối cùng, dòng Đa Minh đã làm đơn đòi lại cơ sở này qua TGM Bình chỉ hai tháng trước khi ngài qua đời. Sau nhiều năm chờ đợi, nhà nước đã trả lại cơ sở này cho dòng Đa Minh ngày 22-12-2003.



    Coi như một món quà Noel của nhà nước.



    Thứ năm 14 tháng 8-1975



    Có lẽ cái đụng chạm đến người dân miền Nam nhiều nhất vẫn là miếng ăn.



    Cơm áo không biết đùa và không đùa với bất kỳ ai, bất kỳ họ là trẻ con hay người lớn. Sống trước đã, có cái ăn trước đã. Không có ăn là không được.



    Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn, cái gì cũng trở thành khan hiếm, dĩ chí từ một hạt muối, thìa bột ngọt. Các giáo chức được phát một kỳ một gói bột ngọt, sau xuống mười thìa cà phê bột ngọt, nửa ký thịt trong một tháng, một tút thuốc lá (10 bao), sau xuống một bao rồi đến nửa bao Sàigòn Giải Phóng. Tôi nghiện thuốc lá, nhưng nay một bao thuốc lá mua hợp tác xã bán ra có thể thêm tiền chợ một ngày. Tôi bỏ hút thuốc lá từ đó.



    Nhờ Giải phóng, tôi bỏ được tật xấu hút thuốc.



    Giá thức phẩm gia tăng. Cái gì cũng khan hiếm đến không hiểu được. Muối là một sản phẩnm quá rẻ, không đáng nói tới cũng trở thành đắt. Một kílô muối tăng từ 50 đồng đến 500 đồng. Một bao quẹt tăng từ 20 đồng đến 40 đồng.. Giá cả tăng đến 80%. Dân chúng bắt đầu phải xếp hàng để đến các hợp tác xã. Đợi chờ cả nửa ngày cho nửa ký sà bông, nửa ký đường. Có những điều trước đây cứ có tiền là mua được, nay trở thành chế độ, xin cho của chính quyền. Chính quyền cho cái gì thì được cái nấy. Nghĩ lại câu nói của một kinh tế Gia Anh nói không sai:”Kẻ nào nắm giữ hầu bao là kẻ đó có quyền”.



    Gạo bán ở tổ dân phố không ăn được. Hoặc mốc, muối mọt, hoặc có rất nhiều sạn. Chúng tôi bán đi để mua gạo ăn được. Nay tôi có thêm nghề chạy kiếm các mối bán thực phẩm. Lúc rảnh, tôi chạy xe Vespa ra tận Phú Lâm đón các xe hàng về để mua gạo lậu từ các bà buôn lậu. Họ dấu gạo ở bất cứ chỗ nào có thể dấu được, ngay cả chỗ kín bụng dưới. Đó là những xe thồ di động nơi những người đàn bà dị hình, dị tướng.



    Cả nước nay chỉ lo có một chuyện: Lo ăn.



    Về lỗi lầm lịch sử của chính quyền Cộng Sản để dân đói, xin được trích dẫn lới chứng của ông Trần Quang Cơ, trong Hồi ức như sau: “Là nhân chứng của lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc mỹ bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi Nữu Ước 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình…” Trong tập hồi ký của mình “From Third world to first”, Từ thế giới thứ ba đến thế giới thứ nnhất, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975, TP Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay, năm 1992, nó tụt lại đằng sau tới 20 năm.” Là người Việt Nam, đọc lời nhận xét này của Thủ Tướng Lý Quang Diệu, ai mà không đau xót, vì Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội. Chính quyền Carter thực sự muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam qua lời tuyên bố của ngoại trưởng Cyrus Vance: “Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ-Việt Nam phù hợp với lợi ích của hai nước.”



    Nhưng Việt Nam cương quyết đòi Mỹ giải quyết “trọn gói” 3 vấn đề. Bình thường hóa quan hệ ngoại giao, giải quyết vấn đề MIA và viện trợ 3 tỉ 2 như đã hứa. Mỹ bị quốc Hội bó tay trong vấn đề bồi thường. Đến lúc ta quyết định rút bỏ đòi hỏi Mỹ phải bồi thường chiến tranh viện trợ 3,2 tỉ và nhận công thức, “bình thường hóa quan hệ không điều kiện của Mỹ thì đã quá muộn”.



    Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối Asean, mãi ngót 20 năm sau, 1955, ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. Nếu chấp nhận bình thường hoá với Mỹ thì ta đã có thể Không phảỉ một mình đối đầu với Trung Quốc trong cái chiến tranh “dạy cho một bài học”



    Đó là cuộc sống bất đắc dĩ.



    Ở một góc cạnh khác của đời sống, xin kể là tôi có người bạn là anh Đặng Ngọc Thiềm, giáo sư trường Trần Lục. Không biết có phải vì phẫn chí, vì bất mãn hay có thể bị điên mà anh đã ra nông nỡi này.



    Anh có lối sống mà tự bản thân đời sống nó là một lời tố cáo chế độ mới. Đời sống của anh là gián tiếp bôi nhọ chế độ: Chính các anh làm tôi ra nông nỗi này. Từ quần áo dơ bẩn, lôi thôi, từ phong cách thái độ, từ cách ứng xử, từ cách phát ngôn, từ cách thức làm việc, từ chiếc xe đạp cà rịch cà tàng, từ cách cho điểm, từ cách giảng dạy, từ nụ cười châm biếm chế nhạo.



    Đến nỗi nhìn qua anh, nhìn ra chế độ. Anh chính là chế độ ấy.



    Anh cố tình ăn mặc dơ dáy đến hôi hám, đến bẩn thỉu. Một giáo sư tự trọng, dù nghèo không thể ăn mặc như thế trước mặt học trò. Mỗi lần lĩnh nửa cân thịt, anh treo tòng teng ở ghi đông xe cho mọi người thấy. Anh để lên bàn giáo sư cho học sinh thấy. Anh dơ lên khoe với học trò anh được nửa kí thịt. Học trò im lặng nghe ông thầy làm xiếc, đóng kịch. Anh luôn luôn dùng đủ cách để khen chế độ đến lố bịch.



    Anh tố cáo chế độ chỉ bằng những lời khen quá lố. Thông minh và xỏ lá.



    Ban Giám hiệu là cấp lãnh đạo ở ngoài vào cũng như trên Quận, Sở đều không có một lời phê phán trực tiếp hay gián tiếp về anh. Họ cư xử thật đúng mực. Bình thường là phải để anh nghỉ việc.



    Việc dạy học và cho điểm của anh cực kỳ phi lý và lố bịch. Cột điểm Sử địa của anh bao giờ cũng có ba cột điểm trong một tháng. Hãy coi bằng cách nào anh đã nghĩ ra lối cho điểm quái gở đến như thế. Tỉ dụ học sinh A: Anh cho 3 cột 9 điểm, 8 điểm và 7 điểm. Học sinh B, anh đổi vị trì điểm theo thứ tự như: 8 rồi 7, 9. Học sinh C là 7,8,9. Học sinh D là 7,9,8, E là 8,9,7. G là 9,7,8. Rồi anh cứ cho điểm xoay tua như thế.



    Anh không chấm bài, anh không cho điểm hay cho điểm đồng loạt là một cách miệt thị nền giáo dục ấy.



    Anh Hiệu trưởng xem và không nói gì cả? Việc cho điểm của anh rõ ràng ngầm ngụ ý không đánh giá học trò, không đánh giá việc dạy học, phủ nhận vai trò thầy giáo và phủ nhận luôn việc dạy học.



    Đây là một thứ phản đối tối thượng (Ultimate protest). Mang chính bản thân mình ra làm đối tượng diễu cợt.?



    Nếu không có cuộc đổi đời, anh Thiềm sẽ là một giáo sư như thế nào? Trước đây, anh trịnh trọng, áo sơ mi là ủi dài tay, thắt cà vạt, dáng người to lớn, dềnh dàng, không thiếu trịnh trọng trong đi đứng, ăn nói, xử thế. Vài ba năm sau, tôi ra khỏi nước, được tin anh đã mất.



    Tiếc cho một người tính tình lúc nào cũng vui cười với óc hài ước rất cao đã tìm cách tự hủy nhân cách mình dần dần một cách cố ý. (Suicide prolongé et intentionnel ) Cố ý tự hủy, cố ý sa đọa hoá nhân cách và con người như thể không còn là con người nữa.



    Đó là lối tự hủy của người có học, của trí thức bầy tỏ một nhân cách lộn ngược, bất cần đời thường thấy nơi một số nhà văn, nhà trí thức, người hiểu đời, hiểu thế sự…



    Thứ sáu 15 tháng 8-1975, giám mục Seitz, địa phận Kontum-Pleiku bị trục xuất khỏi Việt Nam



    GM Seitz cùng với 9 người khác gồm 6 linh mục và ba nữ tu đã bị trục xuất khỏi VN. Các tu sĩ trên đã bị quản thúc tử tháng 3-1975 ở trên cao nguyên. Vài ngày trước đấy, họ được lệnh dời khỏi cao nguyên. Sau khi bộ đội lục soát hành lý của họ, họ được chở bằng xe che mui kín về Sàigòn và giam giữ ở khách sạn Caravelle, sau đó được dẫn ra phi trường. Đừng quên là sau này vào ngày 7-7-1976, những linh mục dòng tên cuối cùng cũng đã dời Việt Nam (gồm hai Pháp, 2 Y Pha Nho, một Gia Nã Đại và một Ý). Dòng tên còn lại khoảng 30 lm người Việt Nam.



    Một số người Pháp vẫn tưởng rằng họ được chính quyền mới ưu đãi hơn các người ngoại quốc khác. Thực tế không phải vậy. Giám đốc đồn điền IPH và Chủ nhân hãng Michelin cũng phải cuốn gói. Chẳng những mất tài sản mà chính phủ Pháp qua đại diện còn phải đứng ra bảo lãnh những món thuế còn thiếu của các công ty này. Giám đốc CARIC cũng được phép dời VN để tìm sự trợ giúp tài chánh nơi chính phủ Pháp cho những công trình đóng tầu biển. Nói chung, các công ty này tự dâng hiến toàn bộ cơ sở vật chất, tài sản bất động sản mà vẫn còn nợ thuế chưa trả được.



    Khi về lại Pháp, GM Kim có viết một cuốn sách nhan đề: “Le temps des chiens muets” (Thời của những con chó câm). Ông viết: “Les chiens muets, ce sont ceux qui ont peur de dire la vérité, qui n’osent pas aboyer” (Những con chó câm là những con chó sợ nói sự thật và không dám sủa).



    Xin trích bản thông cáo lý do trục xuất các người ngoại quốc như sau: Communiqué du service d!information et de la culture de la province de Kontum.

    Les étrangers qui viennent d!être expulsés le 12 aôut 1975 et dont les noms suivent: Paul Seitz. André Marty. Léon Dujon. Marcel Arnould. Josep Curient. Gabriel Brice. Olivier Deschamps. Edirc Baker. George Christian. Raphaelle Cormier. Marie-Renée Legal. Cécile de Boissy ont commis des crimes suivants:

    Họ phạm 8 tội tất cả. Tội nào cũng đáng lãnh án chung thân hay tử hình như trong bản thông cáo nói: crimes qui méritent l!emprisonnement et la peine de mort. Vậy mà họ chỉ bị trục xuất mà còn bất mãn phản đối đòi ở lại.



    Tội nặng như thế, trục xuất là phải rồi.



    Phần tôi, tôi chỉ mong muốn thay thế chỗ của Paul Seitz để được trục xuất sang nước Pháp mà không được.

    ———————



    Số phận Tổng Giám Mục (TGM) Thuận đã được an bài



    Cũng trong ngày 15 tháng 8 này, Phó TGM Nguyễn Văn Thuận rời thành phố Sài Gòn đi tù suốt 13 năm. Sau này, một trong số những người chống đối việc bổ nhiệm của Đức Cha (ĐC) Thuận như ông Nguyễn Văn Chín, đại diện phong trào Công giáo Dân tộc và là LM Thanh Lãng (TL) đã viết lời xin lỗi trong một lá thư di chúc vào ngày 28/11/1988 như sau: Tôi xin công khai sám hối với Chúa và Hội Thánh Toàn cầu và VN. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con mọi lầm lẫn và ban cho con lòng tin lòng trông cậy và ơn tha thứ. Tôi xin công khai sám hối xin lỗi đức Cha Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa gìn giữ và trả công cho đức Cha.



    Ngày 28 tháng 11/1988. Đinh Xuân Nguyên, Thanh Lãng (TL). LM TL sau đó qua đời ngày 17/12/1988.



    Về cái chết của TL, có dư luận nghi ngờ vì có sự ám toán mờ ám. TL có viết gửi nhà nước một thư ngỏ để bênh vực quan điểm của giáo hội về việc phong thánh. Bức thư được in ra nhiều bản chuyền tay nhiều người. Có một số sinh viên (SV) văn khoa đến xin được gửi bức thư ra Hải ngoại để được phổ biến rộng rãi. Ông đã tiếp họ trong trạng thái bình thường và vui vẻ. Thế rồi Công an quận Tân Bình mời lên gặp và qua ngày hôm sau, ông bị trúng gió và qua đời trong sự bán tin bán nghi của nhiều người.



    Cũng trong cái tinh thần xám hối ấy mà sau này vào tháng 8/1988, một nhóm LM và giáo dân đã họp ở trụ sở báo ĐMHCG thuộc dòng Chúa Cứu Thế (CCT) soạn thảo hai bức thư, một gửi cho TGM Nguyễn Văn Bình, một gửi cho HĐGMVN vào ngày 15/8/1989 để yêu cầu đòi can thiệp cho TGM Thuận trở lại Sài Gòn.



    Hai lần họp. Hồi 1975 tụ tập ở toà khâm sứ và toà TGM đòi trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận để ủng hộ chính quyền. 12 năm sau, tụ họp đòi cho TGM Thuận trở về, chính thức chống đối chính quyền.



    Ngày 16 tháng 8/1975, một lá thư chung của Toà Giám Mục… ra quá chậm



    Giáo hội thường được gọi là thầm lặng miền Bắc do Tổng Giám Mục (TGM) Trịnh Như Khuê đợi đến hơn 3 tháng sau, hôm nay mới chính thức ra thông tư, mà nội dung hoàn toàn đạo giáo, không nhắc gì đến ngày 30 tháng tư cả. Người ký thay Giám mục là LM Trần văn Mai.



    Nội dung lá thư có những câu như: “cố gắng làm người công giáo tốt, người công dân tốt. Công giáo tốt thì cầu nguyện cho họ chóng được lên Thiên đàng, công dân tốt thì mừng Quốc khánh cách long trọng.”



    Giọng điệu không có gì là hồ hởi, lại còn có vẻ lờ đi cái ngày trọng đại thống nhất 30 tháng tư nữa.



    Trong khi đó lá thư trong Nam của cha Đức Cha (ĐC) Bình đề ngày 2/9/75 có những đoạn: “trong lòng của tín hữu, cõi trần gian và cõi trời không còn cách biệt, không còn phân ly, nhưng đã hoà đồng và vươn lên mãi dưới sức tác sinh của Thánh Thần Thiên Chúa. Sống niềm tin ấy trong những ngày lịch sử này của dân tộc, chúng ta không còn lý do gì để không vui mừng đón nhận những giá trị của Cách Mạng.”



    Hai lá thư chung của hai TGM ở vào hai thời điểm khác nhau cho biết thái độ của họ đối với chính quyền như thế nào.



    Hơn 20 năm sau sống dưới chế độ được mệnh danh là “giáo hội thầm lặng”, hình như những vị lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc vẫn chưa nuốt nổi món ăn CS và mối quan ngại đối với chính quyền Cộng sản vẫn còn.



    Vì thế, không lạ gì cuộc an táng ĐC Bình, khác hẳn cuộc an táng của Hồng Y Trịnh Như Khuê. Đám tang TGM Bình vào ngày 3/7/1995 được tổ chức trọng thể. Báo Sài Gòn Giải Phóng (SGGP) ra ngày 4/7/1975 cho biết rõ tên tuổi một số cơ quan và nhân vật tham dự. Đặt vòng hoa có: Ông Đỗ Mười, Tổng Bí Thư, ĐCSVN. Ông Lê Đức Anh chủ tịch nước CHXHCNVN. Ông Nông Đức Mạnh, chủ tịch Quốc Hội. Đến viếng có ông Nguyễn Văn Linh, Võ văn Kiệt và các Đoàn Đại biểu Uỷ ban Trung ương Mặt Trậ.n Tổ Quốc (UBTUMTTQ). Đoàn Đại biểu Dân Vận trung ương, Đoàn Đại biểu thành uỷ, Hội Đồng nhân dân TPHCM vv..

    Cáo phó đăng hai lần liên tiếp trên tờ SGGP vào ngày mùng 2 và 3, tháng 7, trên trang nhất, góc dưới bên phải, chỗ thường chỉ để dành riêng cho các lãnh tụ Đảng và nhà nước từ trần mà thôi.



    Và đây là một vài lời chia buồn của các viên chức nhà nước. Ông Lê Khắc Bình chủ tịch UBMTTQ Tp HCM ghi: “Vĩnh biệt cụ TGM Phao Lồ Nguyễn Văn Bình, đã góp phần vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân”. Ông Võ Trần Chí, bí thư thành uỷ dẫn đầu đã ghi vào sổ tang: “Vô cùng thương tiếc cụ Phao Lồ Nguyễn Văn Bình, TGM giáo phận tp. HCM đã tận tụy suốt đời kính Chúa yêu nước, góp phần vào sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc” Trong khi đo thì ông Trần Bạch Đằng nói lén nhân một buổi hội nghị, TGM Bình là một ông cù lần nhất trong ba ông cù lần.



    Có lẽ lời nhận xét trung thực nhất là cụ Bình là người luôn luôn chịu đựng, đứng mũi chịu sào và đồng thờĩ vừa phải tìm cách hợp tác với chính quyền mới.



    Nhưng chẳng nên nhìn mấy cái bề ngoài phô trương của đảng này để xét đoán con người. Hãy nhớ lại những lời phát biểu của TGM trước khi chết như một chúc thư cho người ở lại qua lời phỏng vấn của Trần Bá Cường: ‘Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người’. Hiểu câu này như một lời trối trăn để hiểu nỗi khổ tâm của một người chủ chiên ở trong một hoàn cảnh đất nước đã phải cam chịu trong 20 năm qua.



    Thứ ba, ngày 19 tháng 8/1975, những món quà ý nghĩa



    Ngày kỷ niệm nắm chính quyền của Việt Minh vào năm 1945. Chính quyền đã gửi đến cấp lãnh đạo Thiên Chúa giáo bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của người có đạo. Nhưng người ta cũng chưa quên được việc trục xuất mới đây GM Kim và các thừa sai người Pháp.



    Món quà thứ hai cho dân thành phố là việc phóng thích 200 người trong các trại học tập cải tạo. Con số quá ít ỏi, nhưng cũng cấy được một chút hy vọng mỏng manh nơi các gia đình có người thân còn trong trại học tập cải tạo. Niềm tin đó đã kéo dài lê thê trong nhiều năm sắp tới.



    Món quà thứ ba đến từ Liên Xô. Một tầu dầu của Liên Xô đã cập bến Sài Gòn mang theo 31 vạn tấn dầu.



    Trong những món quà khác, Hội Hồng Thập (HTT) Tự Quốc Tế đã gửi bằng đường biển đến VN thuốc men, dụng cụ y khoa. Điều đặc biệt là Hội Hồng Thập tự đã nhận được một giấy đòi thuế cho những món quà tặng đó. Số tiền là 36 vạn đô la mà Hội HTT phải trả. Hai bên đã thương lượng rất nhiều lần mới đi đến được thỏa thuận. Quà đã tới, đã trao làm sao thu hồi lại được. Vấn đề là làm sao trả bớt thuế. Cho quà mà còn phải đóng thuế, họa chăng chỉ có người VN.



    Rút kinh nghiệm quà phải đóng thuế, cho phải trả tiền, một chuyến tầu khác của Hội Hồng Thập Tự đang trên đường đến VN đã được lệnh đổi hướng đến một nước khác biết điều hơn.



    Thứ ba 26 tháng 8/1975, tờ Tin Sáng loan tin



    Tin ở đây là chính quyền đã kiểm soát và làm chủ đến 70% các cơ sở xí nghiệp ở miền Nam. Trong đó có hãng Denis Frères của Pháp. Nhân công sau đó bị cho nghỉ việc mà không được bồi thưởng một đồng xu nào.



    Các ngân hàng tư là những nạn nhân đầu tiên. Tiền bạc, tài sản đều đuợc chuyển giao về Ngân hàng Quốc Gia



    Ngoài việc chiếm các cơ sở thương mại, các cán bộ cao cấp chính quyền mới còn chiếm các biệt thự, các dinh thự cũng như các tài sản ở trong đó. Mặc dầu có thông cáo ra lệnh:không có bất cứ tổ chức nào, không có bất cứ đơn vị quân đội nào có quyền trục xuất những người ở trong các biệt thự đó cũng như tịch thu tài sản của họ.



    Có lẽ cùng lắm chỉ có dinh thự của ông Hannon, giám đốc CARIC là không ai đụng tới. Cũng vì vậy, chẳng mấy chốc mà những cán bộ cao cấp trong đảng trở thành triệu phú như ông Lu nhận xét. Ông Lu His-Ying, môt thương gia tiếng tăm và có thế lực của người Tàu, một người theo chủ nghĩa Mao cười nói rằng Trung Quốc rất chú ý đến ý nghĩa cuộc chiến thắng này, đồng thời đến số phận những người Trung Hoa như ông hiện nay. Có tất cả 1 triệu rưởi người Trung Hoa như ông Lu và đó là con số đáng kể. Sau đó, ông cho rằng những người của Hà nội ông có thể mua được dễ dàng. Lại cười.



    Cái cười của người Trung Quốc.



    Lời nói tiên tri của ông Lu phải chăng mở đầu cho một cơ cấu chính quyền tham nhũng như hiện nay.



