Con Đường Đi Tới Golden Gate

Post by Bạch Vân » Tue , 18 Oct 2022





  • Tôi không nhớ quyển sách nào có bài học Anh ngữ gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi, đó là bài nói về cầu Golden Gate ở San Francisco. Cầu được bắt đầu xây cất vào năm 1933, dưới thời Tổng thống Roosevelt. Bốn năm sau, 1937 mới hoàn tất. Đây không phải là một cây cầu dài, vì nó chỉ có 2.737m. Bề ngang 27m, nhưng việc đáng nói là chiếc cầu nặng 811.500.000 kg được treo trên 2 dây cáp. Cây cầu treo bằng 2 dây cáp chính buộc chặt ở hai đầu cầu rồi gác lên trên 2 tháp cao ngoài biển, mà đỉnh tháp cách mặt nước tới 227m.

    Từ cầu xuống nước là 67m.( Treo vì muốn nâng cao để tàu lớn giao thông qua lại. Đây là hành lang thủy đạo nối liền Thái Bình Dương với vịnh Cựu Kim Sơn). Sợi dây cáp có đường kính 0m92 được bện bởi 61 tao kim khí, do 27.572 sợi thép kết lại. Chiều dài của dây kim loại dùng trong 2 dây cáp là 129.000 km và chỉ nội công tác bện 2 dây cáp này đã mất 6 tháng, 9 ngày. Để sơn cầu, phải dùng hết 37.800 lít sơn màu cam. Ngày khánh thành 26.5.1937 chỉ cho người đi bộ qua cầu thôi. Trên 200.000 người đi qua trong 12 giờ đầu tiên.

    Ngày hôm sau tới phiên xe hơi, trong ngày đếm được 32.300 chiếc. Kỹ sư trưởng đảm nhận công trình xây cất là Joseph Baerman Strauss và cũng là người đã suy nghĩ suốt 22 năm để vẽ ra kiểu mẫu cây cầu. Sách cho rằng Golden Gate là một công trình có kiến trúc kỹ thuật xuất sắc, hoành tráng, hùng vĩ và được yêu chuộng nhất của nước Mỹ. Lại thêm ông thầy Anh văn là người đã du học Mỹ, từng tham quan Golden Gate “tán” thêm vào, khiến tôi hạ quyết tâm phải đến đó cho bằng được.

    Tôi có tên chuẩn bị đi tu nghiệp ở Nữu Ước 2 năm Tháng 6 -1975 mới đi, tháng 4 miền Nam đã sụp đổ. Mộng tham quan Golden Gate của tôi tan tành theo vận nước.

    Năm 1979, vợ chồng tôi và đứa con gái đầu lòng mới 9 tháng bị ở tù vì tội vượt biên tại huyện Châu Thành, Bà Rịa. Được thả ra, tôi lại tiếp tục tính chuyện ra đi. Khi tôi làm chủ ghe, khi làm tài công, lúc làm chủ bãi, lúc mua vé…19 lần thất bại, nhà tan cửa nát. Ông hàng xóm quen một đường dây đi bộ qua Kampuchia. Nhiều chuyến đã tới.

    Vì đi học tập mới về, còn bị quản chế, mọi di chuyển đều gặp khó khăn. Cho nên ông đề nghị cho tôi mượn tiền, với điều kiện dẫn Lộc, con trai 10 tuổi của ông cùng đi. Vùng trước cho người dẫn đường 5 chỉ để dẫn qua Miên. Khi tới Thái Lan, người tổ chức sẽ lấy mật mã từng người đem về Việt Nam, người nhà sẽ thanh toán. Ông hàng xóm bảo đảm sẽ trả giúp, và thân nhân của tôi ở nước ngoài cũng cam kết trả lại cho thân nhân của ông ở Canada 3.000 mỹ-kim.

    Lần thứ 20, tôi ra đi một mình vì không còn khả năng đài thọ vợ con. Nửa chỉ vàng cuối cùng là chiếc nhẫn đính hôn, vợ tôi trao cho tôi để phòng thân. Tôi để lại nhà vì thật ra không biết sống chết thế nào. Dù sao nhờ nó, 4 mẹ con ở nhà cũng có cái ăn được đôi ba tuần để chờ tin tôi.