    Trong khi đó báo chí tuyên truyền, rỉ rả cho ngày lễ Độc Lập sắp tới. Để chuẩn bị cho ngày đó, 1000 nhà sư đã tụ tập đến rạp Rex vào ngày 27 tháng tám để học tập. Ngày hôm sau, cũng khoảng con số như thế những tu si Ki Tô giáo đến rạp này cũng để học tập.



    Các nhà sư, các ông cha quen làm thày dạy người khác, quen giảng, quen thuyết pháp. Lần đầu tiên trong đời, họ trở thành những cụ, những quý vị LM, tu sĩ, những quý vị Thượng Tọa, đại đức trở thành các tỳ kheo, các học trò ngoan ngoãn như học trò nghe người khác dạy.



    Nào trước đây ai đã dạy được các cha, các thày, các thuợng toạ, đại đức. Gớm thay cho người Cộng Sản.



    Đó là những buổi học tập bất đắc dĩ để mừng một ngày lễ. Kể từ dây, hễ có lễ lạc là phải học tập. Bất đắc dĩ phải nghe, bất đắc dĩ để mừng.



    Thứ bảy 30 tháng 8/1975, câu chuyện về các nhân vật chế độ cũ



    Ông Trương Vĩnh Lễ (TVL), nguyên chủ tịch Quốc Hội VNCH thời đệ nhất, chủ nhân nhà in Sài gòn ấn quán. Hồi còn chế độ Ngô Đình Diệm, mỗi lần có dịp lễ lạc gì trên Viện Đại Học Đà Lạt, tôi đều nhận thấy ông có mặt. Có thể, ông đã không thiếu một buổi nào. Trông ông hiền lành như ma sơ. Một người như ông, hiền lành như bụt, chắc làm chính trị là phải. Ông có cả hai cái hiền đó cộng lại. Về sau này, những Trương Công Cừu, Trần Văn Lắm chỉ có cái giả vờ hiền. Thua ông Lễ nhiều lắm. Trong những buổi lễ như thế, tôi cứ chú mục nhìn ba người, nhìn ông Lễ, nhìn ông Diệm rồi sau đó đó lại liếc sang nhìn ông Nhu. Thật chả giống nhau tý nào. Ông Nhu có cái nhìn xa vắng, tiết ra cái oai dễ sợ lắm, ngồi đó mà nghĩ đâu đâu, không nhếch mép một nụ cười. Không thèm chú mục tới bất cứ ai. Không để ý tới những bài diễn văn, những lời chúc tụng chung quanh mình. Ông Diệm dễ mỉm cười, hơi tý đỏ mặt, có vẻ người bề ngoài là người phúc hậu, dễ gần, dễ cởi mở. Sau này, dư luận nói ông ác lắm, tôi cũng không tin. Ông Lễ thì khép nép từ tốn, chắp tay cúi đầu khi lên chịu mình thánh Chúa. Ông Diệm không còn là một Tổng Thống, mà là một ông cha. Còn ông TVL, không còn là chủ tịch QH, mà là một con chiên.



    Từ đó, tôi đã biết chọn, ai trong ba người là người làm chính trị. Tự thâm tâm, tôi đâm mê ông Nhu, tôi để ý cái lối ngồi bất động, bộ áo vét hơi nhầu nát, chểnh mảng, mái tóc hoa râm, cứng, thưa và hơi biếng chải, làn da mặt đồi mồi hơi xạm tối, cái vóc dáng trí thức khác người, hơn người của ông. Tôi không lần nào thấy bà Nhu ngồi gần, hay bà ngồi đâu xa xa, lẩn vào đám đông. Chỉ có vậy mà tôi đã nhớ ông suốt đời. Sau này, tôi có nguời bạn là NTV cũng nhắc lại một tâm trạng giống y như tôi… chúng tôi đều chỉ ngồi nhìn ngắm ông Nhu.



    Kể từ đó, tôi không thấy khuôn mặt chính trị nào đáng nể nữa. Nhưng nhắc tới ông Nhu là nhớ tới ông Lễ như một phụ bản. Tôi nhớ đến ông TVL là vì thế. Nay nhà in và toàn bộ máy móc của ông đã bị trưng thu kể từ tháng 7. Được tin ông bị bắt cùng với toàn thể gia đình vì có ý định trốn đi ra nước ngoài.



    Tự nhiên, cả một quá khứ quay trở về. Tôi nhìn ra chỗ ngồi của ông TVL bên cạnh TT Ngô Đình Diệm và cuối hàng ghế đầu, phía tay trái, chỉ còn một người ngồi nữa là hết dãy ghế, chỗ của ông Ngô Đình Nhu, chỗ có vẻ khiêm tốn, khuất lấp. Thật ra chỗ của ông Nhu, ông muốn ngồi chỗ nào mà chả được.
    Sau này, không biết số phận ông Trương Vĩnh Lễ ra sao.



    Danh sách trí thức miền Nam ủng hộ chế độ mới — Đây là những trí thức trong thành phần thứ ba và nay ra hợp tác với chính quyền mới. Đây là danh sách cụt và ngắn gọn. Còn rất nhiều người tham gia hợp tác khác mà chưa đủ nổi, chưa tiện nói.



    Cao Thị Quế Hương, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Giáp, Lê Văn Thới, Hồ Ngọc Nhuận, Lê Văn Nuôi, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Hửu Hiệp, Nguyễn Long, Phạm Biểu Tâm, Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Triệu Quốc Mạnh, Trịnh Đình Thảo, Trương Bá Cần, Võ Đình Cường, Võ Thị Bạch Tuyết, Vương Đình Bích.



    Phần cụ chủ tịch Thượng Nghị Viện VNCH Nguyễn Văn Huyền — Cụ đã đứng ngoài danh sách trên. Sau này cụ đau nặng. Nhưng Ủy Ban Trung Ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã nhiều lần mời cụ tham gia vào mặt trận. Cụ đã từ chối vì lý do sức khỏe. Trên tờ Đại Đoàn Kết, người ta nhắc lại với lời tán dương cụ là người đã biện hộ cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở thời kỳ chống Pháp. Nhưng họ cũng không quên nhắc khéo cụ đừng có làm cao quá về lời mời tham gia vào Mặt Trận… vậy mà cụ đã vô tình lặng lẽ ra đi chưa kịp có một lời giã biệt. Mới đây tờ báo điện tử Chuyển Luân, bên Úc đã cố ý nói không tốt về cụ gián tiếp cho rằng cụ và nhóm Trần Văn Lắm đã làm áp lực lên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đưa đến cái chết của TT Thích Thiện Minh ở trong tù. Một cái chết còn rất nhiều nghi vấn. Nhưng đưa ra một giả thuyết vô bằng như vậy quả là không nên.



    Xin nêu ra vài nhận xét của Hồ Ngọc Nhuận về cụ Huyền. Kể cũng trớ trêu thật, cùng tên Nhuận mà mỗi người xét đoán sự việc mỗi người mỗi khác. Hoàng Nguyên Nhuận, trên Chuyển Luân thì nghi can cho cụ có trách nhiệm vào vụ thảm sát TT Thích Thiện Minh. Còn Hồ Ngọc Nhuận thì lại nghĩ rằng, cụ là một trong những nhà chính trị hiếm hoi của VNCH là người đạo đức. Cụ cũng là người mà Cao Thị Quế Hương, một sv Phật tử tranh đấu hết lòng bày tỏ sự biết ơn, vì thời gian ở tù, cô vẫn được cụ tới viếng thăm và giúp đỡ. Hồ Ngọc Nhuận đã viết như thế này: Không biết cụ lấy đâu ra từ trong con người ốm yếu của cụ cái chất giọng trầm, sắc, chắc, khoẻ, to và cái hơi dài như vậy. Hãy xem cảnh cụ Huyền điều khiển Thượng Viện dưới ngòi bút của Hồ Ngọc Nhuận:

    Như trên đã nói, tôi muốn nói gì cứ nói, tôi muốn đao to búa lớn với hành pháp thế nào cũng được, như trong vụ dân biểu Trần Ngọc Châu bị bắt và trong nhiểu vụ khác… Nhưng khi tôi vừa cất giọng hướng mũi tấn công về cụ Lương coi như đồng lõa của hành pháp… thì nhanh như cắt, cụ Huyền chộp lấy cái búa gỗ… Hẳn cụ chủ tịch TV cho rằng cụ chủ tịch Hạ Viện là khách danh dự của cụ, nên cụ phải bảo vệ, không để ai động đến. Nhưng tôi đâu nỡ để cho cụ ‘búa’ mất sức lắm… và cảnh vờn nhau thầm lặng không kém phần quyết liệt giữa một già, một trẻ như vậy tại Hội Trường không chỉ diễn ra một lần, khiến nhiều đồng viện để ý theo dõi cũng phải bật cười.



    Sau gần 20 năm sống thầm lặng, cụ bỗng được mời vào Trung Ương MTTQVN. Là người sùng đạo, cụ Huyền cũng là người mực thước, đức độ và rất được cố TGM Bình hết mực tin cậy. Cụ có người em gái là nữ tu dòng kín. Đến lúc cuối đời, cụ vẫn sống khiêm tốn, giản dị, hàn vi trong ngôi nhà nhỏ ở gần góc Hồng Thập Tự- Bùi Chu, một phần nhà mặt tiền dành cho một người cháu hành nghề hớt tóc. Yếu nhiều, cụ nghỉ ngơi, làm việc ngay tại phòng khách, cạnh giường luôn để sẵn cây gậy.



    Một thời gian sau, cụ Huyền lặng lẽ ra đi. Mà không ai hay.



    Tôi nghĩ viết như thế là đủ, khỏi cần tranh cãi với Hoàng Nguyên Nhuận.



    Thứ ba, mồng 2/9/1975, Kỷ niệm ngày lễ Độc Lập



    Đây là buổi tập trung đông đảo người nhất kể từ 30 tháng tư. Buổi chiều có pháo bông. Tờ Giải Phóng cho biết có 10 triệu người tham dự buổi Mít tinh trên tổng số hơn 3 triệu dân thành phố.



    Lại những con số ảo đến lố bịch. Có những con số làm phiền, có những con số ảo lố bịch và có những con số làm ta phát nản.



    Cũng trong dịp này, thành phố Hà nội khánh thành khách sạn Thắng Lợi. Cũng là dịp để mừng 30 năm ngày tuyên bố Độc Lập. Khách sạn này là do tiền tài trợ giúp của nước Cuba anh em cho Việt Nam. Vật liệu xây dựng từ bao xi măng đến cái nắm cửa, cho đến thày thợ đều chở từ Cuba sang. Ở vào thời kỳ đó thì khách sạn Thắng Lợi là niềm tự hào của hai nước và chỉ dành cho các khách sang, các nhà ngoại giao từ ngoại quốc đến. Ở đây cũng là kho lương thực cho các nhân viên đại sứ quán có thẻ lương thực mà tiêu chuẩn là một nửa lít sữa cho ba người một ngày và nửa kí lô đường cho một người trong một tháng.



    Tiêu chuẩn lương thực như thế cũng chả có gì là hấp dẩn, nhưng đối với một người VN bình thường thì quả là không dễ mà có được.



    So sánh khách sạn Thắng Lợi với khách sạn Thống Nhất, còn gọi là hotel Métropole cũ thì cũng khác xa nhau một trời một vực. Tòa Đại sứ Ý (Italy)ưu tiên có được hai phòng cho hai cố vấn tòa Đại sứ với gia đình họ ở khách sạn Thống Nhất. Toà đại sứ Iraq thì chỉ được một phòng, vừa làm văn phòng, vừa làm chỗ ăn ngủ cho 3 nhân viên sứ quán. Muốn có máy lạnh thì nhân viên sứ quán phải tự mang máy lạnh đến và khi dời khỏi khách sạn thì phải hứa tặng lại cho khách sạn.

    Các nhân viên sứ quán thì bị hạn chế di chuyển và chỉ có chuột là tự do đi lại trong khách sạn. Nhân viên sứ quán Úc Đại lợi (Australia) nhận thấy nước máy quá dơ bẩn đã nghĩ ra được cách lọc nước máy đơn giản và hiệu quả. Buộc một chiếc bít tất vào vòi nước. Vậy là xong.



    Kỳ tết vừa rồi, tôi có dịp đi ngang qua khách sạn này. Nó chẳng còn như xưa nữa mà đi vào sự hoang phế chờ để được đập phá đi.



    Tất cả đã thay đổi nhiều lắm



    Có tin bệnh viện Grall đóng cửa — Bệnh viện tư duy nhất của người Pháp còn để lại. Phải đóng cửa, vì thiếu thuốc men, mặc dầu có một số thùng thuốc được chở đến từ Singapore từ 22 tháng 7. Theo các bác sĩ trong bệnh viện, nhu cầu thuốc men cần cho bệnh viện lúc này là 20 tấn. Chuyện phải đến đã đến, mặc dầu Sài Gòn thiếu trầm trọng các bác sĩ, y tá cũng như thuốc men.



    Tốt hơn hết trong lúc này là đừng có ốm đau gì cả.



    Người ta có trhể nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn nói, tại sao lại không có thể nhịn ốm được nhỉ?



    Thứ sáu, 12 tháng 9/1975, Hội nghị Hiệp Thương thống nhất tổ quốc



    Phái đoàn gần 100 trí thức miền Nam ra thăm miền Bắc đi tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất Tổ Quốc.



    Trong phái đoàn đặc biệt có Ni sư Trưởng Huỳnh Liên, luôn luôn mặc áo toàn vàng nghệ, theo phái khất sĩ, đầu cạo láng coóng. Thật chẳng giống gì với mấy sư ông miền Bắc toàn một mầu nâu, đầu quấn khăn. Bên cạnh theo phù tá là Nữ nghệ sĩ Kim Cương cũng láng coóng theo kiểu áo dài trong Nam..



    Trong phái đoàn có một nhà báo kỳ cựu là ông Nam Đình. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu được tại sao ông lại có mặt ở đây. Trước đây trong Hồi ký Nam Đình, hồi ký làm báo của ông, ông đã cực lực lên án phe đệ tam đã giết hại những người của phe đệ tứ như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Ông là một trong những nhà báo nổi tiếng có một thư viện đồ sộ và những tài liệu quý báu ít ai có được. (Xem thêm, Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam. Hồ sơ đệ tứ, tập 3. Nhóm đệ tứ VN tại Pháp )



    Còn Chân Tín thì trẻ con miền Bắc tưởng lầm là ông Liên Xô. Với vầng trán hói quá khổ và mái tóc dài thõa xuống ngang vai. Lúc đó, ông làm lớn lắm: Thứ nhất là Ủy viên Trung ương Mặt trận tổ quốc VN và phó chủ tịch Mặt trận thành phố. Mới đây, tôi gặp lại ông ở Sài Gòn thì đầu tóc đã ngắn không còn dài như trước nữa. Chỉ ít lâu sau khi về lại thành phố thì ông đã nói: Tôi được giải phóng rồi, nghĩa là mất tuột tất cả những chức vụ hữu danh vô thực trên. Lúc này thì ông kêu gọi người Cộng Sản phải sám hối.



    Ông bị cô lập và cuối cùng giam lỏng ở Cần Giờ. Những người bị giam tù thời VNCH như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Huy Diễm hay Võ Thị Bạch Tuyết, giám đốc Sở lao động thương binh và xã hội thành phố cũng thường rủ nhau tới thăm ông. Thăm như một trả ơn nghĩa lúc ông là sáng lập Ủy Ban đòi cải thiện chế độ lao tù tại miền Nam VN.



    Nguyễn Ngọc Lan thì cân cả quần, cả áo mới nặng được 33 kí lô sau khi ăn cơm xong. Ông tham quan Hà nội, 1975 về viết bài trên tờ Đứng Dậy, trước hồi VNCH là tờ Đối Diện. Bài báo nhằm giới thiệu Hà Nội một cách trung thực với nhan đề: Hà Nội tôi thế đó. Thế đó là thế nào. Nghĩa là nghèo xác xơ. Nói thế đâu có được. Nói thế là chửi xỏ xiên chế độ. Kết qua là Đứng Dạy đóng cửa và ít lâu sau, ông trở thành người đối lập chỉ trích nhà nước Cộng Sản trong: Những tin nhà.



    Lại có thêm Lý Chánh Trung, người nổi bật nhất trong phái đoàn, có thói quen ngậm ống vố rất là cao sang và tự hào. Ông kể cho tôi là đi đến đâu, từ chị lái đò đến anh công nhân đều đã đọc bài viết của giáo sư trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Như thế, trình độ văn hóa của dân miền Bắc kể là cao hơn so với miền Nam. Nghe những truyện ông kể, tôi thật sự không vui. Tôi chỉ biết nói thế. Sau này mới đây gặp lại ông, hình như ông đã bỏ thói quen ngậm ống tẩu. Ông chỉ còn giữ lại được nụ cười nhếch mép cố hữu từ thời tuổi trẻ. Cái còn lại duy nhất của đời ông lúc tuổi xế chiều



    Bà Ngô Bá Thành và Lý Quý Chung (cả hai đều đã mãn phần) đều coi đấy là một vinh dự hi hữu của cả một đời người. Riêng Lý Quý Chung, trong Hồi ký không tên của ông cho hay, khi ba ông, ông Lý Quý Phát, bị đột quỵ và lúc tập nói được thì câu đầu tiên ba ông đã nói với ông như sau: Tao không muốn gặp mày nữa, gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này mà mày còn viết báo cho Cộng Sản, cha mày từ mày. Ông thú nhận là chưa bao giờ ba của ông đã nặng lời với ông như thế. Ông viết thêm về gia đình ông: Cùng một lúc, tôi mất bảy đứa em, vào lúc này người vượt biển coi như không có hy vọng gặp người ở lại.



    Nhưng câu thú nhận đau lòng nhất vẫn là: Sau 30 năm, tôi vẫn là “người khách đặc biệt”, chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới.



    Sau đó thì phái đoàn miền Nam được hướng dẫn đi tham quan một xã tiêu biểu là xã: Như Quỳnh, cách Hà nội 20 cây số trên đường đi Hải Phòng, thuộc tỉnh Hưng Yên. Sau chuyến tham quan về thì ông Hồ Ngọc Nhuận viết khác Nguyễn Ngọc Lan như thế này: Nhưng ngày nay thì đã hoàn toàn khác hẳn. Đồng bào nông thôn của ta ở miền Bắc đã thật sự được giải thoát khỏi áp bức bóc lột. Họ đã hoàn toàn làm chủ đời sống của họ, vận mệnh của họ và do đó thật sự là những người chủ đất nước. Chủ nghĩa xã hội là con đường tiến lên tất yếu… Và chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi tin rằng Độc lập dân tộc và Thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội.



    Và sau 25 năm, chính ông Hồ Ngọc Nhuận đã viết lại như thế này: “Và tôi nữa, sau 25 năm, khi đọc lại chính mình, tôi tìm thấy được bao nhiêu phần trăm của tôi hôm nay trong đó… Trong những gì mình viết, suy nghĩ, khẳng định năm xưa.”



    (Xem tiếp phần cuối)
    Nguyễn Văn Lục
    https://hon-viet.co.uk/NguyenVanLuc_30T ... nhMat2.htm

    =================================================










    30 tháng 4 -
    Ði tìm thời gian đánh mất
    (Phần III)

    Nguyễn Văn Lục









    Sau người Pháp, chính quyền nay tính đến chuyện người Việt gốc Hoa.



    Đây là bụi cỏ dại lớn nhất, rộng nhất, ảnh hưởng nhất đến nền kinh tế cần phải được nhổ. Báo chí đồng loạt lên án, tố cáo nạn đầu cơ, tham nhũng. Thực phẩm khan hiếm, giá cả gia tăng đều là do bọn thương gia tích trữ, đầu cơ, tạo ra khan hiếm giả tạo nhờ đó lên giá làm giầu



    Đợt càn quét đầu, nhà nước đã bắt giam hơn 100 thương gia người Tầu có máu mặt trong thành phố nội trong hai ngày. Một quỹ của người Tàu đã quyên được 4 tỉ đồng trong một buổi họp bí mật tại một nhà thương gia trong Chợ Lớn… Người Tàu Chợ Lớn tìm cách phản công bằng cách nhờ cậy đàn anh là Trung Cộng can thiệp và tẩy chay Việt Nam. Đây cũng là đầu mối sau này có nạn đi bán chính thức và nhân cơ hội đó, nước Tàu lấy cớ để gây hấn và để gây một thứ chiến tranh mới mệnh danh là cho “Việt Nam một bài học”.



    Đặng Tiểu Bình đã nói với các nhà báo ở Bắc kinh như thế này: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt Nam, miễn là 30% dành cho Trung Quốc”. Lần khác, Đặng Tiểu Bình nói: Trung Quốc là NATO phương Đông, và Việt Nam là Cuba phương đông.



    Bài học khá là nặng. 4 tỉnh phía Bắc VN bị phá hủy đến như bình địa. Nước uống bị nhiễm dộc. Trẻ con bị rạch mặt, cắt tai cho nhớ đời đến 50 năm về sau.



    Bài học “dạy cho Việt Nam một bài học” cũng làm cho các nước trong khối ASEAN (The Association of Southeast Asian Nations) như Thái Lan, Phi Luật Tân, Singapore lo ngại. Thái Lan trước đây lo ngại VN xâm chiếm, nay thì có nỗi lo ngại lớn hơn: Nước Tàu.



    Trước khi dạy cho VN một bài học, họ đã dùng đủ mọi biện pháp sức ép trên chính quyền Hà nội như:



    • Ngay từ 1975, cắt viện trợ không hoàn lại. Tất cả những công trình xây dựng ở VN gần như ngưng lại.


    • Cắt viện trợ và cắt sự giúp đỡ các trang thiết bị, tháng 6/1978


    • Rút Đại sứ Tầu về nuớc với lý do đau ốm. 1978


    • Yêu cầu VN đóng cửa các toà lãnh sự tại Quảng Châu v.v…


    • Trả về các sinh viên VN đang theo học tại nước Tàu.


    • Cắt đứt đường xe lửa giữa Việt Nam và nước Tàu vào ngày 22/12/1978


    • Sau này, 31/7/1978 ông Hua Kuo-Feng ủng hộ Cam pu chia: “Cuộc chiến đấu của các ông là chính đáng và cuối cùng các ông sẽ chiến thắng, chúng tôi ủng hộ các ông”.



    Mối bang giao trở nên căng thẳng đến độ đi đến quyết định cho VN một bài học. Thật ra bài học này trở thành một bài học cho cả kẻ cho và kẻ nhận bài học.



    Thảm họa đã không tránh được vì người Tàu đã mang quân sang xâm chiếm nước ta vào sáng sớm ngày 17 tháng 2, 1979. Suốt dọc biên giới 1300 km, 20 vạn quân Tàu theo báo ngoại quốc và 60 vạn theo báo trong nước đã làm cỏ, phá tan hoang bốn tỉnh biên giới là Cao Bằng, Lào Cay, Lạng Sơn và Móng Cáy. Ngay từ 24 giờ đầu tiên, quân Tàu đã xử dụng chiến thuật biển người. “Ở chiến trường Lạng Sơn, đồng chí Lê Canh, ủy viên chính trị tỉnh cho biết: Chiến thuật biển người thật khủng khỉếp. Bộ đội ta đã bắn giết hết lớp người này đến lớp người khác hằng giờ đồng hồ. Cuối cùng thì quân đội ta phải rút lui”.



    Chỉ hai tuần lễ sau của cuộc chiến, tức ngày 5/3, chính quyền VN ra lệnh tổng động viên: tất cả công dân từ 18/35 đối với phụ nữ, 18/45 dối với đàn ông đều phải sẵn sàng tham dự chiến đấu. Cụ thể là mỗi ngày phải dành hai giờ luyện tập quân sự. Cả một dân tộc sẵn sàng chiến đấu.



    Và đến ngày 20 tháng ba, tờ Nhân Dân đã chạy một hàng tít lớn: Chiến thắng. Vâng, nhưng với biết bao hy sinh về người và tài sản. Cho đến nay, chưa ai biết rõ thiệt hại nhân mạng người VN là bao nhiêu.



    Về phía người Tàu thì Đặng Tiểu Bình vẫn còn cay cú vì thất bại không dạy nổi cho VN một bài học đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng cuộc phản công tháng hai vừa qua vẫn chưa đủ để dạy cho VN một bài học. Vì vậy, một phản công mới trong tình trạng tự bảo vệ mình một cách chính đáng không phải là không có thể xảy ra” và Đặng Tiểu Bình kết luận: Chúng tôi dành cái quyền lại có thế bắt đầu… Họ Đặng còn tuyên bố tiếp: “Quân đội của Bắc Kinh có thể tiến thẳng tới Hà nội” Nói cương vậy thôi. Trên thực tế, người Trung Quốc phải nhìn nhận đây là một cuộc thua trận về mặt quân sự. Không thể nói khác được.



    Theo giáo sư Philippe Devillers, trong lúc mà chiến tranh Việt Nam-Tàu đang ở lúc cao điểm là tháng giêng 1979, bộ ngoại giao chính phủ Tàu đã gửi ít nhất là cho 7 nước Âu Châu một kháng thư như sau: “Chúng tôi yêu cầu các ông chấm dứt mọi giúp đỡ cho VN. Nước Tàu sẽ coi mọi sự giúp đỡ cho VN là một hành vi gây hấn và sẽ gây ra những hậu quả”.



    Phải chăng, do áp lực của Tàu mà chính phủ Carter của Mỹ đã thiếu hẳn một đường lối rõ rệt trong việc thiết lập lại bang giao với Việt Nam. Xin nhắc là Chính Phủ Carter đã có ý định thiết lập lại bang giao với Việt Nam vào mùa thu 1978, nghĩa là trước khi quân Tàu tràn sang xâm chiếm VN, sau đó đã bất thần bãi bỏ mọi thương thuyết về vấn đề này. Mỹ đã chọn quyết định bình thường hoá với Trung Quốc và gác sang bên việc quan hệ bình thường với Việt Nam. Vì thế, trong khi gặp Carter ở Washington. Đặng Tiểu Bình đã tỏ ý sẽ tiến công vào Việt Nam và không gặp phải phản ứng bất lợi nào từ phía Mỹ. Và sau đó Mỹ đã đưa ra 6 biện pháp xử sự trong trường hợp Trung Quốc xâm lăng Việt Nam.



    Tuyền là những biện pháp bất lợi cho Việt Nam như bất can thiệp, Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, cuộc xung đột không đe dọa lợi ích của Mỹ v.v… — Hồi ức của ông Trần Quang Cơ (1).



    Ông Phan Hiền đáp lễ lại: “Chúng tôi nghĩ rằng nước Tàu phải suy nghĩ lại hằng triệu lần trước khi quyết định tiến hành một cuộc gây hấn mới”.



    Còn ông Võ Văn Kiệt đã có lần than thở: “Mình bị nó lừa nhiều quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”



    Còn Ông Tô (Phạm Văn Đồng) vốn người điềm đạm cũng đã phát biểu: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao”



    Nhưng theo Alain-Roux trong cuốn Le casse-tête chinois, bộ chính trị Tàu đã phê phán nặng đường lối của Đặng Tiểu Bình trong một buổi họp tự kiểm thảo vào ngày 14 tháng ba 1979. Nhưng thực tế thì đường lối cứng rắn của ĐTB đối với VN vẫn được thi hành và thực hiện như người ta đã thấy sau này.



    Nói cứng thì như vậy, nói ngoại giao thì như vậy. Nhưng thực tế Đại tướng Wu Hsiu-Chuan, Tham Mưu Trưởng của Tàu đã nhìn nhận chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn trong việc đánh sang Việt Nam. Ông nói thêm, một trong những khó khăn đó là, chúng tôi cần những tin tức phóng ảnh địa hình, địa lý chính xác hơn.

    Không lạ gì sau này, chính phủ Tàu yêu cầu chính phủ Mỹ giúp đỡ kỹ thuật để canh tân quân đội Tàu.



    Phiá chính quyền Cộng Sản thì chỉ rêu rao hai cuộc chiến thắng chống đế quốc Pháp và Mỹ. Nhưng nể mặt, chưa bao giờ dám xác nhận là đã chiến thắng nước Tàu. Việc đó cũng chẳng khác gì cái lễ phải giữ của các vua chúa thời xưa. Tây Sơn, Nguyễn Huệ cũng đã vang lừng truy sát quân nhà Thanh, sau đó đã không quên cái lễ thần phục. Vẫn phải nể mặt.



    Dù sao, những diễn tiến cuộc chiến tranh này cũng chỉ là câu truyện sau này để từ đó chúng ta rút ra nhũng bài học.



    Cuộc bắt bớ truy lùng gian thương vẫn tiếp tục một cách quyết liệt và mạnh mẽ trong thành phố cũng như tại các tỉnh. Loa Phóng thanh, các đoàn thanh thiếu nhi quàng khăn đỏ đi ngoài đường với biểu ngữ, hô hào, đả đảo gian thương. Nhà nào có xe hơi, có tý máu mặt nay sợ xanh mắt. Trước cửa nhà tôi ở đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, có hai ông bà già mở một quán chạp phô trong một túp lều với mấy mái tôn che nắng. Ông bà cụ là người mua bán, cho mua chịu, có thể cho vay lãi cho các gia đình nghèo túng trong các hẻm Nguyễn Huỳnh Đức. Căn nhà được canh gác ngày đêm, dở trần nhà, đào đất sàn nhà để tìm kiếm vàng. Chẳng hiểu kết quả ra sao? Phần gia đình tôi sợ sanh máu mặt vì ở đối diện nhà ông bà cụ, lại có phần khá giả hơn nhiều. Phúc tổ bảy mươi đời không sao cả. Chỉ lén lút mang xe hơi của người anh để lại đậu xa nhà. Vậy là xong. Một hai bữa sau, chiếc xe đã bị làm thịt tanh banh, tách bách. Chỉ còn cái khung xe hơi.



    Người ta cũng dựng lên một thứ toà án nhân dân đặc biệt để xử những con buôn đầu cơ, trục lợi. Hình phạt có thể từ ba năm tù đến án tử hình cộng với tịch thu toàn bộ tài sản. Cuộc truy lùng bọn đầu cơ tích trữ này kéo dài mãi đến tháng 6 năm 1976. Trong một vụ án vào tháng 6, năm 1976. Tòa án nhân dân đã đem xử 6 thường dân và 6 cán bộ. Trong đó, một trong những người bọn họ bị kết án tù chung thân và tịch thu toàn bộ tài sản. Những người khác từ 8 đến 20 năm tù. Riêng 6 cán bộ thì bị nhẹ hơn từ 6 tháng tới 15 năm tù.



    Tiếp đến là các ông vua xuất cảng lúa gạo, vua thép, vua cà phê, vua vải vóc lần lượt bị bắt. Ở các tỉnh như Bạc Liêu đến lượt các vua nhà máy xay thóc. Có ông có đến 100 nhà máy xay lúa, ông khác cất dấu, nói một cách chính xác là 3740 hạt kim cương. Các ông vua con đó nay lần lượt rủ nhau vào tù. Từ vua vựa cá, vua xi măng, vua thép gai, vua hải sản, v.v…



    Không lúc nào mà số phận mấy ông vua khổ sở như lúc này. Nhưng người ta cũng ngại nhấn mạnh đến tên các chú Ba Tàu, vì ngại sự dòm ngó của Bắc Kinh.



    Các ngả đường vào Chợ lớn bị chặn để ngăn chặn tẩu thoát tài sản, vàng bạc châu báu và tiền bạc. Những rào cản đặt ở một số đường lục soát người ra vào. Quý kim và vàng bạc bị tịch thâu. Tiền bạc không được quá số 50 chục ngàn. Sau Chợ Lớn đến lượt Gia định vào những ngày sau đó.



    Thứ hai 22 tháng 9, 1975, một ngày không như mọi ngày — Đây cũng là một ngày đáng ghi nhớ. Ngay chiều chủ nhật, người ta đã chờ đợi một thông cáo quan trọng vào lúc 10 giờ tối. Có lệnh giới nghiêm trên toàn thành phố. Bộ đội canh giữ khắp nơi. Thông cáo cuối cùng được dời đến 5 giờ sáng thứ hai.



    Hóa ra có lệnh đổi tiền. Mỗi gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng. Một đồng tiền mới tương đương 500 đồng tiền cũ. Và chỉ được lãnh trước 10 ngàn đồng. Số còn lại do nhà nước giữ lại. Để hiểu giá trị tiền mới thì 100.000 đồng tương đương với số tiền 600 đồng quan Pháp hay hơn 100 đô la Mỹ. Số tiền thật là nhỏ nhoi so với một gia đình.



    Gọi là bần cùng hóa nhân dân. Chữ dùng cũng không xa lắm.



    Việc đổi tiền này áp dụng ngay cả đối với các cơ sở thương mại, các hãng xưởng và các tòa đại sứ như Pháp. Toà đại sứ Pháp có số tiền là 50 triệu đồng cũng chỉ được đổi ra 500.000 đồng.



    Tự nhiên, trong một ngày, cả nước trở thành trắng tay — Giá cả ngay từ ngày chủ nhật tăng đến chóng mặt. Giá một con gà nay là 15 ngàn. Một chiếc xe đạp đang từ 60 ngàn lên một triệu đồng. Một xe máy thành mười lăm triệu đồng. Việc đổi tiền trù liệu trong một ngày phải xong. Nó đã kéo dài đến thứ sáu. Việc kéo dài này ra ngoài trù liệu của giới chức thẩm quyền, vì nạn thiếu tiền mới. Họ không thể ngờ rằng nhà nào cũng đổi một trăm ngàn đồng cho mỗi hộ. Những hộ nghèo không có tiền thì đã có hộ giầu dúi tiền cho để đổi dùm.



    Việc đổi tiền này đã tạo ra một cú sốc, một sự oán hận không cách nào bào chữa được. Đây là đòn chí tử đánh vào giới tư bản, giới thương gia của chế độ cũ. Nhiều tin đồn nói có người này tự tử, người kia quyên sinh. Cũng có tin đồn là đám tàn quân trốn lánh tại núi Bà đen, Tây Ninh đã đánh cướp một xe bạc mới dùng để đổi tiền cho dân chúng. Người ta cũng nói tới một lá cờ nền xanh da trời, với ba gạch đỏ và một con rồng vẫn bay phất phới trên núi Bà đen. Chuyện chỉ nghe, chẳng biết đâu là thực hư. Chỉ là loại tin đồn.



    Vợ tôi thường có thói quen cất dấu tiền chỗ này, chỗ kia. Chỉ sau khi đổi tiền tình cờ khám phá ra một gói tiền cũng khá lớn, chẳng nhớ là bao nhiêu?



    Không, nay nó không còn giá trị một đồng tiền nữa. Giá trị một mảnh giấy cũng không đáng nữa.



    Chủ nhật 28 tháng 9/1975, hậu quả sau vụ đổi tiền — Việc đổi tiền đã bị dân chúng ca thán oán hận. Nhà nước qua tờ báo Tin sáng, số ra chủ nhật đã được chính quyền tỏ lời xin lỗi về những bất tiện gây ra cho người dân trong việc đổi tiền này. Lời xin lỗi đó đã chẳng có tác dụng gì, vì ai cũng biết rằng, đây là cách bần cùng hóa mọi người, triệt tiêu tư hữu, triệt tiêu tư sản tư bản, mại bản.



    Sau đợt đổi tiền quá tàn bạo vừa qua. Chính quyền hình như muốn tạm ngưng các vụ bắt bớ tư sản. Bí thư Lê Duẩn trong dịp này lại tới Bắc Kinh, chẳng hiểu vì thế mà việc đánh tư sản, mại bản người Việt gốc Tầu có vì thế giảm bớt đi chăng?



    Hậu quả đi kinh tế mới — Sau cái nạn đổi tiền đến nạn đi kinh tế mới. Theo chính quyền thì có khoảng ba trăm ngàn người đã dời bỏ thành phố để đi về các vùng kinh tế mới. Nhưng nhiều người cho biết là họ đi cho có, ký giấy tờ xong, lánh nạn ở nhà bà con. Ít lâu sau lại mò về.



    Kế hoạch đi Kinh tế mới của chính quyền mới kể như hoàn toàn thất bại.



    Sau này, hầu như không ai nhắc tới chuyện đi kinh tế mới nữa.



    Thứ ba, 28 tháng 10/1975, tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) — Đi mà lại mò về là chuyện lạ. Tàu VNTT trở về lại Việt Nam chở theo 1600 người hồi hương. Người ta không biết số phận nào sẽ dành cho những người hồi hương này. Trước hết họ bị giam tập trung lại để điều tra lý lịch từng người.



    Sau vụ đi học tập, đánh tư sản, đổi tiền và đi kinh tế mới. Đây là bốn vố nặng nhất đè nghiến trên người dân miền Nam. Không nhà nào thoát ra khỏi bốn vố này.



    Nhiều gia đình tỏ ra tuyệt vọng với chế độ. Chế độ đã đẩy họ đến con đường cùng, đến ngõ cụt. Nhiều gia đình, trong đó có gia đình chúng tôi đã nghĩ đến chuyện phải trốn đi bằng đường biển. Không ai còn thiết tha nghĩ tới chuyện kéo dài thêm chuyện sống ở VN nữa.



    Dấu hiệu chán nản và tuyệt vọng đã rõ rệt trong các buổi họp dân phố.



    Người ta không còn muốn đi họp tổ, không còn muốn nghe phát biểu nữa. Và để phản đối bầy tỏ sự chán nản, bất mãn của mình mà không bị làm phiền hà, người dân có lối phản ứng của họ: cán bộ phường chưa nói hết câu thì ở dưới bà con vỗ tay tràn lan không để cho cán bộ nói nữa. Cứ như thế mà các buổi họp tổ, khu xóm loãng dần. Người dân đâm chai lì, không còn biết sợ nữa. Nhiều thành phần dân chúng phát biểu lung tung chỗ công cộng chả còn ra thể thống gì nữa. Những lời châm chọc, chỉ trích, nói bóng gió đủ kiểu đủ cách đến cán bộ, bộ đội, chính quyền mới mỗi ngày mỗi công khai, mỗi ngày mỗi bạo dạn đến không còn kiêng nể gì nửa. Cán bộ, bộ đội có nghe thấy cũng giả điếc lảng đi chỗ khác.



    Chính quyền với thêm nhiều tệ nạn do cán bộ gây ra đã hầu như không còn được dân chúng tín nhiệm nữa.



    Cách đối phó của người dân đối với chính quyền là những câu thơ diễu cợt, những câu chuyện hài ước ác ý nhằm nói cho hả dạ.



    Như thể mà nảy sinh ra một thứ văn chương truyền khẩu bôi đen chế độ bằng đủ hình thức.



    Thứ năm, 30 tháng 10/1975 — Trên một chuyến bay đi Băng Cốc, có 14 người từng bị bắt cầm tù sau 30 tháng tư. Trong đó có 9 người Mỹ, hai Gia Nã Đại, hai Phi Luật Tân và một Úc Đại Lợi. Họ là người ngoại quốc thì trước sau gì cũng phải để họ ra đi thôi.

    ———————

    Đầu tháng 11-1975, một vài vấn đề tôn giáo như Phật giáo (PG), Thiên Chúa Giáo (TCG) đối với chính quyền Cộng Sản



    Trước hết, xin rảo qua vài dòng về hiện tình PG Việt Nam (VN) trước và sau 1975. Sau biến cố Phật giáo 1963, người ta có nhiều hy vọng Phật giáo đang trở mình, dần dần hiện đại hoá, có được những ảnh hưởng trên giới Phật tử về phạm vi tôn giáo và trên lãnh vực văn hoá, xã hội và chính trị đối với chính quyền. Tham vọng một giải pháp Phật Giáo và dân tộc không phải là không có. Ấy là chưa nói tham vọng đó có nên hay không, bới vì tham vọng thế quyền bao giờ cũng đi ngượi lại yếu tính của bất cứ tôn giáo nào.



    Trước mắt, để có được những ảnh hưởng trên, giới Phật Giáo cần tăng cường đội ngũ trí thức PG trong hàng tăng sinh. Theo bản tường trình của Hội tài trợ Á Châu vào năm 1965, trong con số 20 chục ngàn tăng ni ở VN thì chưa đầy 20 người có đi du học ở nước ngoài trong đó phải kể luôn 12 người đang đi du học. Trong nước thì có khoảng 30 người có bằng cử nhân. Những con số trên cho thấy giới trí thức Phật giáo không đáng kể và còn thiếu nhiều lắm. Phẩm chất cũng chưa dạt đủ.



    Vì thế, giáo sư Như Hạnh, giáo sư đại học George Mason (1) đã có những nhận xét thẳng thừng hơn khi cho rằng ngay cả các thầy như Thích Minh Châu cũng không thông hiểu đủ về Phật giáo. Chúng tôi ghi nhận lại với sự dè dặt về những nhận xét như thế.



    Cũng theo Như Hạnh thì không có bao nhiêu hiểu biết về Phật giáo VN vì thiếu tài liệu, thiếu văn bản Phật giáo như trong bài viết của ông: Vài ghi chú về Tâm Kinh Bát Nhã hay truyền thống Phật giáo VN. Về điều này, Hà Văn Tấn cũng đã nhìn nhận trong bài viết: “Vấn đề văn bản trong các tác phẩm văn học của Phật giáo”, tạp chí Văn học, viện văn học Hà nội, số 4, 1993. Ngay như tài liệu về Thiền Tông VN với bộ VNPG sử luận của Nguyễn Lang, tức Nhất Hạnh đã được nhiều người ca tụng cũng đầy những thiếu sót. Thiếu sót thứ nhất là thiền sư Nhất Hạnh đã bóp méo lịch sử Phật giáo thành lịch sử Thiền tông. Thứ hai là đã vay mượn thuật ngữ Phật giáo một cách bừa bãi, bình dân hoá Thiền dưới. Thầy Tuệ Sĩ cũng nhận xét không khác xa lắm: “Đọc kinh bây giờ ít thịnh hành hơn, còn học Thiền thì lại rất rầm rộ. Cái tệ hại của nó, quả thật, là những kẻ quê mùa dốt nát này, sau khi thăm viếng các Thiền viện và nghe các thiền sư giảng pháp, họ thích thú quá cỡ, và ít chịu suy nghĩ về tinh thần của giáo thuyết, tự cho mình là những bậc thầy, không những đã khinh miệt cỡ đức mà còn coi nhẹ kinh điển và nội dung của kinh điển với những phát ngôn bừa bãi của họ. Quần chúng ngây ngô bị lừa dối và những bậc trọng vọng, nhưng vốn ít học, lại vui thích với những lời rỗng tuếch của các môn đệ Thiền”. Phần tôi chỉ nêu ra mà chẳng dám có lạm bàn. Thầy Minh Châu cũng là một bậc trưởng thượng. Ông Như Hạnh là người mà tôi có đọc một số bài viết về Phật học thì cũng là người có chuyên sâu.



    Nhưng người Mỹ hơn ai hết đã nhìn nhận ra điều này và trong một bản tường trình mật nêu mục đích rõ việc tài trợ cho Phật giáo: “Phật giáo đã đảm nhận một vai trò xã hội và chính trị. Có thể biến Phật giáo thành một lực lượng ưu thế xã hội trong vòng một vài năm. Tài trợ chủ yếu nhằm mục đích đào tạo giới lãnh đạo Phật giáo, tài trợ những tăng ni trẻ tuổi khá nhất. Họ sẽ trở thành những người diễn giải chính yếu của Hoa Kỳ và chính sách của Hoa Kỳ cho Phật giáo.” — Tài liệu của hội đại diện Mỹ của hội Quakers là Michael và Diane Janes đã trao cho Tổng hội Sinh viên (THSV) Sài Gòn, 1974.