    Lộc và tôi rời nhà vào ngày 16/7/1987. Người Miên dẫn đường phát cho chúng tôi một ít tiền riel. Y lên xe nào, chúng tôi lên xe đó. Y xuống đâu, chúng tôi xuống đó. Xuống Châu Đốc, qua phà, rồi đi thuyền dọc sông Mékong. Gần tới biên giới, lợi dụng đêm tối trăng, theo đường tắt băng qua rừng. Bỗng nhiên có tiếng chó sủa. Lúc đầu một con. Dần dà 4, 5 con sủa inh ỏi chạy phía sau. Tôi than thầm khổ mạng. Chắc chắn là chó của công an biên phòng Việt-Nam. Bị bắt lại lần này, ở tù lâu lắm. Trong tột cùng vô vọng, tôi quay phắt lại chỉ đám chó:

    – Đứng lại. Tao không ăn thịt chó, tụi bây không được hại người!

    Tự nhiên đám chó chúc cái mõm lên cao rồi gừ gừ đứng lại. Lộc nói:

    – Phép chú Mai ngầu quá.

    – Phép khỉ gì, đi lẹ lên.

    Lọt qua biên giới, người dẫn đường đón chiếc xe Daihatsu . Chúng tôi vào thủ đô Phnom Penh. Họ ếm chúng tôi trên lầu cùng với mười mấy người khác. Ban tổ chức dặn dò không được đi đâu, nhưng tôi cũng trốn ra tìm tới ông cậu vợ, người Long An đi tập kết về đang làm chỉ huy trưởng kiểm soát quân sự, (tức là quân cảnh) để xin theo xe bộ đội đi Siem Riep. Mục đích là để tham quan đền Đế Thiên Đế Thích. Sợ rằng chuyến đi này chưa chắc còn sống để trở lại Miên, nên đánh liều để xem cái kỳ quan thế giới này ra làm sao. Mấy ngày sau trở về, mới biết lẽ ra nhóm chúng tôi đã lên đường, nhưng còn thiếu người.

    Họ phải thế cái nhóm ở Sài Gòn mới qua, vì nhóm này đã gom đủ. (Sau này khi qua tới Thái Lan, mới biết nhóm 30 người ấy đã xuống thuyền rồi, nhưng mất tích vĩnh viễn luôn!). Một ngày trước khi xuất phát, nhóm chúng tôi được dặn dò kế hoạch ra đi. Khi giới nghiêm chấm dứt lúc 5 giờ sáng, từng 2 người một mở cửa bước ra đường đón xe xích lô đi chung. Xe này đi xong, 2 người khác mới bước ra đón xe tiếp, không ra đông người sợ bị lộ. Các thanh niên rời nhà lên xe. Tới phiên tôi và Lộc đi chung. Tôi đón nhằm một ông già. Chiếc xích lô của ông rít lên cót két rồi lẹt đẹt phía sau. Những người kia đón nhằm thanh niên sung sức, nên họ đạp xe bon bon đi xa mất dạng.

    Sương mù dày đặc không trông thấy gì hết. Tôi hoang mang vì làm sao thấy được cây cầu mà xuống xe. Đã 40 phút rồi mà tứ bề sương giăng mù mịt. Tôi bảo Lộc ráng nhìn bên trái, tôi nhìn bên phải để tìm cây cầu. Tôi cố mở to mắt nhìn xuyên qua màn sương. Bỗng tôi thấy một cô gái mặc áo dài trắng băng qua đường. Làm gì trên đất Miên lại có con gái mặc áo dài trắng. Tôi hỏi:

    – Lộc có thấy một cô áo trắng đi ngang qua không?

    – Có thấy ai đâu chú Mai!

    Nhanh như cắt, tôi đưa tay ra dấu dừng xe. Tại sao? “Vì …



    ******

    Năm 1963, tôi đến quận Hòa Vang, để thị thực các bản sao bằng Tú tài 1. Lúc vào lại thành phố Đà Nẵng, trời đổ mưa. Cơn mưa mùa hạ trút xuống như cầm chỉnh đổ. Bên tay trái tôi là dãy núi Phước Tường. Nước trên núi tràn qua quốc lộ. Nước ngập luôn cái ống bô của chiếc xe gắn máy hiệu Suzuki dame. Bu ji ướt, xe chết máy. Tôi đành dầm mưa chịu trận. Khi mưa tạnh đã 6 giờ chiều. Bấm nút démareur, xe vẫn không nổ. Nhờ đám trẻ chăn trâu nhào vô đẩy dùm rất lâu xe mới chạy được. Gần tới Ngã Ba Huế, tức là ngã rẽ bên trái sẽ ra Huế, cách 120km. Quẹo phải 5, 7 cây số là vào Đà Nẵng.