    Sau 75, những dự định của Mỹ và Phật giáo về hiện đại hoá đạo Phật đã tan thành mây khói khi người CS vào miền Nam. Và trước đó, ngay trong nội bộ Phật Giáo đã có sự chia rẽ trầm trọng đến độ có thể thanh toán nhau như trong bạch thư của TT Tâm Châu đề ngày 31/12/1993.



    Sau này, dựa vào tài liệu của đảng Cộng Sản, Lữ Phương một lần nữa cho thấy có sự hợp tác giữa Phật Giáo và đường lối chính sách của Mỹ như sau trong sách: “Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN”, Nxb Văn Hóa, Hà nội, 1981.



    Quan điểm của Lữ Phương dựa trên các tài liệu từ nguồn của Cộng Sản, như thường lệ cũng cần rất dè dặt. Lữ Phương đã vạch ra kế hoạch tài trợ, việc gửi tu sĩ Phật giáo đi du học về giáo dục, y tế xã hội. Những dữ kiện mà Lữ Phương đưa ra đều dựa trên tài liệu của quỹ tài trợ Châu Á. (chương trình phát triển Phật giáo ở VN, tài liệu mật của đại diện VN gửi Giám đốc tổ chức này, trang 228, sách dẫn trên). Những người trong giới tu sĩ hay không phải tu sĩ, nếu đã dược chọn thì theo “chế độ du học đi thẳng”, nghĩa là chỉ qua Hội đồng du học của Bộ Giáo dục để làm thủ tục giấy tờ hành chánh mà Hội Đồng này không có quyền quyết định chọn lựa ai đi, ai không đi. Về điểm này, tôi có người bạn có chức vụ trong Hội Đồng du học có xác nhận là có như vậy.



    Sau này, những trí thức Phật giáo này trở thành niềm hãnh diện và một niềm hy vọng cho Phật giáo. Nếu trong tương lai, Viện Đại Học Vạn Hạnh được mở lại thì ta sẽ có đủ các giáo sư có trình độ để đảm đương công việc này.



    Rất tiếc là sau 1975, tất cả kế hoạch chủ trương trên đã tan rã trở thành mây khói như bất cứ những chương trình nào khác thời trước 1975.



    Trở lại sự nứt rạn mà TT Tâm Châu nhắc tới trong Bạch thư thì vào những năm 1972, nhóm các thượng tọa Thiện Minh và Thích Huyền Quang đã muốn tách ra khỏi chùa những nhóm tranh đấu. Vì thế, cuối năm 1973, Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Thích Huyền Quang đã bị các nhóm tranh đấu loại ra đến phải từ chức. Sau ngày giải phóng, Giáo hội Ấn Quang , cũng như Thiên Chúa giáo, đã bắt buộc chuyển cho nhà nước toàn bộ các trường học cũng như các cơ sở xã hội, các nhà nuôi trẻ mồ côi. Thượng Tọa Thích trí Thủ đã hoàn toàn tán đồng chủ trương đó. Nhưng các Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ phản đối việc trao trả các nhà nuôi trẻ mồ côi. Mối liên lạc hai bên, chính quyền và nhà chùa thêm tồi tệ đi đến chỗ đối đầu, phản đối. Có việc bắt bớ một số nhà sư. Trong số 4.000 chùa rải rác trong toàn miền Nam, người ta còn thấy sự giảm sút rõ rệt về số sư sãi, từ 3 chục ngàn xuống còn 10.000 người. (toàn bộ sư sãi ở ngoài Bắc phỏng chừng 4.000 người. Con số đưa ra không có gì là thực chứng cả).



    Theo một bài viết của ông Huỳnh Kim Quang: “Giáo Hội Phật giáo VN thống nhất, bốn mươi năm hành hoạt”. Đừng kể sự thống nhất đã có mặt kể từ đời Đinh với Khuông Việt làm Tăng Thống đầu tiên theo Lê Mạnh Thát. Hãy cứ kể từ 31/12/1963, tại chùa Xá Lợi, trong 5 ngày đã thông qua bản Hiến chương và thành lập GHPGVNTN.



    nghĩa thống nhất đó đã được minh thị rõ ràng như sau: “Quan niệm thống nhất Phật giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái cũng như của hai giới Tăng Sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo”.

    Xin để các giới chức thẩm quyền Phật giáo giải quyết những nan đề này.



    Nhưng tôi có một điều thâm tín rằng: Tổ chức nào bất kể, tôn giáo nào bất kể, ở thời kỳ nào bất kể, ở đâu bất kể, hễ có bàn tay của chính quyền CS dính vào, cầm chịch ở nơi đó là có điều chẳng lành. Người nào bênh vực quan điểm thế quyền của tôn giáo, với sự chi phối (ingérence), ngay dù chỉ là tài trợ vật chất, đã không hiểu rằng, yếu tính của tôn giáo là là Siêu Vượt. Ở trong trần thế mà để thoát ra khỏi trần thế. Cái mạnh trần thế với quyền lực, với đủ thứ kềnh càng vật chất, thay vì chỉ là phương tiện như cái thuyền chỉ để qua sông. Nay thuyền là chính, qua sông là phụ. Ấy là chỗ yếu, cái sa đà của tôn giáo vậy.



    Theo tài liệu trong bài viết của C. Bonjean, le point, 25 tháng tư, 1977: La résistance vient des pagodes (Sự chống đối đến từ các chùa). Tài liệu tiết lộ cho thấy có một số nhà sư chống đối chính quyền bẳng cách tuyên truyền, chống báng nhà nước, ngăn cản phật tử tham dự các buổi họp phường khóm, chống đối việc chuyển giao các cô nhi viện. Thậm chí tung tiền giả, truyền đơn đủ loại và cả vũ khí nữa, ngay cả giết các viên chức chính quyền như ở Trảng Bom vv…



    Trong một kháng thư của Viện Hoá Đạo gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ngày 9/2/1977, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đã liệt kê danh sách 19 Tăng Sĩ trên khắp các tỉnh miền Nam đã bị chính quyển CS bắt giữ mà không có lý do chính đáng. Đặc biệt có các TT Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Thuyền Ân, Thích Thông Bửu, Thích Thông Huệ, Thích Thanh Thể.



    Tôi nghĩ rằng danh sách các nhà sư bị tù đầy phải nhiều hơn thế nữa. Chỉ vì thiếu thông tin liên lạc mà thôi. Chẳng hạn, tôi không thấy một đại đức tuyên úy Phật giáo nào trong danh sách những người bị đi tù. Họ là những người đầu tiên bị đi học tập cải tạo.



    Về phía Thiên Chúa giáo (TCG) thì danh sách có vẻ đầy đủ hơn. Có cả thảy 303 linh mục, trong đó 109 là tuyên úy quân đội bị đi tù. Các tuyên úy quân đội sau 10, 15 năm được thả về, họ không có quyền công dân và bị cấm làm mục vụ.



    Trong khi đó, tôi cũng rất lấy làm ngạc nhiên là ký giả Alain Ruscio trong cuốn sách của ông ta Vivre au Viet Namcho rằng theo TT Thích Trí Thủ thì Phật giáo VN hoàn toàn tự do truyền đạo và hành đạo.



    Trong một bài phỏng vấn trả lời cho đài TF 1, truyền đi ngày 11 tháng 5, 1987 sau này, Thượng Tọa Thích Minh Châu, cựu viện trưởng viện đại học Vạn Hạnh, nhân danh nhóm Ấn Quang cho rằng ở Việt Nam hoàn toàn có tự do theo đạo, và rằng những nhà sư bị bắt là do những hành vi cá nhân của họ, không có liên quan gì đến tôn giáo.



    Giải thích về lý do số nam tu sĩ Phật giáo giảm đi thì được cắt nghĩa rằng một số bọn họ trước đây đi tu chỉ là để trốn quân dịch. Có đến 2 chục ngàn người đã trốn quân dịch như thế trong các chùa. Bằng chứng là số nữ tu sĩ vẫn không giảm.



    Dù giải thích thế nào thì việc đào luyện và tuyển chọn ở các chùa cần được xét lại, vì tình trạng tuyển chọn tùy tiện, thiếu phương tiện đào tạo có thể tạo ra một số tăng ni không đủ trình độ về mọi mặt.



    Cho đến hiện nay, tôi đã hỏi ý kiến một vị Thượng Tọa trách nhiệm đào tạo tăng sinh ở một Phật học viện, Vị TT cho biết quả thực có hiện tượng một số tăng ni ở các vùng quê đã gia nhập các tu viện với mục đích chỉ vì những lý do kinh tế. Điều đó cũng xảy ra tương tự cho các tu tập bên TCG. Tôi đã hỏi một LM bề trên làm thế nào ngăn chặn tình trạng các tu sinh từ các vùng quê nghèo khổ vào tu viện. Vị LM cho rằng, việc tu tập kéo dài 6, 7 năm. Thời gian sẽ giúp nhận ra ai là người có thiện chí tu tập, ai không.



    Mong là có những chọn lọc trong sáng để tránh tình trạng trong hàng ngũ tu trì có những người thiếu phẩm chất.



    Dù sao, đây vẫn là một cảnh báo thường trực. Chưa kể, người của chính quyền có thể gia nhập các tu hội, giả làm tu sĩ và gây rối, phá nát từ bên trong.



    Cách giải thích của TT Thích Minh Châu có điều không đúng hẳn như vậy. Bên TCG, kể từ sau 1975, việc truyền chức linh mục (LM) của TCG bị suy giảm đến trì trệ. Theo báo Công giáo và Dân tộc, số 747, ngày 11/3/1990. Năm 1963-64. có 21 LM được truyền chức. Cao điểm năm 1968-1969 có 61 LM. Năm 74-75 chỉ còn có 22. Nhưng kể từ 1975 đến 1990, trong suốt 15 năm, chỉ có 23 tân LM. Trung bình một năm có hơn một người được truyền chức LM.



    Sự suy giảm trầm trọng như thế ở phiá giáo hội TCG có thể áp dụng tương tự cho phía Phật giáo được không.



    Phiá Phật giáo còn có một vấn nạn trầm kha là có sự chia rẽ giữa những nhà sư theo GHPGVN và những nhà sư theo GHPGVNTN cho mãi đến nay vẫn chưa có cơ hội hòa giải được. Nhà nước CS đã lợi dụng kẽ hở về tổ chức của GHPG và tạo thêm những rắc rối giữa hai bên nhằm thủ lợi, dùng những thủ đọan vật chất tiền bạc, ngay cả nữ giới để mua chuộc. Rõ ràng là có bàn tay của chính quyền trong sự chia rẽ này.



    Trong kỳ Đại Hội Phật giáo VN toàn quốc diễn ra từ ngày 19 đến 23/11, 1998 đã thành công tốt đẹp. 47 tỉnh thành đã tiến hành bầu cử Đại hội Phật giáo ở các tỉnh. Đài BBC, 22/11, đưa tin về Đại Hội này đã lưu ý rằng chính tại Đại Hội này, một lần nữa Hoà Thượng Thích Minh Châu đã lên án một số phần tử lợi dụng Phật giáo để tạo các ảnh hưởng tiêu cực và phá hoại đất nước. Những phần tử này đã và đang bị cô lập”.



    Về phiá TCG giáo: Chính quyền cũng muốn cài nhóm tứ nhân bang như nói ở trên Và cho đến năm 1977-1988, người ta thấy có tên mấy LM sau đây cộng tác với chính quyền mới: Nguyễn Đắc Cầu, Lý Quý Phụng, Nguyển Hữu Thanh, Trần Quảng Nghiêm, Lê Ngọc Triệu, Nguyễn Văn Triều, Trần Văn Kim, Mai Đức Long và Phạm Trung Kiên.



    Những tu sĩ này bị chỉ mặt, bị cách ly đến độ không được nhìn nhận trong cộng đoàn TCG nữa. Họ trở thành những thứ LM quốc doanh và chỉ với hai chữ đó thôi, họ không làm được trò trống gì nữa.



    Có hai thái độ của các vị lãnh đạo TCG tiêu biểu là Hà Nội và Sài Gòn: Ở Sài Gòn và toàn miền Nam, TGM Nguyễn văn Bình chọn thái độ hợp tác với chính quyền mới. Sau 1975, toàn bộ hàng giáo phẩm lãnh đạo là các giám mục đều chọn ở lại, thay vì di tản. Điều này khác biệt hẳn với cuộc di cư năm 1954. Trong cuộc di cư năm 1955, có 5 vị Giám Mục và 700 linh mục đi theo giáo dân trong cuộc di cư này.



    Ngay từ ngày 19/4/1975, đã có một tuyên ngôn về vấn đề di cư ra nước ngoài, mang 102 chữ ký, (đợt 1) của nhiều thành phần như linh mục, tu sĩ nam nữ, dân biểu, giáo sư, cán sự xã hội, sinh viên, viên chức, lao động, y tá, nội trợ, thành viên hội đồng giáo xứ, phế binh… Họ bầy tỏ lo ngại về ý đồ của Mỹ, muốn lập lại phong trào di cư năm 1954. Họ tán đồng thông cáo của TGM Sàigòn kêu gọi đồng bào TCG không di tản. “Chúng tôi xác tín rằng dầu bất cứ việc gì xảy ra, chúng tôi sẽ ở lại quê hương để góp phần nhỏ mọn của mình vào việc hòa giải dân tộc”.



    Trong khi đó tại Hà Nội, TGM Khuê vẫn giữ khoảng cách trong tinh thần bất hợp tác. Cho mãi đến 16 tháng 8/1975, tòa GM Hà Nội mới ra một thông cáo mà nội dung hoàn toàn có tính cách đạo giáo, không có nhắc nhở gì đến biến cố 30 tháng tư. Sau đó, bản thông cáo để cho một LM thư ký đại diện ký tên là cha Trần văn Mai.



    Nên nhớ rằng giáo hội thầm lặng sau bức màn sắt bị nhiều kiểm soát, giới hạn đủ thứ. Người ta chưa quên được những giám mục chui ở miền Bắc. Cha Đaminh Đinh Đức Trụ, được tòa thánh cử làm giám quản giáo phận Thái Bình, 1955. Năm năm sau, 1960, được phong giám mục. Ông phải giả làm phu xích lô đạp, đến toà GM Hà Nội để được GM Trịnh Như Khuê tấn phong chui, sau đó ông lại sang Bùi Chu tấn phong chui cho GM Phạm Năng Tĩnh. Giám mục Phê rô Phạm Tần, được phong Giám Mục (GM) năm 1960, nhưng 21 năm sau, ngày 26/6/1975 mới chính thức được thụ phong GM. Giám mục Phạm Văn Dụ được chính thức phong GM năm 1960, tại Lạng Sơn, nhưng mãi đến năm 1979, do quân Tàu lấn chiếm sang VN, bắt buộc chạy về Hà Nội và bị kẹt lại Hà Nội cho đến 1990 mới được quay trở lại Lạng Sơn, nghĩa là sau 31 năm ẩn dật.



    Trong Hồi ký Tôi phải sống, LM Lễ kể lại có đi dạo với Hồng y Trịnh Văn Căn trên sân thượng, ông Hồng y có chỉ cho ông thấy một đường hình quả trám khổng lồ trên sân thượng như có ai mài rửa, chà sát trên đó. Và cho biết đó là dấu tích vết chân của Hồng Y Trịnh Như Khuê, trong suốt 20 năm bị quản chế, ngài đã chỉ đi bách bộ trên sân thượng này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước đi của Ngài đã tạo thành đường mòn hình quả trám như vậy. Nghe câu truyện này, tôi quá thương cho hoàn cảnh Đức Hồng Y tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo Hội miền Bắc lúc bấy giờ.



    Cho mãi đến năm 1974, sau 20 năm, giám mục phó Trịnh Văn Căn mới được phép sang Roma họp Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới. 20 năm bị trói, bị bưng bít, bị kiềm chế đối với thế giới bên ngoài.



    Hiểu hoàn cảnh giáo hội miền Bắc trong bối cảnh đó. Sẽ hiểu được cách ứng xử của lãnh đạo tôn giáo hai miền.



    Và sau đây xin tóm lược hoàn cảnh của hai giáo hội Phật giáo và TCG về bức tranh tôn giáo trên đất Bắc như biểu tượng. Ông Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ tôn giáo cao cấp của chính quyền Cộng Sản đã vẽ lại như sau: “Hầu hết chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà tôi đến thăm đều rêu phong tàn tạ. Các nhà sư lẩm cẩm sợ sệt, một bá cáo cụ, hai bá cáo cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với thời cuộc. Phật giáo gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín, cúng bái linh tinh và rất e dè trước khách lạ. Tín đồ Thiên Chúa giáo thì khổ cực, hằn sâu trong mắt họ những nét u uất thâm-nghiêm, nhưng rực lửa và sẵn sàng bốc cháy khi có mồi… (Đỗ Trung Hiếu: Thống nhất Phật giáo, trong hồ sơ: Hồ sơ Phật giáo thống nhất–Thống nhất Phật giáo).



    Những nhận xét của ông Đỗ Trung Hiếu thật sự không xa với thực tế bên ngoài. Nó là vậy đấy. Cứ ra Hà nội sẽ thấy điều đó là thật.



    Và sau cùng đây là danh sách những vị đã lên tiếng cho tự do tôn giáo xếp theo thứ tự A, B, C như sau, đặc biệt lưu ý không có trong danh sách TT Trí Siêu, người từng bị kết án tử hình với Tuệ Sĩ. Danh sách này do ông Nguyễn Chính Kết thực hiện ở trong nước, tôi chỉ xin chép lại.



    Gm Nguyễn Kim Điền. Hoà thượng Thích Quảng Độ. Lm Nguyễn Hữu Giải. Hòa thượng Thích Thiện Hạnh. Giáo sĩ Trương Chí Hiền. Thượng tọa Thích Chân Hỷ, Ông Nguyễn Chính Kết. Gs Nguyễn Ngọc Lan. Ông Lê Quang Liêm. Lm Phan Văn Lợi. Lm Nguyễn Văn Lý. TT Thích Thiện Minh. Mục sư Phạm Đình Nhẫn. Hòa thượng Thích Huyền Quang. Mục sư Nguyễn Hồng Quang. Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ. Thượng tọa Thích Không Tánh. Lm Chân Tín, v.v… và cuối cùng có cụ bà Nguyễn Thị Thu của Phật giáo Hoà Hảo đã tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền CS



    15/1/1976, bức tượng Thương Tiếc không còn thương tiếc nữa



    Thêm một ngày, thêm một tuần, thêm một tháng… Có điều gì thay đổi không? Có, vẫn có. Người ta xác nhận với nhau rằng: Bức tượng “Thương Tiếc” ghi lại hình ảnh một người lính Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) trầm ưu giữa 16 ngàn người lính tử trận, trên một ngọn đồi nay đã bị giật sập. Đây là một tin làm buồn lòng rất nhiều người. Bức tượng đó biểu tượng cho những cái chết đủ kiểu trong một cuộc chiến. Đối với người chết, không có kẻ thắng người bại. Trong một nghĩa trang quân đội, cái chết đều bình đẳng đối với mọi người, không còn biên giới của thù nghịch, không còn phân biệt niềm kiêu hãnh hay sự tủi hổ. Rõ ràng chỉ còn một thứ tình cảm thương tiếc, nhớ thương. Họ, những người lính, những đứa con đó không bao giờ trở về. Nhất là đối với những bà mẹ, người chị, người em gái, người vợ, những đứa con thơ. Đối với người vợ hay người mẹ tử sĩ, không có lý tưởng tốt hay xấu, không có lằn ranh thù địch mà chỉ có người chồng, người con đã mất. Nhất là bức tượng Thương Tiếc nay đã đi vào huyền thoại của tình nhớ thương, biến bức tượng trở thành linh thiêng sống động và gần gũi.



    Chỉ có điều đó là đáng kể. Ta đã lấy đi sự sống của chồng con họ, nỡ nào dập tắt một chút tình cảm nhớ thương Từ nay, họ không có chỗ đễ thăm hỏi người đã mất. Chẳng bao lâu, có thể nghĩa trang sẽ được san bằng và ta sẽ xây cái gì trên mảnh đất đó? Hận thù Chăng? Cố tình xóa bỏ để quên, vì tự nó biết quên đã là một điều thắng lợi? Như Jules Roy viết sau trận chiến Điện Biên Phủ: “Đối với một bà mẹ, không có lý tưởng tốt xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Ở đây, trước những ngôi mộ phần, cái biên giới thù nghịch không còn, sự kiêu hãnh cũng như cay đắng không còn, có chăng chỉ còn là niềm thương nhớ của một người đối với một người đã khuất”.



    Xin ghi lại đây về lịch sử bức tuợng “Thương tiếc” do ký giả Lô Răng viết:



    “Anh ngồi đó một mình, sau lưng là bao nhiêu người đã chết. Chiếc mũ sắt lỏng dây quai, súng nằm nghiêng một bên, dáng ngậm ngùi, mắt ngó mông về khoảng trước mặt. Anh đang thương tiếc ai. Bao nhiêu đồng đội vừa nằm xuống, những dãy mộ chí dài dằng dặc sau lưng anh biết bao giờ chấm dứt. Hay anh đang tiếc cho sức xuân của dân tộc đang chết dần đi trong cuộc chiến này. Pho tượng như có mang chứa linh hồn của người đã chết ở trên khắp mọi miền đất nước nên thiêng lắm. Người ta đồn rằng có những lúc trời chạng vạng tối, âm dương hỗn độn, người lính từ trên cao đi xuống ngồi bên vệ đường. Hoặc những lúc đêm khuya trăng lạnh, có tiếng hát thê lương từ bức tượng bay đi”.



    Vậy mà nỡ lòng nào dẹp bỏ đi. Bức tượng đã bị dật sập, đầu người lính chúi mũi xuống đất và cứ nằm ở vị thế tủi nhục như thế ngót nghét khoảng hai tháng trời. Sau đó được kéo về Dĩ An, Biên Hòa. Nơi đây, người ta đúc để lấy đồng đem bán. Hồn linh thiêng của gần 2 chục ngàn chiến sĩ theo những miếng đồng đó phát tán đi khắp nơi, tha phương cầu thực. Bây giờ có hối tiếc cũng không kịp. Có đắp bức tượng khác y như cũ cũng không được. Bởi vì bức tượng mang chứa linh hồn của người đã chết nên thiêng lắm. Cái hồn của bức tượng không còn nữa, phiêu diêu nơi nào, trôi dạt nơi đâu. Làm sao thay thế được?



    Thiêng lắm nên không có cái gì có thể thay thế được. Phải nói lại một lần nữa. Cho dù sau này có dựng lên một bức tượng Thương Tiếc khác cũng vô ích. Dựng ở đâu cũng thế thôi. Chả có ý nghĩa gì, vì nó thiếu cái linh hồn của gần 2 chục ngàn người lính đã nằm xuống nhập vào bức tượng. Bức tượng không phải chỉ là đồng, là sắt, là xi măng nữa. Nhưng là vong linh của những người lính VNCH.



    Trong trí nhớ nhỏ nhoi, trong tâm địa nhỏ nhoi muốn quét sạch quá khứ, kỷ niệm, tâm tình người miền Nam, ta trông chờ được gì nơi họ. Vì thế, bài viết này là một cuộc hành trình đi lại dĩ vãng, bằng cách chống lại sự quên lãng, mong mỏi mọi người nhớ lại. Hãy nhớ và đừng quên.



    Tết đầu tiên, sau Ngày Giải Phóng. Thứ bảy 31/1/1976 — Tết năm nay lặng lẽ khác thường. Thiếu hẳn cái nhộn nhịn, xôn xao, nôn nóng đón tết. Đúng ra là thiếu không khí tết. Mọi người như gượng gạo vui, gượng gạo cười. Tôi có nuôi một đàn gà vài chục con nay vừa biếu tết các anh, các chị hai bên, vừa để nhà dùng.



    Xe cộ ngoài đường cũng thưa vắng. Nay thì phương tiện chính là xe đạp. Cũng không có nhiều tiếng pháo nổ.



    Thay vào đó, khoảng 1 giờ, 1 giờ 30, một chuỗi tiếng nổ lớn làm dân thành phố tự nhiên vui mừng. Cứ mỗi lần có tiếng nổ là ngưởi ta lại nuôi hy vọng. Nếu lên sân thượng sẽ nhìn thấy những cột khói den bốc lên từ hướng Biên Hòa. Nhiều người cho rằng kho đạn Long Bình bị đốt cháy. Kết quả là trong dịp đầu năm có 180 người chết vì các vụ nổ và 200 người bị thương.



    Tất cả cũng chỉ là phỏng đoán. Nhưng sau này, tôi hỏi những người bị giam ở trại cô nhi Long Thành vào thời điểm này. Không thấy có kho đạn nào bị nổ cả.



    Tôi cũng được nghe kể, một số lớn viên chức chính quyền cũ từ giám đốc trở lên bị giam giữ ở đây. Trong những buổi học tập, người duy nhất có can đảm đứng lên phát biểu là luật sư Trần Văn Tuyên. Nhưng thường người ta kéo ông ngồi xuống. Sau này ông bị đưa ra Bắc và chết trong tù.



    Trong giai đọan này, có hai khuynh hướng khác nhau đối với tù cải tạo. Đám ít quá khích trong mặt trận thì nghĩ đến giải pháp thả một số tù cải tạo vào dịp tết và sẽ thả phần lớn vào dịp tháng tư, kỷ niệm một năm giải phóng miền Nam, đồng thời kỷ niệm ngày bầu cử Quốc Hội. Vả lại, phần đông những người của mặt trận thường có anh em, bà con thân thích phải đi học tập cải tạo nên cũng mong giải cứu sớm họ hàng của họ. Chẳng hạn con trai của ông Mai Văn Bộ và con trai của chủ tịch Huỳnh Tấn Phát đều là những sĩ quan trong quân đội Sài Gòn cũ.



    Nhưng có một điều chắc chắn và rõ rệt là nếu Ủy ban quân quản còn tồn tại, nếu người của mặt trận giải phóng miền Nam còn có cương vị và năm quyền hành trong tay thì việc đi học tập cải tạo đã không kéo dài như sau này. Rất tiếc, việc đó đã không xảy ra.



    9/1/1976 — Như có tin đồn trước đây, Nghiệp đoàn nhà thương Grall đã đứng lên đòi trục xuất bác sĩ giám đốc là đại tướng Fourré. Ông bị nhân viên bệnh viện tố cáo là lãng phí tài sản của nhà thương nay cũng là tài sản của chính quyền Việt Nam. Từ việc tố cáo này dẫn đến việc phải trục xuất giám đốc bênh viện vào trước thứ năm tuần sau. Với việc trục xuất này, chỉ còn duy nhất một bác sĩ người Pháp còn ở lại.. Việc đó củng sẽ bắt buộc chính phủ Pháp phải dóng cửa nhà thương Grall. Trong khi đó thì như thương thảo giữa hai chính phủ, chính phủ Pháp sẽ vẫn duy trì quản lý nhà thương Grall cho đến tháng 6 năm sau.



    Nhà thương Grall đã có một thư viện đồ sộ với 7 chục ngàn cuốn sách chuyên môn về các bệnh nhiệt đới và sẽ được chuyển giao cho chính quyền VN vào ngày 25 tháng 5 , 1976.



    Và sau này, một thánh lễ đã được cử hành lần chót tại nhà thương này vào ngày 23 tháng năm 1976 sau gần một thế kỷ hoạt động.



    12 tháng hai, năm 1976, một lần nữa, lại có chiến dịch truy quét tàn dư văn hoá Ngụy — Chiến dịch đó được đăng trong mục Diễn đàn của tờ Tin Sáng, trong đó vạch ra 56 tác giả nhà văn, nhà báo, nhà thơ mà nội dung sách vở của họ cấm không được đọc.



    Cứ mỗi lần có chiến địch truy quét tàn dư văn hoá ngụy tôi có cảm tưởng con người tôi bị xúc phạm. Tôi đã lớn lên ở đây. Tôi đã ăn miếng cơm miền Nam. Thở không khí này, được đào tạo ở đây. Tôi đã thích nhà văn này, đã mê đọc những nhà văn kia, đã say mê nghiền ngẫm triết lý của tác giả ngoại quốc này, tác giả kia. Nay tất cả những thứ đó, sản phẩm tinh thần cao quý đó bỗng dưng bị xếp loại tàn dư Mỹ Ngụy. Phải tịch thu, phải đốt. Tàng trữ là phản động.



    Công việc càn quét này lại giao vào tay các em bé 10 đến 15 tuổi.



    Tôi có cảm tưởng chính quyền lợi dụng tuổi thơ mà đáng lẽ tuổi các em được miễn trừ. Tuổi các em là để vui đùa, ca hát, để nhởn nhơ, để chỉ biết yêu mà không biết ghét, không biết oán hận.



    Thế giới của các em là thế giới trẻ, không biết việc người lớn làm.



    Các ông chính quyền kể như tàn ác. Các ông bắt trẻ con đi đánh tư sản mại bản, đi càn quét văn hoá Mỹ Ngụy đồi trụy. Nào phải công việc của các em. Tại sao các ông không làm? Tại sao cứ xúi trẻ con ăn cứt gà? Tại sao biến học đường thành một xưởng đào tạo những người máy Robot về chính trị? Hãy trả học đường về cho thầy giáo, cô giáo. Tại sao những bàn tay non nớt đó châm lửa đốt sách? Có khác gì ngày nay, người ta bắt các bé gái đi làm điếm? Mỹ-Ngụy biết gì về Hermann Hesse, về Kierkergaard. Ông Nguyễn Văn Thiệu, Kissinger biết gì về những tư tưởng cao quý đó?



    Đó là sản phẩm tinh thần của cả nhân loại liên quan gì đến Mỹ Ngụy. Tức muốn chết.



    Thứ hai 12 tháng 2/1976, vụ Vinh Sơn: mở đầu cho một biến cố — Ngày đầu năm mới đã nổ ra vụ Vinh Sơn. Nốt nhạc hợp tác giữa địa phận Sài Gòn và chính quyền đang có vẻ là trơn chu thì nổ ra vụ Vinh Sơn. Vụ Vinh Sơn do chính Linh mục (LM) Nguyễn Quang Minh, chính xứ và một vài người lẻ loi chủ xướng, dùng vũ lực chống lại chính quyền. Nó không có bất cứ một liên quan xa gần nào đến thẩm quyền Giáo Hội cũng như vụ Cha Nguyễn Văn Vàng, dòngChúa Cứu Thế (CCT) sau này vào năm 1970-1980. Ngay khi vụ việc xảy ra, TGM Nguyễn Văn Bình đã phát biểu như sau tại Hội Trường Ủy Ban NDCM quận X ngày 14-1-1976: “Tôi rất buồn trong cái tình trạng thật là đau khổ của tâm hồn tôi, tôi thấy không biết dùng lời nói nào để tỏ ra cái tâm tình của tôi trong lúc này”.



    Vụ nhà thờ Vinh Sơn được báo chí cho nổ bung ra. Tờ Sài Gòn Giải Phóng, số 177 đưa tin: đã phá vỡ một ổ phản cách mạng, đội lốt tôn giáo. Nó chẳng đội lốt tôn giáo gì cả. Người chủ chiên của họ đã xác nhận chỉ là cá nhân ông LM làm phản.



    Tờ Tin Sáng, số 161 thì đưa tin: “Những bằng cớ tịch thu được của bọn phản cách mạng chứng tỏ bọn họ muốn phá bỏ những thành quả của nhân dân ta rrong suốt 100 năm nay.” Người ta được biết rằng, đây là một âm mưu phản loạn có võ trang vũ khí đầy đủ, được che dấu trong nhà thờ Vinh Sơn. Báo chí cũng phanh phui một ổ phản cách mạng khác được ngụy trang công giáo tại khu công giáo Tân hiệp, Biên Hòa. Nguời ta cho hay rằng, bọn phản động đội lốt tôn giáo do bàn tay CIA Hoa Kỳ nhúng vô với sự trang bị đầy đủ điện đài, Radio và phát tuyến.



    Bọn họ tung ra những tin đồn thất thiệt, gây hoang mang trong dân chúng. Người chủ động là LM Nguyễn Quang Minh, chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn. Báo Sài Gòn Giải phóng (SGGP) cũng đưa ra những tin tức nóng hổi vừa ra lò tố cáo LM Nguyễn quang Minh chỉ là LM giáo gian. Ban đêm, ông này thường dẫn gái vào nhà thờ để làm bậy.



    Tờ báo còn cảnh báo giới công giáo cần thay đổi thái độ và thay đổi lập trường đã lỗi thời của họ. Đồng thời cần gia nhập vào quần chúng, mạnh dạn tố cáo những thành phần phản động còn ẩn náu trong lòng các cơ chế của Giáo Hội.



    Trong vụ Vinh Sơn này, những người chống đối chính quyền đã cầm cự và cố thủ bên trong nhà thờ Vinh Sơn. Chính quyền đã tỏ ra khách quan bằng cách mời mấy người đại diện TCG như quý ông Huỳnh Hữu Đặng, Nguyễn Đình Đầu và LM Nguyễn Huy Lịch đến chứng kiến vụ vây bắt những người cố thủ bên trong nhà thờ. Sau đó chính quyền đã dùng biện pháp mạnh. “Dầu trong khi dùng biện pháp mạnh đó, chính quyền còn tế nhị muốn tránh được chừng nào hay chừng đó sự thiêt hại cho nhân mạng, sự thiệt hại cho cơ sở nhà thờ và chính tôi thấy khi nãy những vết súng bắn vào tường bất đắc dĩ như thế, nhưng cố tránh những tượng thánh. Tôi rất cảm động”. Đó là lời phát biểu của cụ TGM Nguyễn Văn Bình về vụ Vinh Sơn, tại hội trường Uỷ ban Nhân dân Cách mạng (UBNDCM) quận 10, ngày 14-2-1976.



    Sau này, trong dịp nói chuyện với Vũ Sinh Hiên, Đức TGM Nguyễn Văn Bình đã tâm tình: “cho đến giờ này, tôi vẫn còn ngờ ngợ”. Nắm bắt được ý của ông, Vũ Sinh Hiên đã không hỏi thêm nữa.



    Kết quả, LM Nguyễn Quang Minh bị kết án tử hình.



    Sau khi biến cố hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị phá hoại, Nguyễn Thụy Long (NTL) cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và nhà văn đã bị bắt vì vụ này. Sau đó, ông bị giam cạnh phòng các tử tội là LM Nguyễn Quang Minh. Xin nghe lại lời nhân chứng là nhà văn NTL trong vụ này:



    Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ… “Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi”.

    Sau này thầy Tuệ Sĩ (Thầy Tuệ Sĩ tên thật là Phạm Văn Thương, sinh ở Pakse, bên Lào bị bắt giam hai lần, lần đầu 1978-1981, lần hai ngày 1-4-1984, nhưng mãi đến năm 1988, trong một phiên xử kéo dài ba ngày 28, 29, 30/9/1988, Thầy Tuệ Sĩ bị kết án tử hình. Nhưng nhờ Uỷ Ban Bảo Vệ quyền làm người VN, Liên Hiệp Quốc, chính quyển phải giảm án xuống 20 năm khổ sai. Ngày 2/9/1998, thầy Tuệ Sĩ được trả tự do sau 14 năm khổ sai) và thầy Trí Siêu, tức Lê Mạnh Thát, cũng âm mưu làm phản, có võ trang, với khoảng 30 người đồng bọn, cũng bị bắt, cũng ra tòa cùng với ni sư Trí Hải, cũng lãnh án tử hình, sau giảm xuống chung thân, rồi cuối cùng được thả ra. Hiện nay, thầy Lê Mạnh Thát làm phó viện trưởng Học Viện Phật Giáo VN và được giao trọng trách xây dựng một Đại học Phật Giáo trong tương lai. Sắp tới đây, ông sẽ tổ chức một buổi hội thảo về Phật giáo vào các ngày 14/15 tháng 7.



    Hai giai đoạn, hai biện pháp.



    Có lẻ niềm mong mỏi thâm sâu của người Phật tử là có được một Khuông Việt như một giải đáp cho những vấn nạn hiện nay.



    Thứ tư 17 tháng 3/1976, thanh niên xuống… đường làm vệ sinh — Thường mỗi khi sinh viên học sinh xuống đường là có chuyện. Xuống đường là để đi biểu tình, để đòi hỏi, để phản đối một điều gì. Ngay cả khi xuống đường ủng hộ một điều gì thì cũng gián tiếp chống đối một điều gì.



    Đó là truyền thống của sinh viên (SV), học sinh.



    Nay theo báo chí nhà nước, có hơn một triệu thanh niên, sinh viên xuống đường làm sạch thành phố chuẩn bị đón cuộc bầu cử sắp tới với sự có mặt của các nhà báo ngoại quốc. Tôi không tin vào con số đó. Tôi cũng có mặt trong thành phố này và không có gì cho phép tôi cả quyết có một triệu sinh viên, học sinh xuống đường trên tổng số 3 triệu dân thành phố. Tôi cũng đang dạy một số lớp học và tôi cũng không thấy ai điều dộng cho công việc xuống đường này. Cái thói quen thổi phồng thì ai cũng biết rồi. Ừ thì cứ cho là một triệu đi thì điều đó thay đổi được gì diện mạo tthành phố.



    Cho dù có thay đổi một chút về diện mạo thành phố thì làm thế nào thay đổi được diện mạo 3 triệu khuôn mặt của thành phố ấy. Những khuôn mặt xanh xao mất máu, ủ rũ và buồn nản là diện mạo dân Sài Gòn.



    Các Sinh viên nay đã đi vào nửa năm học, nhưng hình như họ cũng chưa bắt đầu công việc học, vì còn nhiều nhiệm vụ trước mắt phải làm và kể từ nay, để được nhận vào các trường đại học, họ phải có giấy chứng nhận là “đã tham gia vào những hoạt động chống Mỹ và tay sai”.



    Phải chăng, việc xuống đường làm vệ sinh thành phố là cái giấy chứng chỉ đầu tiên cho mỗi sinh viên nhập học.



    Thứ tư 31 tháng 3/1976, những người con của đảng — Có 50 vạn người đã dự cuộc mít tinh để đưa 25 ngàn thanh niên lên đường đi về các vùng kinh tế mới.

    Cũng lại vấn đề những con số. Những con số làm phiền.



    50 vạn người tiễn đưa 25 ngàn người thanh niên lên đường đi kinh tế mới.



    Cũng như mới đây, cũng đã có những buổi lễ tiễn đưa những người con của đất nước lên đường đi nghĩa vụ quân sự.



    Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh chưa đầy một năm. Việc tuyển quân mang ý nghĩa gì. Con trai của một dân biểu cũng đã gia nhập quân đội trong những dịp ra quân này. Nhân dịp này, ông đã làm bài thơ bầy tỏ nỗi lòng của người cha vui mầng khi thấy con mình đi làm nghĩa vụ cho tổ quốc. Sự bầy tỏ làm nhiều người quen biết ông đến ngạc nhiên. Có phải thật sự là ông không? Xưa nay, con nguời ấy có cần bầy tỏ công khai về một việc là con mình đi thi hành nghĩa vụ quân sự. Nếu là một nhiệm vụ bình thường của một xã hội mà đến tuổi trưởng thành, thanh niên có bổn phận nhập ngũ, hà cớ gì ông bầy tỏ một cách hồ hởi như vậy? Sau này, các con trai ông đều trở thành đảng viên đảng Cộng Sản, đi học các lớp sĩ quan của quân dội nhân dân..



    Những con số làm phiền — Tôi nhắc lại đây như một điều chẳng nên nói như thế nữa. Những con số làm phiền, những con số quấy nhiễu, những con số ảo, những con số mà Tờ Sài Gòn Giải Phóng, số 234, nghĩa là sau gần một năm ngày 30-4 cho tin đến ngạc nhiên, không phải miền Nam mà chính miền Bắc cứu trợ miền Nam: Hà Nội đã vắt ruột gửi vào Nam 1.600.000 tấn vật liệu hàng hoá và lương thực như gạo, đường, xăng dầu, trang thiết bị và phân bón cũng như thuốc men. Thêm vảo đó 32 triệu mét vải đủ loại cũng được gửi vào Nam cho dân chúng may mặc. Trong khi đó, miền Bắc chỉ nhận được một con số nhỏ nhoi là 80.000 tấn sản phẩm của miền Nam.



    Vụ nổ ớ tháp con rùa đưa đến việc bắt bớ giới văn nghệ sĩ — Thứ sáu, mồng 2 tháng tư. Đây là chuyện có thật, không phải là tin đồn nữa. Một vụ nổ lớn, dữ dội, vang động cả thành phố. Ngã tư tháp con rùa, sau nhà thờ Đức Bà vẫn là điểm hẹn hò của trai gái trên đường Duy Tân. Nhiều người còn nhớ bài hát của Phạm Duy: Con đuờng Duy Tân, cây dài bóng mát.Trả lại em yêu, con đường học trò. Tiếng nổ chắc có gây thương tích và người chết nên có xe cứu thương chạy qua chạy lại.



    Dù sao vụ nổ này chẳng gây được tiếng vang gì. Báo ra ngày thứ bảy quy kết tội cho bọn phá hoại muốn gây rối trong ngày bầu cử sắp tới. Một trong những người phá hoại đã tử thương và một số người khác đã bị bắt.



    Sau vụ nổ ở tháp Con Rùa, hơn 200 trăm văn nghệ sĩ, nhà văn, giáo sư đã bị bắt đi tù. Chẳng hạn như các ông Nguyễn Sỹ Tế, Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường (HHT). Sau này ông HHT thì chết trong tù, riêng ông Vũ Hoàng Chương được thả về nhà mấy bữa thì đã qua đời.



    Thứ bảy 17 tháng tư 1976 — Kết quả cuộc bầu cử sắp tới thì như ai nấy đều biết cả rồi. Nhưng người ta vẫn làm như thể không ai biết và báo chí, loa phóng thanh vẫn làm công việc cổ võ tuyên truyền cho việc đi bầu cho đông. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trong một buổi họp vào ngày thứ ba đã trả lời một câu của một thính giả: Tại sao không có ứng cử viên đối lập. Trả lời: Quyền hành ở trong tay nhân dân, nhân dân là những thợ thuyền, người nông dân, nghĩa là nằm trong tay đa số. Vậy đối lập là đối lập với ai. Không lẽ nhân dân lại đối lập với chính mình. Nhân dân sẽ đi bầu và xác lập cái quyền làm chủ đất nước (ses droits de maitre du pays).



    Trong khi đó, tòa đại sứ Nhật chính thức đóng cửa. Tòa Đại sứ Pháp thì kiên nhẫn hơn. Thư từ ngoại giao bị lục tung và bị kiểm soát. Phản đối cũng chẳng ăn thua gì.



    Bộ đội thì được thưởng một ngày thứ ba đi coi chiếu bóng miễn phí. Kết quả là trên đường Trần Hưng Đạo có vụ nổ bom với 25 người chết và 80 người bị thương. Rạp Đại Nam gần đó cũng lãnh một vụ nổ Plastic.



    Tờ SGGP, số 262 hiển nhiên không đăng tải những tin về những vụ nổ này. Nhưng đã chạy bốn cột báo với nhan đề: “Dân chúng thành phố đã vui mừng tham gia vào việc giữ gìn an ninh bảo đảm an ninh nhân dịp cuộc bầu cử Quốc Hội sắp tới”

    ———————



    Kể từ ngày 30 tháng 4/1975 — Nay đã gần được một năm. Để kết thúc một năm sau ngày giải phóng, chính quyền quyết định một cuộc bầu cử trên toàn quốc. Danh sách 44 ứng cử viên của thành phố Sài Gòn đã được niêm yết. Phần lớn là người trong đảng, điều đó là dĩ nhiên rồi. Có một vài người của MTGPMN, một vài trí thức tiêu biểu của thành phần thứ ba và để tỏ ra dân chủ, có thêm một ứng viên là thợ làm cho công ty CARIC của Tây.