    Nơi ấy có một cây cầu, người địa phương gọi là Cầu Đỏ. Từ xa, tôi đã thấy một nữ sinh đứng đón xe ở đầu cầu. Ở ngoài Trung, đồng phục nữ sinh là áo dài trắng. Cô gái mặc quần trắng, đội nón lá, chân đi guốc, tay xách cặp đen. Tôi nghĩ bụng nếu là xe ra Huế, sẽ không bao giờ chịu dừng lại để chở học sinh một đoạn ngắn. Còn nếu xe Hội An, Tam Kỳ ra, thì sắp đến bến xe rồi, họ cũng không rước khách chỗ này. Trời sắp tối, đi bộ cũng xa lắm. Tôi dừng xe lại hỏi:

    – Em về đâu? Nếu quẹo trái ra Nam Ô thì không tiện đường. Quẹo phải vô Đà Nẵng thì quá giang được.

    – Dạ em về ngã tư Thanh Khê.

    Tôi mừng rỡ:

    – Được. Lên xe đi.

    Cô gái rụt rè leo lên ngồi ở phía sau. Một tay ôm chặt cặp da, tay phải vòng qua eo ếch của tôi. Xe chạy từ từ. Tôi hỏi:

    – Em tên gì?

    – Dạ Đ.T. Mỵ.

    – Em học lớp mấy, trường nào?

    – Dạ lớp đệ lục trường Hòa Vang.

    Mỵ còn nói lí nhí gì thêm, nhưng tôi đã chạy nhanh, gió tạt không nghe rõ. Chưa tới 10 phút, Suzukie đã tới Ngã Tư Thanh Khê. Tôi dừng lại, hứa hẹn. Chiều mai thứ bảy, nghỉ học, anh có xe đạp, sẽ về An Ngãi. Có gì anh sẽ ghé nhà em chơi. Bây giờ tối rồi, anh phải đem xe về trả cho ông anh đi trực. Mỵ nói:

    -Nhà em dễ tìm lắm. Đi vô hết con đường đất ni. Gặp một ngã ba, thấy mấy cây dừa lửa thì quẹo phải.

    Đi tiếp, hồi mô thấy cái nhà có bồn gỗ đựng nước mắm ở trước sân là tới.

    Chiều thứ bảy hôm sau, theo đúng lời chỉ dẫn của Mỵ, tôi dắt xe đạp tìm đúng nhà không mấy khó khăn. Tôi dựng xe, tựa vào bồn nước mắm trước sân và bước vào nhà. Căn nhà tranh vách đất. Giữa nhà có chiếc bàn gỗ, trên bàn có bát nhang, hai bên có một nải chuối và một bát cơm có cắm đôi đũa. Trên bát cơm có quả trứng. Nghe tiếng tôi gọi, một người đàn bà bước ra từ phía sau. Bà hỏi:

    – Thầy tìm ai?

    – Dạ cháu hỏi thăm, có phải nhà Đ.T. Mỵ đây không?

    – Dạ phải. mà thầy dạy trường của cháu hả?

    – Dạ… không!

    – Vậy cậu là bạn học ở trường Hoà Vang hả?

    – Dạ cũng không phải. Chiều hôm qua, cháu lên quận về, gặp Mỵ đứng đón xe ở Cầu Đỏ, sẵn có xe gắn máy, cháu cho quá giang chở về đây. Mỵ có chỉ nhà, chiều ni nghỉ học, cháu đi An Ngãi, nên ghé vô thăm rứa thôi.

    Người đàn bà oà lên khóc:

    – Cậu ơi! Con tôi bị xe Mỹ cán chết rồi cậu ơi! Trưa hôm qua, tôi mở cửa mả cho hắn đá. Tan học về hắn đi xe đạp ngang qua chỗ Cầu Đỏ, gió thổi lật cái nón che mặt không thấy đường. Xe đạp quờ quạng, chao đảo giữa đường, bị xe cán chết ngay chỗ cầu đó.

    Người đàn bà tiếp tục kể lể bi thiết, đau thương:

    – Mẹ chỉ có mình con, con ơi. Con chết bỏ mẹ con ơi…

    Lúc ấy tôi mới nhìn kỹ khung hình để đằng sau bát nhang. Đúng là Mỵ rồi ! Đôi mắt đẹp như đang nhìn tôi ngơ ngác, thăm thẳm. Tôi bủn rủn tay chân, cố gắng lắm mới lấy được bó nhang trên bàn đốt lên 3 cây và thầm khấn:

    – Mỵ ơi. Em đã chết thật rồi. Trong cõi u minh, thần thức của em cứ tưởng mình còn sống. Hãy về với thế giới tâm linh huyền diệu của em. Đừng gặp ai nữa. Anh sợ lắm. Anh sẽ tụng kinh cầu siêu thoát cho em.