    Trong danh sách cử tri, người ta nhận thấy có điều gì không ổn. Ở Hà nội, có 43 vạn đàn ông đi bầu so với 44 vạn đàn bà. Chênh lệch là 10 ngàn người. Một tỉ lệ chênh lệch hiểu được vì số đàn ông đi lính, tử trận. Riêng tỉ lệ cử tri đi bầu ở Sài Gòn có khoảng cách khá lớn giữa hai phái. Có một triệu cử tri phái nữ, nhưng lại chỉ có 75 vạn cử tri đàn ông. Có một khoảng cách tỉ lệ giữa hai phái khá xa làm nhiều người thắc mắc, đặt thành câu hỏi. Vậy con số 25 vạn đàn ông ít hơn này, họ đi đâu? Trong các trại cải tạo?



    Hay là do không được phép đi bầu? Điều đó vẫn không ai biết được một cách rõ ràng tại sao.



    Thứ tư mồng 7 tháng tư 1976 — Thành phố chăng đầy các biểu ngữ về ngày bầu cử sắp tới. Nhiều biểu ngữ có nội dung ca ngợi đảng Lao động muôn năm. Báo chí thì viết đầy các tiểu sử các ứng cử viên. Tất cả đều là những cựu kháng chiến không chống Pháp thì cũng chống Mỹ.



    Người ta ghi nhận một điều là trong tiểu sử bà Nguyễn Thị Bình không có ghi ngày sinh tháng đẻ. Truyền thống của Tây là không nên nhắc đến tuổi của phụ nữ chăng? Tiểu sử chỉ ghi một cách rất mơ hồ là bà đã chống Pháp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường trung học. Chống thế nào thì không ai được biết.



    Cũng có trường hợp một ông bác sĩ tên Nguyễn Ngọc Hà, ông này tham gia phong trào những người Việt Nam yêu nước ở nước Pháp từ năm 1948 cho đến hôm nay. Ông về nước lúc nào và tham gia cuộc bầu cử này dưới danh nghĩa gì.



    Trong dịp kỷ niệm một năm ngày Giải Phóng, các báo cũng đăng tải hồi ký của Tướng Văn Tiến Dũng. Đây là một hồi ký đánh bóng mình không ít. Đồng thời làm giảm vai trò của tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc chiến kết thúc chiến tranh ở miền Nam.



    Sau này, hồi ký đã bị đánh giá là thấp, thiếu trung thực, nhiều chỗ thổi phồng. Theo cụ Trường Chinh, chủ tịch Quốc Hội, cuốn sách này có khá nhiều điều viết không trung thực.



    Cũng trong dịp đặc biệt và hiếm hoi này, người ta lại thấy xuất hiện cờ Mặt Trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN) ở dinh cựu Tổng Thống Thiệu.



    Thứ sáu, 16 tháng tư 1976 — Để đánh dấu một năm sau ngày Giải Phóng, người ta có một hai thống kê về chỉ số sinh hoạt kinh tế như sau để người đọc tiện việc theo dõi:

    – Chỉ số về giá sinh hoạt thực phẩm từ tháng tư 1975 đến tháng tư 1976 tăng 183,44 %.


    – Chỉ số về giá sinh hoạt không phải thực phẩm tăng cũng cùng thời gian trên là 401%.



    Những con số thống kê gia tăng như trên chẳng nói được gì và cũng chẳng phản ánh thực tế đời sống của người dân. Nó làm ra có vẻ khoa học mà chẳng có gì khoa học.



    Cuối cùng thì dân vẫn có cảm tưởng là đói đến nơi rồi. Đó là tín hiệu rõ rệt nhất về sinh hoạt đời sống của người dân. Cái gì cũng khan hiếm như thể biến đâu mất.

    – Cũng trong dịp này, theo báo Tin Sáng của ông Ngô công Đức, do nguồn tin của dân chúng, chính quyền đã tịch thu 2700 m3 các ấn phẩm, tương đương 2 triệu cuốn sách và hàng tấn sách vở tịch thu tại 5 địa điểm được dấu sau đây:

    237 đường Điện Biên Phủ, 127 Nguyễn thị Minh Khai, 193 Nam Kỳ Khởi Nghĩa và tại số 28 và 62 Lê Lợi. Kho sách này của ai? Thưa một phần của ông Khai Trí.

    Vậy mà bằng cách nào sau này, ông có tên trên một bảng đường thành phố ngay từ lúc còn sống như đã trình bầy ở trên?



    Thứ năm 22 tháng tư 1976 — Các em tiểu học được chỉ dạy để về nói với cha mẹ bầu cho ai và không bầu cho ai. Ở quận ba, có chuyện rỉ tai không bầu cho các ứng viên số 1, số 3 và số 13. Những ứng viên này chỉ có mặt cho có hình thức. Họ là những người thuộc thành phần ứng cử viên tôn giáo và tư sản cũ. Có một số cán bộ phường đến từng nhà khuyên dân chúng nên bầu cho ai.



    Cái điều chính yếu mà người dân quan tâm trong cuộc bầu cử này là họ sẽ có được tờ giấy chứng nhận đã đi bầu. Tờ giấy có giá trị như tấm căn cước hay một thứ chứng minh nhân dân. Tất cả chỉ có chừng đó là quan trọng, còn ai đuợc bầu, ai không được không phải việc của họ.



    Cũng trong dịp này, báo chí cho biết theo thống kê thì ở miền Nam có 1328 bác sĩ cho 24 triệu dân. Nghĩa là 18000 dân, có một bác sĩ. Số bác sĩ này bao gồm cả bác sĩ từ miền Bắc vào? Người ta ước lượng có từ 300- 500 bác sĩ di tản theo Mỹ. Vậy số còn lại ở đâu? Có thể còn ở trong các trại học tập cải tạo.



    Thứ sáu, ngày 23 tháng tư: Tờ Tin Sáng loan tin: dân chúng sẽ đi bầu đông đảo, đúng cách và nghiêm chỉnh. Còi báo động của thành phố với những hồi thật dài mở màn cho cuộc bầu cử tại các phòng phiếu vào đúng 7 giờ. Đảng uỷ thành phố cũng không quên yêu cầu dân chúng ăn mặc tề chỉnh, quét dọn nhà cứa phía trước cho sạch sẽ. Một vài hãng thông tấn còn sót lại như hãng AFP đã đi một công điện như sau, mặc dầu đã có sự kiểm duyệt: “Người ta vẫn theo thói quen bàn đến vụ nổ lớn ở khu vực Long Khánh vào ngày 24 tháng 4 vừa qua. Vụ nổ lớn kéo dài đến tận Sài Gòn cũng nghe thấy tiếng nổ. Chung quanh khu vực đó, có nhiều trại cải tạo tập trung, không biết vì lý do thiếu an ninh mà sau này các trại đó đã chuyển dần ra phía ngoài Bắc.”



    Chủ nhật, ngày 25/4/1976: ngày bầu cử, kết thúc một năm Sài Gòn sau 30/4/1975 — Hôm nay là ngày lịch sử. Toàn quốc đã đi bầu. Ngoài đường cấm xe cộ lưu thông. Đường phố vắng vẻ, chỉ trừ các xe phóng thanh đi tuyên truyền. Những người đi xe đạp hoặc xe gắn máy thì có các người gác các nút chặn yêu cầu xuống xe dắt bộ.



    Trên đường phố, chỉ còn những đoàn người, phần lớn là phụ nữ thanh niên, thiếu nữ, do các tổ dân phố hay phường khóm hướng dẫn đến các địa điểm bỏ phiếu. Mọi sinh hoạt đình chỉ. Ngay cả những ngưởi buôn bán lẻ dọc đường phố cũng phải tạm nghĩ, tạm lánh mặt.. Không khí vui vẻ và tấp nập.



    Có nhiều nơi, như trong Chợ Lớn, 10 giờ toàn thể dân chúng trong các khu phố đã làm xong nhiệm vụ đi bầu.



    Một vài máy bay phản lực bay lượn trên không vụt qua vụt lại, tiếp theo là hai trực thăng kêu phành phạch trên trời làm tăng thêm cái vẻ nghiêm trọng trong ngày bầu cử. Đến xế chiều, kể như công việc bầu cử đã hoàn tất từ lâu. Thành phố Sài Gòn như một thành phố ngủ, không một bóng người hay xe cộ qua lại. Ngoài đường chỉ còn lại xe cộ qua lại của công an, cảnh sát. Những người giữ trật tự an ninh, đeo băng đỏ trên xe phóng lướt nhanh, dáng vẻ khẩn trương của một màn kịch sắp đến hồi kết thúc. Trật tự đạt mức độ an toàn tuyệt đối và hầu như không có một sự cố nào xảy ra, dù nhỏ thôi. Không có phá hoại, không có mất trật tự, tranh dành.



    Sau một năm, thành phố Sài Gòn đã đổi diện mạo. Sài Gòn không còn là Sài Gòn năm trước nữa.



    Đối với người dân thành phố, vấn đề không phải là bầu ai, vì đó là nhiệm vụ của chính quyền. Đối với họ, điều quan trọng là tấm giấy chứng nhận đã đi bầu. Vậy là đủ.



    Nếu có điều gì đáng nói trong chuyện bầu cử này như một câu chuyện bên lề. Đó là chuyện “Big Minh” đi bầu. Ông này vừa được chuyển về từ miền Bắc về lại miền Nam cách đây hai tháng. Big Minh đã đi bỏ phiếu tại trường Tây cũ Saint Exupéry trước mặt một số phóng viên ngoại quốc như báo L’humanité của Pháp và L’Unita của Ý.



    Cũng tin đồn cho hay Nhân vật số 1 là ông Phạm Hùng đã bị hai người ngồi xe gắn máy nhắm bắn về phía ông ở góc bà Huyện Thanh Quan, khi ông vừa dời khỏi nhà ở đường Tú Xương, vào lúc 6 giờ 45 sáng để đi bầu. Người tài xế của ông bị thương, phần ông không sao cả. Sau đó hai người trên xe gắn máy đã bị bắt ngay. Những ngày sau đó, trước dinh của ông Phạm Hùng, luôn luôn có 4 người an ninh gác cửa.



    Xin lưu ý mọi người là các đường Tú Xương, bà Huyện Thanh Quan, nhất là Trương Định là nơi trú ngụ của các nhân vật cao cấp đảng Cộng Sản bây giờ. Mỗi khi vào Sài Gòn là họ ở đấy. Nó cũng giống như ở Hà nội, dọc đường Hoàng Diệu đều là dinh thự của các cấp lãnh đạo đảng và nhà nước. Tôi đã đến thăm nhà bà quả phụ Vũ Đình Liệu ở số 28 đường Trương Định và lúc ra về, bà đã chỉ cho biết bên kia đường, xế phía tay phải là nhà ông Phó Thủ Tướng Dũng, một nhân vật có nhiều dấu hiệu sẽ dành được chức vụ Thủ Tướng trong kỳ sắp tới đây.



    Thứ tư ngày 28/4/1976 — Báo chí cho hay chỉ có khoảng 95% dân chúng miền Nam đi bầu, so với 99,82% cử tri miền Bắc đi bầu. Nhưng riêng các tỉnh Minh Hải, bao gồm Cà Mâu và Bạc Liêu, số người đi bầu là 100%. Một tỉ lệ tuyệt đối không đâu sánh bằng.



    Ở Sài Gòn, có 9 người không đắc cử, trong đó có 6 phụ nữ. Trong số 35 người đắc cử, có 8 phụ nữ, hai nhà sư, một linh mục Thiên Chúa giáo và 6 người thuộc Mặt trận Giải Phóng miền Nam. Mặc đầu kết quả được sắp đặt, người ta vẫn thấy sự sắp xếp có phần lộ liễu. Có thể nào có một sắp đặt ít lộ liễu hơn được không? Chúng ta muốn lộ liễu hóa một điều mà tự nó đã lộ liễu rồi? Con số nhiều nơi 100 phần trăm đi bầu, bất kể những trường hợp ốm đau, sinh đẻ hoặc có những lý do bất khả kháng.



    Tưởng những con số trên là phi thực lắm rôì, vậy mà gần một phần tư thế kỷ sau, 3 tháng trước ngày bầu cử 14/11/1999, thủ tướng Phan Văn Khải đã tuyên bố: “Phải tổ chức bầu cử thật dân chủ” (SGGP ngày 24/8/1999). Dân chủ thật. Số cử tri đi bầu HĐNDTPHCM đạt tỉ lể 99, 84%, bầu đủ số 85 đại biểu.



    Nhân tiện đây cũng nhắc đến nhà văn Tô Hoài, Ông là nhà văn đi công tác nước ngoài nhiều lần nhất ở ngoài Bắc trước 75.. Ông kể truyện, mỗi lần đi công tác nước ngoài là phải đi mượn quần áo của Bộ tài chánh: “… giày không có dây, cả thành phố không đâu bán dây giày và hộp kem. Tôi lại phải đi xin dây giày và mượn cái cà vạt của Nguyễn Văn Bổng”. Nói về người bạn cũ di cư vào Nam, ông viết với giọng khinh miệt như sau: “… còn cái thằng Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, làm báo Tự Do ở Sài Gòn… Tôi được biết nó ở lại Sài Gòn. Có lẽ cũng không ai buồn xách cái tã ấy đi di tản’”. Và viết về bầu cử, ông đã trơ trẽn tả lại một cách tự nhiên như sau: “Chỗ nào cũng tíu tít… có người đi bầu hộ cả nhà… Khi mọi người đã ra về, chúng tôi bóc miếng giấy dán niêm phong, đổ cả thùng phiếu ra mặt bàn. Hai chúng tôi mở từng cái phiếu rồi lại bỏ vào thùng. Cả phiếu không gạch tên, phiếu trắng cũng bỏ lại vào. Chỉ để riêng ra cái phiếu nào viết vẽ nhảm nhí hay viết phản động. Những phiếu này gói lại, tự tay trưởng ban đem nộp lên khu. Trong những năm nay tôi làm việc, mấy lần bỏ phiếu thành phố hay toàn quốc đều làm như thế theo kế hoạch mật của khu”. Đặc biệt nhà văn này, chúng tôi giới thiệu tài liệu trích dẫn ở trong cuốn hồi ký Chiều Chiều, của ông do nxb Hội Nhà Văn, dày 562 trang. Hình như ông vào ngụ ở Đàlạt thì phải.



    Đó là sản phẩm của những đầu óc chính trị quá mẫn. Người ta vẫn chưa tìm được một sự dung hòa giữa ảo và thực, giữa sự nghiêm chỉnh và sự đùa nghịch. Sự nghiêm chỉnh (esprit du sérieux mà theo Voltaire cái nghiêm chỉnh thì thiếu cái duyên dáng, đối lại với esprit du ridicule) mà dấn đến mức quá độ, tuyệt đối, nó không chừa cho bất cứ kẽ hở nào của thực tế thì nó biến thành sự khôi hài, kệch cỡm. Tỉ lệ đi bầu 99,82%, đắc cử ở mức độ tín nhiệm tuyệt đối 99.76% là một chuyện quá nghiêm chỉnh trở thành chuyện khôi hài.



    Phải có một đầu óc lãng mạn chính trị ghê lắm mới đưa ra được kết quả trên.



    Vì thế mà hội Hài ước thế giới đã phải tặng Việt Nam giải chú Hề Vàng. Ông Phuck Temall, chủ tịch Hội đã phát biểu: “Bộ máy nhà nước hiện nay là trò hề lớn nhất mà chúng ta từng được biết tới, không có đối thủ cạnh tranh. Ông nhấn mạnh là tính khôi hài của bộ máy nhà nước Việt Nam vượt quá sức tưởng tượng của bất cứ người sáng tác nào: “Không một nhà viết kịch bản nào có thể bịa ra được những tình tiết ly kỳ như hiện thực Việt Nam, không một nhà hài ước nào có thể nghĩ ra dược những phát ngôn tiếu lâm của các quan chức nhà nước”.



    Ở Sài Gòn, bà Bình dẫn đầu với 97% phiếu bầu. Đáng nhẽ cần minh định rõ hơn tý nữa. Bà Bình đã được tín nhiệm với 97% phiếu trên tổng số 95% số cử tri đi bầu. Nguyễn Hữu Thọ 95% và Võ văn Kiệt 94%, Huỳnh tấn Phát 92%. Một vài ghi nhận là ông Phạm Hùng, nhân vật số 1 ở miền Nam chỉ đạt tỉ lệ đắc cử là 92% ở quận 3. Ngôi sao Phạm Hùng đang đi xuống. Bà Dương Quỳnh Hoa, bộ trưởng y tế, không phải đi xuống mà có vẻ bị thất sủng chỉ đạt được 81% phiếu bầu ở quận hai. Tỉ lệ 81% là quá thấp như một rẻ rúng.



    Vì vậy, có thể xem kết quả bầu phiếu để biết được số phận tương lai chính trị của các nhân vật lãnh đạo nhà nước.



    Ít ra thì một cuộc bầu cử về mặt này cũng tỏ ra có ích lợi, nhờ đó người dân biết được ai còn, ai mất.



    Có vẻ như bộ máy bầu cử ở trong Nam có điều chi trục trặc. Nó không tuân thủ một trình tự sắp xếp tính toán từ trước.



    Ngoài Bắc, riêng ở Hà Nội, nghiêm chỉnh hơn nên khôi hài hơn. Số người đi bầu là 99,82%. Trong khi đó, nhân vật số 1 miền Bắc ông Lê Duẩn, Tổng bí thư dẫn đầu với 99,76%, Thủ tướng Phạm văn Đồng 99,73%, Trường Chinh 99,60%. Tất cả 6 nhân vật cao cấp của chính phủ đều đạt tỉ lệ 99,35% số phiếu bầu. Nhưng theo kết quả công bố, ngay cả những ứng viên không được bầu, nghĩa là rớt không trúng cử, cũng đạt được tỉ lệ 50% số phiếu. Làm sao có thể người trúng cử đạt tỉ lện hơn 90% số phiếu đi bầu và người rớt cũng đạt được 50% số phiếu bầu.



    Ở một mặt khác, người ta để ý thấy tỉ lệ số phiếu của bà Bình phải thấp hơn so với tất cả các vị lãnh đạo miền Bắc. Tỉ lệ của Bí thư phải cao hơn Thủ Tướng và cứ thế, cứ thế, sự cao hơn đến độ vô nghĩa cũng cần phải được tôn trọng.



    Tin tức báo chí về kết quả bầu cử nghiêm chỉnh, đứng đắn như thế nên ông Hồ Ngọc Nhuận đã có nhận xét như sau về hai nền báo chí Sài Gòn trước và sau giải phóng. Ông nhận xét khá chính xác khi nói: Báo chí ngày nay ít dành chỗ cho biếm họa. Mà nếu có cũng ít khi thấy đã. Có lẽ là vì báo chí bây giờ ngay ngắn, đứng đắn hơn chăng. Người ta nhớ thuở nào làng báo Sài Gòn có những họa sĩ “Ớt”, tức Huỳnh Bá Thành cùng với các họa sĩ Chóe, Diệp Đình v.v… Sau 30 tháng tư, họa sĩ Ớt mới lộ diện là một cán bộ chỉ huy điệp vụ cách mạng. Ông Hồ Ngọc Nhuận cho biết tiếp như sau về câu chuyện hoạ sĩ Ớt: “Chiều 28/4/75, sau vụ ném bom của Nguyễn Thành Trung, chúng tôi thấy nhóm ông Minh bị cô lập, tôi liền thực hiện ý định. Tôi gặp anh Hồ Ngọc Nhuận và tự xưng là điệp báo của Mặt trận, truyền đạt lời yêu cầu của cách mạng đến ông Minh, rằng ông nên giao chính quyền lại cho cách mạng”



    Thứ sáu 30 tháng tư- 1976, kỷ niệm một năm sau ngày Sài Gòn giải phóng

    - Sáng nay, tờ Sài Gòn Giải Phóng đã chạy một tít lớn như sau: “Cũng ngày nay năm ngoái, quân đội chúng ta gồm năm binh đoàn đã tiến vào Sài Gòn, trong khi hằng triệu người đã nhất tề đứng lên hưởng ứng cuộc cách mạng thành công”.



    Ngày kỷ niệm diễn ra một cách êm ả. Không có mít tinh mà cũng không có biểu tình. Trên trời, có hai nhóm máy bay, mỗi nhóm ba chiếc máy bay chiến đấu, có thể là máy bay phản lực A 37 của quân lực VNCH cũ bay lượn nhiều lần và bay sà trên thành phố.



    Chỉ có điều con số 5 binh đoàn, nay đổi ra là 15 binh đoàn. Đối với người dân, chẳng ai thắc mắc cái chuyện 5 hay 15 binh đoàn. Đó là công việc của nhà nước.



    Văn phòng báo chí AFP sẽ đóng cửa vào ngày mồng 8 tháng năm sắp tới loan tin còn có 30 vạn người còn bị giam giữ trong các trại học tập. Bản tin này đã bị nhà cầm quyền kiểm duyệt từng chữ một. Dầu vậy, cũng đánh động được Amnesty International (Hội Ân xá quốc tế) và các cơ quan bảo vệ nhân quyền trên thế giới để can thiệp.



    Ngô Công Đức đã tổ chức một bữa ăn để kỷ niệm ngày 30 tháng tư 1976, tại nhà nghỉ mát Thanh Đa của ông. Ông đã mời tất cả các bạn bè đã từng sát cánh tranh đấu với ông trong thời kỳ đệ nhị cộng hoà. Không có danh sách những người bạn cũ là những ai. Nhân dịp này, đám khách khứa, bạn bè cũng kiểm điểm xem ai mất, ai còn, ai là người đã đi xa.



    Buổi họp mặt vui thật, nhưng đã có người báo cáo về những câu chuyện bàn tán trong bữa tiệc. Vì thế có kiểm điểm, cảnh cáo. Dư âm nghe nói mãi tận ngày 30/4 năm sau vẫn còn.