    Rồi tôi đã giữ lời hứa đó sau nhiều năm…

    *****

    Tôi đưa tay ngăn ông già dừng xe lại, vì liên tưởng tới Mỵ 24 năm trước. Tôi định thần độ 5 phút sau. Qua màn sương tôi lờ mờ thấy quả có một cây cầu đúng như linh tính của tôi. Tứ bề im phăng phắc. Tôi e dè bước tới gốc cây lớn bên đường. Lúc ấy tôi mới phác giác ra chiếc xe molotova của quân đội, phủ một tấm bạt, đã nằm im lìm từ lúc nào. Tôi vòng tới trước cabin bước lên thử nhìn vào trong. Tôi giật mình vì trong tay lái đang có một gương mặt đen sì lỏ mắt nhìn ra tôi.

    Tôi đánh liều hỏi đại:

    – Chiếc xe này chờ chúng tôi phải không?

    Câu hỏi không được trả lời. Tôi hỏi tiếp:

    – Parlez vous Francais? Do you speak English?

    Tên lính Miên lắc đầu. Vừa hồi hộp, vừa hoang mang, tôi đáo ra sau dở tấm bạt thò tay vào trong, thì ra người ngồi lúc nhúc trong đó. Tôi hối Lộc leo lên và tôi cũng chui vào. Tôi lên tiếng hỏi:

    – Có Dung trong này không?

    Im phăng phắc. Vậy là nguyên toán mười mấy người cùng nhà với tôi đã không nhìn thấy cây cầu. (Về sau này, khi có liên lạc, mới biết nguyên nhóm chạy mãi tới sáng thì bị công an Miên bắt, giao cho công an biên phòng Việt Nam.)


    Trong tối tăm, tôi nắm tay Lộc ngồi xuống thì xe nổ máy. Xe chạy hơi nhanh, dằn lên xóc xuống vì đường đầy hầm hố, ổ gà. Người trong xe đổ mồ hôi nhễ nhại, ngộp thở, u đầu rên rĩ.
    Chạy suốt ngày, đến chạng vạng thì dừng lại để tránh trạm kiểm soát cảng Kompong Som do bộ đội biên phòng Việt Nam trấn đóng. Tài xế đổ người xuống ngay chỗ một người Miên dẫn đường đã chờ sẳn. 25 người nhanh chóng lủi vô rừng đi thành hàng một, sau lưng người Miên. Người dẫn đường có buộc một ngọn đèn đi săn trên đầu để soi đường. Một tay cầm cái liềm để chặt những gai góc. Một tay cầm gậy thọc vào đám lá khô để tránh những vực sâu. Vài người rú lên sợ hãi khi thấy bộ xương nằm gục bên đường. Hai lần trông thấy hai bộ xương đều không có đầu ! Nửa đêm bỗng nghe tiếng á…á… dài, rồi tiếp theo là tiếng ầm ầm.

    Biết ngay là có người ngủ gục, bước lọt ra khỏi dấu chân người đi trước và đã rơi xuống vực. Độ 2 giờ sáng, lại thêm một tiếng á…ầm…ầm nữa. Có người làm dấu thánh giá. Tôi chấp tay cầu nguyện cho hai nạn nhân xấu số. Ra khỏi rừng đếm lại, quả nhiên chỉ còn 23 người. Thoát khỏi rừng rậm, chúng tôi băng qua một đầm lầy. Người dẫn đường ra hiệu cho biết có cá sấu, phải đi nhanh. Trời tối mịt. Thình lình, một ngọn đèn pha phực lên rọi thẳng vào đoàn người chúng tôi. Sình lầy lún quá bắp vế, chúng tôi đã bị du kích Khmer bắt trọn. Nhiều người đã xỉu ngay xuống sình. Bảy, tám họng súng AK đen ngòm chỉa thẳng vào chúng tôi. Kẻ cầu Chúa, người niệm Quan Âm cứu khổ để chờ chết. Thình lình, một tên ngửa cái nón sắt, nói lơ lớ không có dấu:

    – Môt chi vang bo vo cai non sat, cho qua. Không có mot chi vang, chat đâu.

    Mọi người đều hiểu hết câu nói của y. (Một chỉ vàng bỏ vô cái nón sắt, cho qua. Không có một chỉ vàng, chặt đầu!) Ai nấy đều run lẩy bẩy, moi móc đâu trong đồ lót, lấy ra ném vào nón sắt. Tôi dắt tay Lộc lùi lại sau cùng. Nước mắt tuôn rơi. Nửa chỉ vàng cuối cùng tôi đã để lại nhà. Vợ tôi sẽ đau lòng lắm khi biết tại sao tôi bỏ xác nơi đây. Nhưng nếu tôi có đem theo cũng không giải quyết được vấn đề, vì nhận lời ủy thác của cha mẹ Lộc, tôi không thể làm người, khi để cho nó chết.

    Tôi thầm khấn:

    – Mỵ ơi, đã làm ơn, xin làm ơn cho trót. Có hiển linh, xin giúp anh thoát chết phen này.

    Bỗng tôi đạp phải một hòn sỏi dưới bàn chân. Vừa niệm Quan Âm cứu nạn, vừa kín đáo dùng 2 ngón chân kẹp hòn sỏi đưa lên. Tôi vói tay nắm được hòn sỏi, chùi vào áo cho sạch sình. Một tiếng cạch trong nón sắt là một người được bước qua. Nắm hòn sỏi thật kín trong bàn tay, tôi bảo Lộc leo lên lưng cho tôi cõng để 2 người tính 1 và là người cuối cùng bước ngang qua cái nón sắt. Tôi nhanh chóng ném hòn sỏi vào nón. Một kiếng keng vang lên, và tôi cõng Lộc bước qua. Tôi vái van, xin sao đám du kích đừng vì thiếu mất một chiếc nhẫn mà đuổi theo. Nếu không thoát, tôi phải nhận tội để chết, chứ không thể gây họa cho người. Cuối cùng, chúng tôi ra tới bờ biển.

    Không biết Mỵ đã cứu tôi hay hòn sỏi duy nhất giữa đầm lầy. Hai người Miên lực lưỡng lôi chúng tôi nhét vào dưới hầm ướp cá đậy nắp lại và ra khơi. Gió rất mạnh, có đến cấp 6. Trong hầm kín, người này ói lên đầu người kia. Mùi chua hòa với mùi mồ hôi nồng nặc xông lên. Mồ hôi bốc thành hơi nước đọng trên thành hầm, rồi nhỏ từng giọt cay xuống đám người chen chúc như cá mòi trong hộp. Tôi không bị say sóng, nên đủ sức đẩy nắp hầm và leo lên trên boong. Sóng đánh lên làm trơn trợt. Tôi cẩn thận men lần ra sau buồng lái. Tìm thấy nước, tôi uống một bụng thật no nê. Một sợi dây thừng nằm lăn lóc trên sàn. Tôi buộc chặt vào bụng và kiễm soát lại đầu dây bên kia. Tôi sợ bị sóng đánh văng xuống biển. Mỗi lần sóng tới, đầu mũi thuyền cất lên, chỉ ngay những ngôi sao nhấp nhánh trên bầu trời. Thuyền kêu răng rắc, bập bềnh. Sóng đi qua, mũi thuyền hụp xuống. Ruột gan tôi như muốn nhào lên để trào ra ngoài.

    Thà chết sạch sẽ giữa trời cao biển rộng, hơn là chết thối trong hầm cá. Thuyền từ từ đi vào một đảo hoang. Thuyền mắc cạn, hình như tôi nghe chân vịt chạm mạnh vào đá. Hai người Miên lật đật chạy lại mở nắp hầm lôi mọi người lên và lặp đi lặp lại: “Thái lan, Thái Lan”. Họ ra hiệu đòi mật mã. Mật mã của tôi là cái chứng minh nhân dân không đục lỗ. Nếu đưa lên thấy có một lỗ thủng trong tấm hình, vợ tôi sẽ biết là bị gạt, chưa tới Thái. Thu thập mật mã xong, người Miên buộc chúng tôi rời ghe. Họ vội vả quày trở ra biển để trở về Miên, vì sợ bị Thái tịch thu ghe. Có người không biết bơi còn trù trừ, bị xô xuống biển, đầu va nhằm đá ngầm, máu tuông xối xả. Cuối cùng nhóm người đói khát lạnh lẽo cũng dắt díu nhau lên được hết trên bờ. Sáng hôm sau, chúng tôi gom cành khô đốt lửa cầu cứu.

    Ngoài khơi, một chiếc thuyền xuất hiện. Hy vọng chúng tôi thoát khỏi hoang đảo này. Thuyền cập vào bờ. Nhảy lên là 3 thanh niên mặt bôi đen tay cầm súng. Mọi người la lên “hải tặc” và bàn cách đối phó. Nếu chúng chỉ cướp của thì thôi, còn nếu mấy người phụ nữ bị hiếp thì nhóm đàn ông sẽ liều mình giật súng rồi dùng đá và cành cây chống trả.