    Và kể từ đó, Hồ Ngọc Nhuận thề không dám mời những lần hội ngộ như vậy nữa. Và nếu có ai mời, cũng không dám tham dự nữa.



    Một vài con số về tình trạng giáo dục đại học sau 75 — Trước 75, số sinh viên ở các đại học miền Nam là 131.500 người. Cho mãi đến cuối tháng 12, 1975, một số Đại học mới bắt đầu mở cửa học lại. Và sau 4 tháng học, người ta ghi nhận chỉ có 29.000 sinh viên tham dự kỳ thi cuối năm nay. Nếu tính số dân miền Nam là 29 triệu dân thì chỉ có 3.976 sinh viên ở trình độ cao học.



    Cho đến nay, Sài Gòn thiếu trầm trọng các bác sĩ. Trường Y khoa chỉ thu nhận 349 sinh viên trên số 5.558 ứng viên ghi danh. Trường Nha 100 sinh viên và dược khoa 79. Thời trước 75, số sinh viênn Y nha dược là 15000 sinh viên, cộng thêm 883 sinh viên Đại Học Sư Phạm.



    Cũng ghi nhận là nay tất cả các trường từ trung học đến đại học đều thuộc trường công lập của nhà nước. Không có hệ thống các trường tư thuộc giáo hội TCG, Phật Giáo, trường Tàu hay tổ chức nào khác. Chương trình giáo dục kéo dài 12 năm, thay vì 10 năm như ở ngoài Bắc.



    Chương trình trong các trường có một số đặc điểm như:



    • Ưu thế hàng đầu cho chính trị trong các bài về văn chương, sử ký, địa lý và ngay cả toán học.


    • Ưu thế cho các bài học đạo đức chính trị về vô sản, đề cao đảng, tôn sùng cá nhân bác Hồ kính yêu.


    • Tinh thần ái quốc cực đoan, sô vanh (chauvin) đề cao sức mạnh của đất nước và quân đội, gieo rắc sự nghi ngờ và hận thù.


    • Các giáo chức phải luôn được giáo dục cải tạo để thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa xã hội. Các bài học đưuợc phân phối mỗi hai tuần một lần và giờ làm việc của giáo chức trung bình ngày 12 tiếng với số lương khoảng 20 chục ngàn đồng tiền cũ.



    Sau một năm, người dân tự hỏi tương lai sẽ ra sao? Thấm thoát mà đã hơn 30 năm rồi.



    Câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời trọn vẹn.



    Theo Dương Thu Hương, sau 30/4/1975, nó còn những chiều kích đau khổ khác. Và chính những chiều kích ấy mới là tổn thất khủng khiếp nhất. Một năm sau ngày giải phóng, miền Nam là một xã hội tan rã và hủy diệt về mọi phương diện: phá sản về đạo lý con người, một xã hội băng hoại mất hết mọi giá trị đạo đức, luân lý cổ truyền. Chính sách đi học tập cải tạo vô hạn định có thể lừa được người dân trong ngắn hạn, nhưng sau này trả rất đắt, nói không ai nghe, không ai tin nữa, mất hoàn toàn tín nhiệm nơi dân chúng. Giải thể MTGPMN và thống nhất đất nước vội vã là một phản bội miền Nam, một sai lầm chiến thuật, bất cập. Đi kinh tế mới là một chính sách đầu voi đuôi chuột, đem con bỏ chợ, nhằm trả thù hơn là lợi ích kinh tế hay xã hội. Nó thất bại ngay từ đầu đến nỗi sau này không ai còn muốn nhắc tới nữa. Rồi đánh tư sản mại bản, chính sách đổi tiền, chính sách bài trừ và xua đuổi người Hoa ra khỏi nước, việc mang quân sang xâm chiếm Campuchia. Tất cả dẫn đưa đất nước vào vòng lao lý, tù tội hận oán mãi đến bây giờ chưa hết. Một xã hội bị xoá trắng về Văn Học nghệ thuật, phá sản về tư hữu, một nền kinh tế kiệt quệ lâm vào cảnh đói nghèo báo hiệu nguy cơ sụp dổ toàn diện.



    Về đối ngoại, đóng cửa các tòa đại sứ, nhất là tòa đại sứ Hoa Kỳ, trục xuất các người ngoại quốc, chiếm hữu tài sản của các công ty người Pháp là tự mình cô lập chính mình. Hủy bỏ mọi cam kết, ký kết, các thương ước thương mại, các khoản cho hoặc vay mượn, các cơ quan từ thiện quốc tế, các tổ chức nhân đạo, các quỹ tiền tệ Quốc tế, các ngân hàng ngoại quốc… mà VNCH đã nhiều năm xây dựng là một việc làm ngu xuẩn. Vì thế, phải nhiều năm sau này chính quyền CS mới khôi phục và nối kết lại bang giao với các cơ quan Quốc Tế vừa kể trên.



    Chúng ta đã bịt tai không thèm nghe về tư thế và lợi ích chiến tranh của Việt Nam giữa hai đại cường, nên đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Andrew Young đã nói rõ như sau: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở Châu Á. Không phải một bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 01-1977)



    Như thế, Việt Nam đã bỏ mất nhiều cơ may đưa đất nước tiến lên và phát triển. VN đã tụt hậu gần 20 năm trong sự trì trệ và ngu dốt. Đã có một lịch sử đứt đoạn phân chia rạch ròi trước 1975 và sau 1975. Đã có một giai đoạn mất mát, cắt đứt với cộng đồng quốc tế và đất nước rơi vào tình trạng nghèo đói, lạc hậu và chậm tiến.



    Đó là một lỗi lầm lịch sử lớn lao mà trách nhiệm là đảng cầm quyền CS.



    Cả một tập đoàn cán bộ cao cấp đều thiếu một cái nhìn viễn kiến, một chính sách hợp tác quốc tế ngay từ đầu. Cái tư thế chính trị, quân sự của ta lúc bấy giờ là lớn lắm nếu có một chính sách ngoại giao cởi mở, mềm dẻo, biết điều, không hỗng hãnh quá lố đến lố bịch sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế. Ta đã ngu dại, ngủ quên với những chiến thắng, coi trời bằng vung.



    Và cho đến bây giờ, cái đảng cầm quyền đó vẫn vấp phạm những sai lầm lớn nhỏ với tình trạng tham nhũng hầu như vô phương cứu chữa.



    Một nhận xét cuối cùng của tôi sau một năm ngày giải phóng là:



    Họ đã làm mất lòng dân mà họ không cần biết — Sau một năm giải phóng, Tất cả mọi người từ già tới trẻ, từ đủ mọi thành phần xã hội đều mất tin tưởng và thấy rằng đất nước này không khá dược nếu còn đảng CS.



    Xu hướng này đến nay càng rõ nét. Phải thay đổi, phải dẹp bỏ đảng CS nếu muốn đất nước đi lên.



    Cho đến nay, những gì họ tuyên truyền để phá huỷ, trù dập, phỉ báng, bôi nhọ, kết án, v.v… thì sau thời kỳ đổi mới kể từ 1986… Họ làm cuộc cách mạng trở về với cái cũ, cái mà họ từng phỉ nhổ, lăng nhục. Và một biểu tượng hết ý hết lời về đất nước mình, ấy là hình ảnh những cột xi măng thay vì phải là cột xi măng cốt sắt, nó lại là những cột xi măng cốt tre.



    Đất nước này chỉ toàn là những cột xi măng đúc bẳng cốt tre thay vì cốt sắt. Chúng ta hãy tự chọn cho mình một thái độ thích hợp.



    Hết

    ——————





    GS. Nguyễn Văn Lục



    Nguyễn Văn Lục: Bài viết này mà tính chất là ký như một truyện kể, để cố gắng đạt được tính sinh động, nhẹ nhàng và bớt nặng nề của một bài khảo luận. Người viết đã không làm footnote dưới mỗi dẫn chứng và xin chỉ liệt kê một số sách, số tài liệu chính đã sử dụng trong bài viết này. Nhiều chỗ, nhiều đoạn đã lấy nguyên văn để cho có được độ chính xác và nghiêm túc. Sau nữa cũng không liệt kê vô số các tài liệu rút ra từ các báo ngoại quốc, các bản tin hay tiếng Việt như Tin Nhà, Đi Tới, Sài Gòn Giải Phóng…



    Tài liệu ngoại quốc được trích dẫn từ cuốn:



    La mousson de la liberté của Brigitte Friang.

    Vivre au Viet Nam của Alain Ruscio

    L’aigle et le dragon của Claude de Groulat.

    La guerre d’Indochine của Lucien Bodar.

    Le temps des chiens muets. Mgr Paul Seitz. Flamarion.



    Cũng xin cám ơn các bạn Nguyễn Trọng Văn đã cho tôi có dịp in Cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận mà tôi đã xử dụng nó rất nhiều trong bài viết này. Cám ơn đặc biệt bạn Đỗ Hữu Nghiêm đã gửi cho tôi cuốn: 30 năm công giáo VN dưới chế độ CS, 1975-2005 mà tôi đã dùng để trích dẫn nhiều tài liệu quý giá về Thiên Chúa giáo của những tác giả như Đỗ Hữu Nghiêm, Trần Ngọc Báu, Vũ Sinh Hiên, Lê Thiên và giáo sư Nguyễn Chính Kết. Sau chót, không quên Nhận Định 10, trong nước, ngoài nước của Nguyễn Văn Trung.



    Về phía các tác giả phương Tây thì tôi chẳng có cách gì để liên lạc để cám ơn họ cả, dù có muốn cám ơn.




    Nguyễn Văn Lục
    16/04/2024

    https://hon-viet.co.uk/NguyenVanLuc_30T ... nhMat3.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Bà Phan Thị Minh Yến, Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ

Bài viết bởi Hoàng Vân »







  • Bà Phan Thị Minh Yến,
    Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ






    Từ một nữ sinh trường đầm kiêu sa, thành bà Tướng đầy uy quyền, rồi thế thời đổi thay thành thợ hớt tóc 30 năm dài để nuôi 4 người con nên người mang tên QUANG, MINH, CHÍNH, ĐẠI, đặt tên theo tâm niệm của người chồng chiến binh một đời anh dũng.



    Đó là Bà Phan Thị Minh Yến, phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ, vị tướng tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực VNCH, một trong 5 vị tướng Miền Nam đã tuẫn tiết để nêu cao khí phách anh dũng và để gìn giữ danh dự của một quân đội vừa mới thua trận trong biến cố 30. O4. 1975.



              

              

    …Vào năm 1954, cô Phan Thị Minh Yến còn rất nhỏ, nhà ở Cầu Đất, Hải Phòng bắt đầu theo cha mẹ di cư vào Nam. Cô gái Bắc Kỳ nho nhỏ được gia đình cho học chương trình Pháp tại Sài Gòn và đã có câu chuyện tình từ năm 17 tuổi. Khi được 19 xuân xanh thì chính thức lập gia đình với một anh Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.



    Lúc đó là mùa Xuân năm 1964. Chàng hơn nàng 10 tuổi. Nhưng trước sau cô Yến chỉ có một mối tình từ khi biết yêu cho đến lúc thành hôn. Tiếp theo là 10 năm làm vợ lính thời chinh chiến. Rồi bắt đầu làm mẹ. Những đứa con lần lượt ra đời. Các cháu Quang, Minh, Chính, Đại. Ba đứa con trai đầu lòng đặt tên với niềm tự hào của người cha cương trực sống trong một hoàn cảnh đất nước nghiêng ngả. Nhưng cô Út bé bỏng, xinh đẹp chỉ được gọi là em Đại ở trong gia đình. Khi ở ngoài lớp học thì đây là cô nhỏ Tường Vi của bà mẹ Hải Phòng.



    Suốt thời gian thơ ấu, người cha đi chinh chiến đêm ngày. Các con phần lớn sống gần gũi và trông cậy vào mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh người cha quân đội vẫn là chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ cho cả mẹ con.



    Tháng 4 năm 1975, bà mẹ 29 tuổi dẫn 4 con từ 6 tuổi đến 10 tuổi di tản qua Hoa Kỳ. Người chồng chỉ huy đơn vị nên không có cơ hội tiễn chưn vợ con. Lần chia tay sau cùng mà vợ chồng không biết là lần vĩnh biệt. Anh đã ra đi vào miền vĩnh cửu khi quân đội tan hàng. Không một mảnh khăn tang. Không một giọt nước mắt. Vợ con cũng không hề biết tin về cái chết của người thân yêu. Năm đó chưa 30 tuổi, cô Phan Thị Minh Yến trở thành góa phụ ở vậy nuôi con cho đến năm nay 2008 vừa đúng 33 năm.



    Qua Hoa Kỳ, một mẹ và 4 con nhỏ, Minh Yến bắt đầu bằng nghề cắt tóc. Cố gắng tự lập nuôi con. Vừa làm mẹ, vừa làm cha. Từ nữ sinh trường đầm ở Sài Gòn, trở thành vợ lính sống cảnh gia binh, rồi trở thành góa phụ.



    Sau bằng ấy năm trời, các con đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học, có cháu nội cháu ngoại. “Hỏi rằng bây giờ chị làm gì” Còn làm gì nữa. Trước sau cũng chỉ làm một việc cắt tóc chải đầu.



    Nhưng nghề chính là vừa làm cha vừa làm mẹ.



    Làm mẹ thì cũng dễ vì đã làm mẹ từ Việt Nam. Nhưng làm cha cho những đứa con trai ở Hoa Kỳ mới thiệt khó. Tất cả đều phải quyết định một mình. Không bàn với ai được. Ba đứa con trai ở tuổi niên thiếu tại miền đất lạ. Biết bao nhiêu là khó khăn. Chuyện học hành, chuyện sinh sống, chuyện yêu đương của các cháu rồi đến chuyện hôn nhân. Cái gì cũng là chuyện của các con.



    Khi được hỏi rằng “thế chị làm ở tiệm tóc thì làm chủ hay làm thợ”. Được trả lời rằng “trước sau chỉ làm công mà thôi. Đã bảo rằng nghề chính là làm mẹ, nếu bôn ba mở tiệm, e rằng không có đủ thì giờ trông nom lũ nhỏ.”



    Hỏi rằng “đi làm như vậy có gặp những điều gì khó chịu không.” Trả lời rằng “lúc đầu cũng thấy tủi thân lắm. Nhưng rồi thì cũng phải nhịn nhục cho quen đi. Vả lại, ở đây cũng không ai biết hoàn cảnh mình ra sao nên cứ việc mình, mình làm. Cũng thi lái xe, cũng lấy bằng, cũng tìm đường đi học nghề, đi làm và nuôi con. Vâng, việc chính là nuôi con”.



    “Chị có buồn giận về chuyện anh nhà đã không đi được vào năm 1975 hay không” Trả lời rằng “thì anh nghĩ coi, ai mà chả muốn có vợ có chồng. Các con muốn có đủ cha mẹ. Nhưng phần số đã như vậy thì mẹ con phải sống sao cho phải đạo với sự hy sinh của ông nhà tôi. Ông ấy mà còn thì cũng chỉ muốn cho các con của chúng tôi được học hành tốt nghiệp đại học, rồi dựng vợ gả chồng cho các cháu như bây giờ gia đình tôi đã được như vậy.”



    Ngoài việc hãnh diện về chuyện con cái, bà mẹ gốc Hải Phòng còn kể thêm với niềm hào hứng đặc biệt. Đó là mối thuận thảo với mẹ chồng.



    Số là ngay sau khi di tản qua Hoa Kỳ, gia đình được tin chồng chết nên đã tìm cách báo về Bắc cho bà mẹ già biết tin. Tội nghiệp chưa. “Ông nhà tôi, lời chị Yến, cũng di cư vào Nam từ 54, mẹ con xa nhau 21 năm không liên lạc. Bây giờ bà cụ mới biết tin con dâu và các cháu ở Mỹ thì đồng thời cũng biết tin con trai đã qua đời”.



    Những năm đầu ở Hoa Kỳ cũng rất chật vật nên không tiếp tế được nhiều. Những năm sau này bắt đầu gửi tiền về miền Bắc cho bà cụ. Chính tôi là con dâu mà chưa hề biết mặt mẹ chồng. Đến khi liên lạc được thì chồng đã chết. Gia đình tôi và các cháu tiếp tục liên lạc về Bắc. Mấy năm gần đây cụ vào Nam gặp các bà chị tôi rồi thu xếp cải táng đưa di hài nhà tôi về Bắc. Xong công việc quan trọng, cụ mới qua đời mấy năm gần đây.



    Vâng, thưa quý vị, tôi vừa kể hầu quý vị một câu chuyện của bà mẹ Việt Nam trong nghĩa vụ thay chồng làm cha thời hậu chiến kéo dài hơn 30 năm tại Hoa Kỳ. Một người thiếu nữ 10 năm làm vợ nhưng đã có đến 30 năm vừa làm cha, làm mẹ, và làm dâu hàm thụ qua thư tín.



    Cũng suốt 33 năm tại Hoa Kỳ, với vốn liếng Pháp văn và Anh ngữ của trường Đầm Sài Gòn, trước sau bà cũng vẫn chỉ là cô Yến làm tóc tại Hoa Kỳ. Bởi vì, người phụ nữ Việt Nam đơn giản này đã có một nghề cao quý vô cùng mà bà phải hết lòng theo đuổi. Đó là nghề làm mẹ. Do đó Ngày Của Mẹ hàng năm sẽ là ngày đặc biệt đối với những đứa con của bà.



    Và mỗi năm, ngày tang 30 tháng 4 cũng là ngày giỗ bố của đám nhỏ. Bà mẹ Việt Nam tổ chức giỗ chồng bằng âm lịch những vẫn dặn con vào ngày cuối tháng 4, dù ở đâu cũng phải dành cho bố những giây phút tưởng niệm.



    Bởi vì thân phụ của các cháu đã chết đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tên ông là Lê Nguyên Vỹ, người Sơn Tây, Bắc Việt, chết tại Lai Khê miền Đông Nam Phần.



    Ngày nay, tại ngôi đình làng cũ tỉnh Sơn Tây có thờ bài vị của tướng công Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Binh Đoàn Số 5 của quân đội Sài Gòn. Ông đã tự sát vào ngày đất nước đã rơi vào tay giặc.



    Đó là cách ghi nhận của người đồng hương Sơn Tây với một chút tự hào. Và hình ảnh của ông vẫn trong lòng các con Lê Nguyên Quang, Lê Nguyên Minh, Lê Nguyên Chính và con gái út Lê Nguyên Đại Tường Vi tại miền Virginia Hoa Kỳ.

    Đối với lũ trẻ Quang Minh Chính Đại, ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào cũng là Ngày Của Mẹ./-

    https://hon-viet.co.uk/BaPhanThiMinhYen ... uyenVy.htm
Hình đại diện
Hoàng Vân
Bài viết: 20304
Ngày tham gia: Thứ sáu 20/03/15 16:11
Gender:

Vượt thoát

Bài viết bởi Hoàng Vân »






  • Vượt thoát
    Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích





    Tù chuyển trại trên những chiếc xe tải của quân đội Liên Xô. Xe che kín bằng tấm vải bạt, dù rất kín đáo, nhưng dân chúng hai bên quốc lộ vẫn phát hiện được đoàn xe chở tù.



    Nhìn qua khe hở của tấm bạt phủ xe, tù nhân nhìn thấy hai cụ gìa giậm chân la khóc, tay vẫy vẫy về hướng đoàn xe khiến cho anh em tù xúc động rơi nước mắt. Vài chiếc honda rượt theo cố lượm những mảnh giấy nhắn tin của tù thả rơi đang cuộn bay trong bụi đường. Tù hy vọng những tờ giấy nhắn tin ấy sẽ đến tay thân nhân của họ ở tận các vùng Kinh tế mới xa xôi.



    Nhà tù mới, nằm sâu trong khu rừng già. Trại được xây dựng kiên cố. Tường thành bằng gạch xi măng bọc quanh khu nhà giam. Tường cao trên hai mét, đầu tường cơi thêm ba đường dây kẽm gai. Phòng giam mái ngói, vách gạch, một cửa ra vào và bốn khung cửa sổ nhỏ. Sáu mươi tù nhân chen chúc trong một diện tích chưa đầy tám mươi mét vuông. Mỗi người có năm tấc bề ngang chia đều trên hai dãy sạp bằng thân cây nứa đập dập.



    Chính sách giam giữ tù chính trị không thời hạn lại đặt vào thành phần nguy hiểm của chế độ. Lối hành xử của công an là trút hận thù bằng những ngón đòn vô cùng tàn độc. Bản nội quy là sợi dây trói chặt tù không còn cựa quậy, khắc nghiệt hơn cả thời Bắc thuộc.Tù xây nhà giam để nhốt mình, lao động sản xuất đủ mọi ngành nghề để nuôi sống bản thân và nuôi cán bộ cả nước.



    Trong sản xuất, chúng buộc tù phải tăng chỉ tiêu tối đa. Ngược lại, tiêu chuẩn phần ăn hạ mức tối thiểu đến tàn nhẫn. Không cho tù ăn no. Những người từng ở tù qua bốn chế độ: Pháp, Nhật, Quốc gia và Cộng sản, đã so sánh và khẳng quyết rằng: Không có nhà tù nào vô nhân đạo bằng nhà tù Cộng sản. Ðói, lạnh, lao động khổ sai và đàn áp tinh thần là bốn biện pháp giết người tối độc. Ðức quốc xã tiêu diệt dân Do thái tại lò hỏa thiêu bằng hơi ngạt, Cộng Sản tiêu diệt tù chính trị bằng cách tiêu hao sinh lực lần mòn. Cái chết đến từ từ, kéo dài sự đau đớn triền miên. Không chết vì mất sức, bệnh tật trong trại giam,cũng chết vì bệnh nan y sau khi ra khỏi tù.