    Trong tích tắc, bọn hải tặc đã áp sát. Hai tên chỉa súng vào nhóm chúng tôi. Còn một tên dí súng dẫn từng người một ra sau một lùm cây, buột cởi hết quần áo cho nó xét. Chúng mò mẫm từng cái quần, cái áo để tìm của. Cái gì nó cũng lấy. Rất may là quần áo chúng tôi bị rách tả tơi hết nên nó cho lại để mặc lên người. Sau khi vơ vét, bọn hải tặc ra dấu bảo chúng tôi đi vòng qua đảo, rồi bọn chúng lên thuyền ra khơi. Chúng tôi đi tiếp theo hướng chúng chỉ. Không ai còn giày dép gì cả nên bàn chân rách nát, bê bết máu. Đến tối mới tới một xóm chài. Dân chài cho cơm cháo và trú ngụ qua đêm. Cảnh sát Thái đưa chúng tôi vào trạm KlongGiai ngày 1/8/1987. Một tuần sau, có xe chở vào trại tị nạn Panat Nikhom.

    Ở trại mọi người đều thuộc nằm lòng câu “vượt biên có số, định cư có phần”. Có người ôm cả đống giấy tờ chứng minh là sĩ quan cảnh sát, sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa… vẫn bị Mỹ từ chối. Tôi rét lắm vì không còn giấy tờ gì để chứng minh là thông dịch viên sở Mỹ RMK cả.

    Tôi lên sơ vấn, rồi tái phỏng vấn. Người có quyết định tối hậu là ông Harris. Ông chỉ hỏi tôi có vài câu rồi đóng dấu “Approved”. Tôi quá cảm động và mừng vui đến rơi lệ khi ông chìa tay bắt và chúc tôi được nhận vào Mỹ. Tôi quá ngạc nhiên với lối interview của Mỹ. Không phải như ở nhà, năm 1978, vợ tôi sanh con đầu lòng bị mất sữa, phải làm đơn xin mua thêm sữa bò. Trên đơn phải hội đủ 6 cái mộc, tức là 6 con dấu của 6 cơ quan. Điều đáng nói là cán bộ y tế bắt vợ tôi ra mua gói xôi ngồi ăn trước mặt họ. Nửa giờ sau, họ vắt thử xem có sữa không rồi mới chịu ký tên đóng dấu cho phép mua 12 lon sữa bò giá chính thức.

    Rời Bataan, tôi đến Mỹ ngày 21/12/1988. Khi máy bay đáp xuống Los Angeles, lòng tôi dâng lên một niềm xúc cảm bàng hoàng. Cái xúc động tự nhiên của bất cứ người nào bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn tự do trên một đất nước giàu mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, cái cảm xúc của tôi khi lần đầu tiên trông thấy cầu Golden Gate 31/12/88, lại mênh mông không diễn đạt được. Tôi dụi mắt để chắc chắn rằng không phải còn nằm mơ. Một giấc mơ dài suốt 26 năm từ khi học bài anh văn về Golden Gate năm 1962.

    Mặc dù kim tự tháp Ai Cập là một kỳ diệu vì cho đến bây giờ, với những máy móc hiện đại tối tân, với trực thăng mạnh nhất, chưa chắc Mỹ nâng được những tảng đá khổng lồ lên cao để ráp lại nhau. Nhưng viếng kim tự tháp là đến một sa mạc nóng bỏng đầy cát bụi.
    Đền Đế Thích ở Miên thật rộng lớn. Đi hết chu vi của đền có đến 120km. Đền đài chạm trổ bằng tay. Vào thế kỷ thứ 6, có thể phải dùng tới 50 ngàn nhân công, xây cất 50 năm mới xong. Cái thất vọng là phòng ngủ của vua và hoàng hậu nhỏ xíu, tưởng chừng không đủ lọt cái giường queen size! Vả lại, một cảm giác lành lạnh như oan hồn, tử khí còn lẩn khuất đâu đây.
    Vạn Lý Trường Thành cũng là một trong 7 kỳ quan của thế giới. Nhưng du khách hình như còn bồi hồi khi tưởng tượng cảnh núi xương sông máu của dân lành vô tội dưới ách bạo tàn của Tần Thủy Hoàng. Người Pháp cũng hãnh diện về tháp Effel của họ. Nhưng nếu du khách mãi ngước nhìn lên, đế giày sẽ dẫm phải “bom” của chó phóng uế bừa bải khắp nơi. Tham quan Eiffel, du khách nào cũng trải qua cái đau khổ khi cần đi tiêu, tiểu. Dù có người hướng dẫn, sẵn sàng mất tiền cũng rất bất tiện vì xa, mất thời gian.


    Mời quí vị tham quan Golden Gate. Thoải mái lắm. Không những công viên này mà khắp xa lộ của Mỹ, đâu đâu cũng có bảng chỉ dẫn rõ ràng những rest area, đầy đủ tiện nghi để giải quyết vấn đề cá nhân. Du khách không bao giờ bị “hành hạ và tra tấn” đau khổ như ở Paris.

    Có lẽ ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có người mơ ước như tôi là được bước đi trên cầu treo Golden Gate. Buổi sáng sương mù la đà, lảng đảng trôi ngang, nhịp cầu khi ẩn khi hiện. Xế chiều dưới ánh nắng chói chan, một cánh cung vàng như cái mống bắt ngang bầu trời xanh lơ đầy mây giang hồ và những cánh hải âu trắng mướt. Dưới kia, biển xanh um. Tàu thuyền qua lại xé nước, để lại phía sau những vạch trắng như đuôi sao chổi. Buổi tối lại bày ra một khung cảnh tráng lệ, rực rỡ huy hoàng dưới ánh đèn vàng tân kỳ mỹ lệ.
    Cao quá. Hùng vĩ quá, làm con người thành nhỏ bé như muốn bay bổng. Xe cộ lũ lượt nối đuôi nhau qua lại. Bộ hành cũng có chỗ tản bộ trên side walk rộng 3m ở hai bên thành cầu. Đủ loại y phục màu sắc đặc thù dân tộc được mặc trên người, đủ thứ ngôn ngữ khác nhau được nói qua đường. Chứng tỏ họ từ khắp mọi nơi trên thế giới. Dòng sinh động huyền diệu đó đã từng tồn tại từ ngày 26/5/1937 và tiếp diễn không ngừng nghỉ suốt 64 năm qua.


    Mặc dù Joseph Baermann Strauss đã qua đời một năm sau khi khánh thành Golden Gate.
    Nhưng tác phẩm của ông vẫn sừng sững với thời gian và cùng với Chunnel Tunnel xứng đáng là 2 thành tựu đứng đầu của thế kỷ 20. Mọi người từ Quận Cam đến Golden Gate quá dễ dàng bằng freeway 5 North, chỉ mất có 7 giờ lái xe, trong khi tôi phải mất 26 năm mới tới đó.


  • PHẠM ĐÌNH MAI
    (Nguyên cựu GĐ Ngân Hàng, vượt biển 20 lần mới thành công).
    Nguồn:https://vvnm.vietbao.com

Hoa Chúc

Kashoku
tác giả Funahashi Seiichi – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Tiệc cưới của hai họ Sumoto và Hitotsubashi đã đến món tráng miệng. Tiến sĩ H, vị chủ hôn trong buổi tiệc cưới đứng lên đọc một bài chúc tụng khách sáo thường lệ của người chủ hôn. Tiếp theo là những lời chúc mừng cô dâu chú rể của những vị khách như ông B, ông O, ông K. Thế rồi, một người có vẻ như là người xếp trông coi đám bồi bàn của nhà hàng đến sau ghế của tôi, vỗ nhẹ vào vai tôi bảo ” Xin mời “. Tôi bèn để khăn ăn xuống ghế, đứng dậy.



Kính thưa quý vị, tôi là Higuma, vừa hân hạnh được phép đứng lên chúc mừng cô dâu chú rể. Giữa hàng quý khách đông đủ các vị thân hào nhân sĩ ngày hôm nay, một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi mà cũng dám đứng lên thưa chuyện trước quý vị thì quả là không biết thân phận mình. Nhưng cũng xin quý vị lượng thứ, vì tôi được người dẫn chương trình tiệc cưới hôm nay bảo lên chúc mấy câu, chẳng lẽ tiệc vui mà từ chối thì bất tiện, nên tôi mới dám vô phép thế này. Một lần nữa xin quý vị lượng tình tha thứ.

Ờ hèm ( khẽ hắng giọng ).

Sau khi nghe vị chủ hôn giới thiệu, tôi tin chắc rằng đây quả thực là một mối lương duyên có một không hai. Thế nhưng chẳng dấu diếm gì quý vị, tôi xin thưa rằng người biết rõ nhất về cô dâu chú rể chính là tôi, ngoài tôi chẳng còn ai khác. Tôi nói thế này có thể làm phật ý quý vị, nhưng trong quý vị ở đây, bên nhà trai thì cho dù có biết chú rể, mà chẳng biết gì về cô dâu, còn những vị nào biết cô dâu thì lại hoàn toàn chẳng biết gì về chú rể. Như vậy chẳng phải là quý vị chỉ biết có một chiều thôi sao?