    Một cái Tết thứ tư trong tù ngắn ngủi vô vị xói mòn niềm hi vọng được trở về với gia đình. Cái mốc thời gian ngồi tù mù mù tăm tăm! “Lao động tốt, cải tạo tiến bộ”là tiêu chuẩn để xét duyệt tha tù, chẳng khác gì bức tranh vẽ cánh đồng cỏ nhử trước mắt loài ngựa nức lòng đi tới.



    Qua Tết, trại bắt đầu khởi công xây chiếc cầu treo nối liền hai bờ sông Côn. Cầu dài gần trăm mét. Vật liệu phần lớn do tù tự chế và góp nhặt. Người đứng ra vẽ kiểu và thiết kế cây cầu là tù nhân Trần Xuân Lộc, một cựu sĩ quan Công binh đã từng tu nghiệp tại Hoa Kỳ.



    Sáu tháng ròng rã, Lộc miệt mài trong công việc. Anh phơi nắng dầm mưa, xông xáo từ nơi này đến nơi khác cùng với một toán tù được tuyển chọn gồm những tay chuyên môn thuộc các ngành liên hệ. Họ làm việc không ngơi nghỉ nhưng thích thú và tự hào. Niềm vui trong công tác này là Lộc được phục vụ cho người dân địa phương đã mong ước bao đời nay có một cây cầu để qua lại con sông trong mùa nước lũ. Cuối cùng, công trình hoàn tất mỹ mãn.



    Chiếc cầu treo trông khá đẹp mắt và nên thơ. Nổi bật trên hai môi cầu là bốn trụ vươn cao bằng những thanh sắt đường rầy xe lửa ghép đôi làm điểm tựa cho hai đường dây cáp bằng thép giăng qua sông. Từ xa, trông chiếc cầu duyên dáng như một cây đàn dây. Cầu đứng sừng sững, hiên ngang vượt qua dòng nước cuồn cuộn chảy.



    Ngày khánh thành có cả đại biểu cấp Quân khu và Tỉnh về tham dự cùng với đồng bào địa phương. Ban giám thị trại nhận bằng tuyên dương đã thực hiện thành công tốt đẹp công trình có phẩm chất cao. Người ta chẳng đá động gì đến công lao của người đứng ra lãnh trách nhiệm như một Công trình sư. Từ bản vẽ thiết kế đến điều hành đều do một tay Trần Xuân Lộc.



    Trong buổi lễ, Lộc ngồi trong đám tù khổ sai với chiếc áo rách tả tơi. Chiếc áo mà anh vẫn mặc hàng ngày suốt thời gian xây dựng cây cầu dưới mưa nắng. Kẻ bất tài; cướp công được vinh danh cười rạng rỡ. Buồn thay cho thân phận Lộc, anh chỉ là một tù nhân!



    o 0 o



    Thời tiết đã qua khỏi ngày Ðông chí. Cơn mưa dầm dứt hẳn. Bầu trời quang đãng. Những lọn mây trắng bắt đầu bay lơ lửng trên đỉnh rừng già. Mặt trời đi trốn suốt mùa Ðông cũng trở về mang ánh nắng vàng vọt rải đều trên đồi nương ngọn cỏ,. Nắng bị khuất phục bởi khối lạnh cắt da đang ngự trị trong miền thung lũng. Màu nắng trở nên yếu ớt xanh xao vàng vọt như màu da bệnh hoạn của đám tù đang phơi mình dưới ánh nắng đầu mùa. Những khuôn mặt trắng bệch thũng nước và thân hình vẹo vọ với làn da nhăn nheo bày ra đầy đủ những góc cạnh, xương xẩu trên thân thể con người. Nhìn vào những bộ xương cách trí ấy, không một ai có thể ngờ rằng trước đấy không bao lâu, họ là những người trai cường tráng đầy sinh lực đã từng sống một thời oanh liệt.



    Từ bốn ngày qua, đội 3 được điều động đi khai phá thung lũng Bảy Mẫu trồng khoai lang. Ðội phải xuất trại đầu tiên và nhập trại sau cùng. Ðường đến khu sản xuất mất gần hai giờ di chuyển. Cuốc và rựa được cột lại thành bó rồi phân công tù vác đi ở cuối hàng.



    Sáng nay, khí trời giá buốt, sương núi mờ mịt làm ướt sũng cây rừng. Toán 1 phụ trách chặt cây và phát quang quanh khu vực. Họ phải mặc áo mưa trong lúc làm việc. Số người khác giẫy cỏ, cuốc đất, vun thành từng vồng cao rồi giâm những đoạn dây rau lang xuống đấy. Họ âm thầm làm việc như đám người máy không ngưng tay. Tiếng rựa chặt cây, tiếng cuốc bổ vào lòng đất tạo thành những âm thanh khô khốc, như nỗi chai cứng của tâm hồn người tù. Chốc chốc lời quở trách của quản giáo dội xuống đầu tù nhân làm việc lơi tay như ngọn roi quất vào tâm não làm tăng thêm cơn đói rã rời.



    Cứ mỗi mười lăm phút điểm danh một lần. Theo thông lệ, anh đội trưởng tù là người số một, rồi người kế cận đếm số hai và cứ như thế cho đến anh cuối cùng. Cách thức kiểm tù này là một trong những khuôn mẫu tại các trại tập trung mà Cộng sản Liên Xô đã áp dụng sau cuộc cách mạng tháng Mười đẫm máu tại nước Nga. Không một tù nhân nào bỏ trốn mà không bị phát hiện kịp thời.



    Thời gian chờ đợi tiếng còi nghỉ ăn trưa dài thê thảm. Những lát sắn luộc buổi sáng đã hết sạch trong bao tử tự bao giờ. Phần ăn trưa vẫn là chén cơm ghế sắn thêm một ít canh rau lang với muối và bột ngọt. Lượng thức ăn như thế, nào có đủ ca-lo-ri cho một cơ thể phải làm việc cật lực trong suốt tám tiếng đồng hồ, chưa kể thời giờ phải lội bộ lên dốc xuống đèo trên con đường đầy đất đá.



    Ngoài xã hội, Việt cộng áp dụng chính sách bần cùng hóa nhân dân. Thu tóm mọi nguồn tài sản về cho Ðảng. Ðời sống của cả nước chẳng khác gì một nhà tù.



    Mác ví tư bản là con đỉa hai vòi. Một vòi hút máu dân trong nước, vòi kia hút máu dân thuộc địa. Trên thực tế, chế độ Cộng Sản như loài đỉa nhiều vòi. Mỗi cấp chính quyền, mỗi xí nghiệp quốc doanh là những vòi đỉa bu vào đồng bào ruột thịt hút đến giọt máu cuối cùng và vươn cái vòi “thuộc địa” để hút máu của dân tộc láng giềng bằng một hành động rất thâm độc cộng sản: “tinh thần quốc tế vô sản”! Âm mưu ấy bị thế giới chận đứng ngay trên xứ Chùa tháp nên chúng “co vòi” luôn.



    Rồi giờ ăn cũng đến. Tiếng còi vừa thổi là cả đội gom cuốc rựa vào một nơi. Ðám tù được lệnh tập trung quanh khu vực có bóng cây. Họ ăn vội vã để dành chút thì giờ ít ỏi ngả lưng trên lá khô hay dựa vào gốc cây hầu lấy lại sức.



    Chẳng mấy chốc, giờ lao động buổi chiều lại bắt đầu, tù nhân được kiểm tra kỷ lưởng. Lần này, cả đội đếm tới đếm lui vẫn thiếu bốn người. Sự hốt hoảng hiện rõ trên khuôn mặt tên quản giáo và ba công an võ trang. Hắn đích thân đếm từng người một rồi hét vào mặt anh đội trưởng tù:

    “Bốn thằng đó tên gì?”



    Thoạt nhìn, ai cũng biết ngay bốn anh vắng mặt là Ngọc, Huệ, Lộc và Hạp. Họ thuộc tổ 1 làm công tác chặt phát những cây dại trong khu đất trồng khoai.



    Ðai úy Nguyễn Ngọc, nguyên là Ðai đội trưởng Ðịa phương quân thuộc tỉnh Tuyên Ðức ( Lâm Đồng). Nhà tù bây giờ là trại biệt kích thuộc lực lượng cũ của anh đồn trú ngày xưa, nơi xuất phát các cuộc hành quân đột kích vào mật khu VC. Do vậy Ngọc rất am tường địa thế trong vùng rừng núi Thượng Ðức nầy.



    Trương văn Huệ là sĩ quan trong phái đoàn Quân sự Bốn Bên Kiểm Soát Ðình Chiến Hiệp định Paris thông thạo Anh ngữ và tiếng Khờ me.



    Lê Hữu Hạp, trung úy phi công lái phản lực cơ được đào tạo tại Hoa kỳ. Hạp còn là một hướng đạo sinh vững vàng về mưu sinh thoát hiểm.



    Riêng Trần Xuân Lộc ai cũng biết con người đa dạng của anh, can đảm và xông xáo.



    Với thành phần ấy, bạn tù tin tưởng họ sẽ thành công trong cuộc trốn thoát.



    Tên quản giáo đích thân kiểm tra lại dụng cụ lao động mới phát hiện thiếu bốn cây rựa. Hắn lập tức ra lệnh tên công an bảo vệ cấp tốc về trại báo. Ðội tù được lệnh ngồi gom lại một chỗ. Ba nòng súng chĩa thẳng vào đám tù với tư thế sẵn sàng nhả đạn.



    Nửa giờ sau, hai chiếc xe GMC chở đội công an vũ trang đến áp tải tù nhân về trại. Số còn lại cùng với hai con chó lùng sục chung quanh khu vực.



    Công an truy bắt tù vượt ngục từ thành phố cũng được điều động đến ngay. Chúng ïthiết lập các nút chặn trên tuyến đường chính, lục soát tất cả các loại xe di chuyển trên trục lộ.



    Từng ngày trôi qua là từng ngày bạn tù hồi hộp, lo âu nhưng cũng không che giấu được niềm vui trên ánh mắt họ.



    Nói về toán trốn trại (*). Thừa lúc lộn xộn trong giờ ăn trưa, họ lủi vào rừng mang theo thức ăn và cây rựa giấu trong áo mưa. Giờ đầu tiên, họ luồn lách rất nhanh theo đúng kế hoạch đã tính toán. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, đội tù mới được kiểm số trở lại trước khi làm việc. Khi phát hiện, họ đã vượt ra khỏi vòng đai mà lực lượng truy bắt tù không thể bủa vây.



    Năm ngày dài băng rừng, toán vượt ngục đã đi được một quãng đường khá xa. Thức ăn khô mang theo chỉ còn đủ cho ba ngày nữa. Họ phải bẻ măng rừng, hái trái bòn bon ăn giặm. Ngày đi, đêm ngủ tại những hốc cây cổ thụ hay trong hang đá.



    Cuối cùng thức ăn đã cạn. Cơn đói hành hại suốt hai ngày khiến họ hết kiên nhẫn đành phải quyết định vào rẫy đào trộm sắn. Sắn chưa kịp nhổ lên, bất ngờ một tên du kích người thượng bắt gặp. Mặc dầu khai là dân đi rừng nhưng hắn vẫn áp giải họ về cơ quan của bản làng. Trên đường đi, Ngọc bị trật quai dép lùi lại phía sau. Nhanh như chớp, anh trở sống rựa đập vào đầu tên du kích, cướp khẩu các-bin cùng cả toán chạy vào rừng.



    Ngọc không cố ý giết tên du kích, nhưng vì cú đánh khá nặng tay nên hai ngày sau hắn lên cơn động kinh rồi tắt thở.



    Người Thượng rất dễ tin nhưng cũng khó tha thứ. Cái chết của tên trai làng đã làm tăng thêm sức thuyết phục lòng trung thành của họ đối với chế độ hiện hữu.



    Cơn đói đã khiến cho toán trốn trại mỗi ngày mỗi chậm lại. Cần thức ăn để có sức tiếp tục băng rừng, thế nên buôc lòng họ phải tìm đến rẫy sắn. Rút kinh nghiệm lần trước, lần nầy họ vào rẫy ban đêm.



    Toán trốn tù không ngờ cái chết của tên du kích đã khiến cho dân bản Thượng quyết tâm phục hận. Vừa đặt chân bên trong hàng rào là bị ngay những loạt đạn nả vào họ. Lê Hữu Hạp bị trúng đạn gãy chân, ba người còn lại tẩu thoát vào rừng.



    Chúng kéo Hạp về buôn Thượng và triệu tập dân trong bản Thượng chứng kiến cảnh xử tội kẻ thù. Với thân thể lõa lồ, Hạp bị cột căng hai tay hai chân vào bốn trụ đóng nơi sân cờ của cơ quan Xã, rồi cả đội du kích vừa hò reo vừa phóng những cây lồ ô vót nhọn vào thân thể Hạp như đâm một con trâu để tế thần. Chúng giết Hạp để trả thù cho đồng đội.



    Sáng hôm sau, Ban Giám Thị trại tù cho người khiêng Hạp về đặt xác bên cổng trại ra vào kèm theo một tấm bảng ghi hàng chữ: “Tên Lê Hữu Hạp trốn trại bị cách mạng xử lý ” thay cho một lời cảnh cáo!



    Nhìn thi thể Hạp, không một ai khỏi ghê tởm cách giết người dã man đến thế. Ðôi tròng mắt bị nát bấy bởi thanh lồ ô đâm suốt qua so nãọ. Ðôi mắt chỉ còn là hai lỗ thủng sâu máu đọng đen sì.



    Ôi, Lê Hữu Hạp, người phi công tài ba đã một thời ngang dọc trên bầu trời quê hương. Giờ đây anh chết thảm thương bởi những bàn tay man rợ nhất loài người.



    Công an đã xác định được tọa độ của toán vượt ngục. Chúng khoanh vùng dồn lực lượng vào một nơi.



    Toán tù kỳ vọng vào rau rừng, măng le sẽ nuôi sống họ một thời gian, chờ khi yên tĩnh sẽ lần mò xuống đồng bằng. Nhưng khốn thay, đồng bào Thượng bị đói quanh năm nên đã vét sạch, bứt sạch những gì có thể ăn được trên rừng già.



    Biết điểm đứng đã bị lộ nhưng phải có chút gì để ăn hầu đổi hướng đi. Họ bị khuất phục bởi cơn đói nên đành liều mạng trở lại rẫy sắn. Ðúng ngày thứ mười sáu kể từ khi chạy trốn, toán vượt trại bị bao vây tại một đồi sắn. Trương văn Huệ mở đường máu bằng những loạt các-bin và thoát được vào rừng, Ngọc và Lộc đều bị bắt sống.



    Chúng nhốt hai người tại hai phòng kiên giam riêng biệt. Ba ngày sau, Ngọc bị giết trong cùm bằng phương cách rất thông dụng của công an giữ tù: Dùng thanh sắt đè vào cổ nạn nhân cho đến khi tắt thở.



    Cách giết người như thế thường lưỡi của người bị chết lè ra thật dài và đôi tròng mắt lồi ra ngoài hố mắt. Ngọc đã chết thê thảm như vậy bởi anh cương quyết không chịu khai một điều gì cả. Ngay chiều hôm đó, một phái đoàn giới chức từ thành phố đến trại khám nghiệm tử thi, chụp hình. Phần kết luận trong bản phúc trình hẳn nhiên là: “Phạm nhân Nguyễn Ngọc đã cắn lưỡi tự tử”.Đây là hình thức che mắt của CS giết tù nhân trong các trại giam mà bọn công an thường xuyên áp dụng.



    Trần Xuân Lộc bị giải về Ty Công an để khai thác kẻ đồng mưu cung cấp thực phẩm, thuốc men và viết diễn tiến cuộc trốn trại. Lộc còn phải liệt kê các địa điểm mà đồng bạn anh đã ngủ đêm cùng những dự định cho những ngày sắp tới khi chưa bị bắt...



    Sau mười ngày hỏi cung, Lộc được trả về trại để ra trước một phiên tòa cấp tỉnh mở ngay tại trại tù. Thành phần tham dự gồm ban giám thị, đội công an bảo vệ và gần ngàn tù nhân.



    Mở đầu phiên tòa, một đại diện của hội đồng xét xử đọc bản cáo trạng của bên công tố. Tiếp theo, tên Thư ký tòa đọc bản tường thuật của Lộc về diễn tiến cuộc trốn tù. Theo thứ tự lớp lang được sắp xếp làm nhiều màn, nhiều cảnh.



    Xen vào mỗi màn là cảnh một già làng sắc tộc thiểu số than khóc, kể lể về cái chết của tên du kích và yêu cầu tòa kết án tử hình bị cáo để đền mạng. Phiên tòa xử án mà ta có cảm tưởng họ đang trình diễn một tuồng kịch với đám diễn viên vụng về. Sự lố bịch của phiên tòa là diễn xuất theo kiểu “tòa án nhân dân” xét xử theo nguyện vọng của nhân dân. Cái nguyện vọng nào có lợi cho đảng và tập đoàn cầm quyền là chúng tận dụng. Còn nguyện vọng nào bất lợi chúng dùng chuyên chính vô sản đàn áp. Đó là Pháp luật của đất nước nằm trong bàn tay bạo quyền.



    Phần kết thúc phiên tòa, tên chánh án tuyên bố: “ Phạm tù Trần Xuân Lộc được phép phát biểu ý kiến sau cùng”.



    Cả hội trường im phăng phắc, chờ đợi lời phát biểu của anh Trần Xuân Lộc.



    Lộc mặc aó quần tù màu xám nhạt, hai tay bị khóa còng số 8, hai chân mang xích sắt. Anh đứng sau vành móng ngựa, đối diện với hội đồng xét xử có bốn công an võ trang trấn bốn góc. Khuôn mặt Lộc gầy rộc, hốc hác, nổi lên hai gò má nhô cao. Mái tóc hớt ngắn cùng với bộ râu quai nón của anh vừa mới cạo để lộ ra màu da trắng xanh. Anh quay mặt về hướng người tham dự, đưa ánh mắt nhìn bạn đồng tù rồi dõng dạc nói:



    “Thưa các ông, thưa các bạn, tôi bác bỏ hoàn toàn bản cáo trạng buộc tội tôi giết người, nhưng tôi không phủ nhận rằng tôi có tội. Vâng, tôi có tội với nhân dân miền Nam vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của người sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và...”



    Nói chưa hết câu, tên công an vũ trang đẩy vào miệng Lộc một báng súng. Máu miệng và mũi trào ra loang đầy cả ngực áo. Lộc ngã gục xuống nền nhà. Nhiều tiếng lao xao trong đám tù nổi lên, tiếp theo là tiếng lách cách lên đạn “cảnh cáo”của đám vệ binh đang bủa vây xung quanh hội trường.



    Ðáng lẽ tòa dành mười phút để nghị án, nhưng với tình huống nầy chúng chẳng cần phải trình diễn tiếp vở tuồng. Tên chánh án vội vã mời mọi người đứng dậy và tuyên án



    “… Tử hình phạm tù Trần Xuân Lộc”!



    Không có một ai ngạc nhiên với cái án tử hình ấy. Một phiên tòa xét xử tội đại hình mà chẳng có luật sư biện hộ và chẳng có nửa lời đối chất của bị cáo. Người ta thật sự đau xót cho thân phận con người sống trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, một chế độ dùng baọ lực đè bẹp công lý, một chính quyền dung dưỡng dối trá và hận thù.



    Chẳng đợi mười lăm ngày theo thủ tục kháng án hay xin ân giảm, mà ngay trong đêm hôm sau, chúng giết Lộc trên đồi sắn rồi chôn anh tại đó. Một tấm bia bằng gỗ xẻ mỏng được viết ngoằn ngoằn tên Trần Xuân Lộc bằng sơn.



    Mùa mưa đến, nước trên đỉnh núi đẩy xuống san bằng luôn nấm mộ. Từ khi đó, nếu ai để ý trên ngôi mộ Lộc sẽ thấy từ từ xuất hiện những viên đá cuội, mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Rồi những năm tháng sau này nấm mộ Lộc trở thành đống đá vun cao.



    Lộc nằm đó, thân xác tiêu hủy theo thời gian nhưng gương can trường của người chiến sĩ miền Nam vẫn còn sáng ngời trong long mọi người. Bạn tù đã điếu tang anh bằng bài thơ truyền khẩu sau đây:



    Anh vượt thoát khỏi gông cùm nghiệt ngã

    Tìm tự do nơi đất Chúa vĩnh hằng,

    Ðêm hiện về sáng lồng lộng ánh trăng

    Anh ngạo nghễ giữa bầu trời xanh ngát

    Trước họng súng thù cất cao tiếng hát

    Ðể máu trào chuyển mạch vạn con tim.

    Tiễn người đi cơn uất nghẹn im lìm

    Trong bóng tối khóc thầm thương tiếc bạn

    Anh chí cả ôm vầng dương chiếu rạng

    Ta nhỏ nhoi như hạt bụi giữa đời

    Người đi vào trang hùng sử, Lộc ơi!



    Về phần Trương Văn Huệ, sau khi thoát thân vào rừng, công an truy lùng khắp mọi nơi và tiếp tục phục kích các khu rẫy sắn nhưng chẳng có một kết quả nào.



    Các anh đã vượt thoát vĩnh viễn khỏi miền đất tù ngục nầy.



    Tự Do hay là chết?



    Các anh đã chọn cái chết để được Tự Do. Chúng tôi ở lại tiếp tục bị đày đọa với tháng ngày bất tận khổ đau, nhưng gương bất khuất của các anh là ngọn lửa luôn luôn sưởi ấm trong lòng chúng tôi.



    Hãy ngừng tay, hỡi những ai có mưu đồ tiếp sức cho Cộng Sản Việt Nam. Ðừng vì quyền lợi riêng tư mà xúi giục tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại đem tài năng về nước phục vụ cho một chính quyền bá đạo đang kéo đất nước vào bóng tối mịt mùng.





    Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
    (*) dựa theo lời tường thuật của Trần Xuân Lộc trong bản thẩm cung.

    https://hon-viet.co.uk/HaoNhienNguyenTa ... tThoat.htm
Trả lời

Quay về “Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30/04/1975”