Ngài chủ hôn đã giới thiệu về hai họ và cô dâu chú rể để quý vị quen biết nhau, thì phải chăng cũng nhờ biết rõ cả đằng trai lẫn đằng gái, nên tôi mới được phép đứng lên thưa chuyện với quý vị trong tiệc cưới đêm nay, mới hân hạnh được có vinh dự này. Nếu không thì chuyện đã rõ như ban ngày, là đời nào mà tôi lại được lên chúc tụng cô dâu chú rể, trong một bữa tiệc cưới linh đình trọng thể như thế này.

Ờ hèm ! ( Lại hắng giọng )

Chú rể Sumoto Namio là bạn học cùng trường với tôi, đúng ra phải nói là chỗ thâm giao từ lâu. Như quý vị đã thấy, anh quả là một trang thanh niên khôi ngô tuấn tú, lại là người trực tính, lòng dạ thẳng như đốt tre, không cả nể, ghét thói nịnh bợ, nghĩ sao làm vậy. Có lẽ chính cái tính tình cương trực của chú rể đã là nguyên nhân chính giúp anh ta chiếm được cô dâu xinh đẹp mỹ miều này. Xin lỗi quý vị là tôi nói có vẻ hơi lạc đề, nhưng xin quý vị hãy chịu khó nghe thêm chút nữa.

(Ở cuối phòng tiệc , có ai đó nói vọng lên ” Nói cho đàng hoàng xem nào ! ” )

Anh Sumoto tính tình thì như thế, nên tôi xin làm chứng, cam đoan với quý vị rằng anh ta không hề có chuyện lăng nhăng với phụ nữ. Thậm chí, có khi phải nói rằng anh ta ghét phụ nữ nữa mới đúng. Tôi cũng xin được thưa thêm với quý vị rằng, tôi cũng ghét phụ nữ đấy ạ.

(Ở dãy cuối lại có người la lớn “Đừng có láo toét ! “. Tiệc đang nồng, áng chừng đã có người say , rượu vào lời ra , có ý châm chọc..)

Thế là giữa hai đấng nam nhi cùng ghét nữ nhi đã nẩy nở một tình bằng hữu. Bấy giờ trong đám bạn học có nhiều anh hay la cà đến các chốn thanh lâu ở Shinjuku hay Susaki, hoặc lui tới xóm ca kỹ ở Gotanda hay Otsuka. Nhưng anh Sumoto thì cương quyết phản đối điều này, anh đã cùng tôi giao hẹn, thề quyết giữ mình đồng trinh trong sạch. Trong bữa tiệc cưới hôm nay, nhớ lại tình bạn trong sáng ngày nào, lòng tôi không khỏi bùi ngùi cảm khái vô hạn.

( Phòng tiệc bỗng lặng như tờ ..)

Thuở ấy hai chúng tôi thường hay rủ nhau đi du ngoạn. Anh Sumoto được trời ban cho có tài vẽ, đi đến đâu cũng giỏi lấy giấy ra phác hoạ cảnh núi sông cây cỏ, nét vẽ thật tài hoa khác hẳn người thường. Còn tôi thì bình sinh là đứa tầm thường, chẳng có tài cán gì, chẳng khác nào như thằng tiểu đồng đi theo anh mà thôi. Những nơi chúng tôi thường đến nhất là vùng Shinshu, Joshu, rồi Izu, nhất là quanh vùng núi Asama, chúng tôi cứ mải mê đi mãi đến quên cả thời gian. Chúng tôi chọn cả những vùng có suối nước nóng như Yamada, Manza, Hoshi, Hoppo, Kuma no yu ..Dần dà còn băng qua đường ranh Joshinetsu, phiêu du đến tận vùng Echigo. Đi lang bạt nhiều nơi như thế, nhưng anh Sumoto vẫn thuỷ chung giữ nguyên cái tính ghét nữ giới, tấm lòng thật trong sạch không chút bợn nhơ. Về phần tôi, dĩ nhiên, cũng quyết không thua bạn. Vì vậy tự nhiên tôi và anh Sumoto có cái thú muốn biết trong hai chúng tôi rồi đây ai sẽ là người phá rào trước.

Ờ hèm !

Thưa quý vị, thế còn về cô dâu Hitotsubashi Sueko, hôm nay đã chọn được ngày Hoàng đạo để cử hành hôn lễ thật long trọng ở đền thần, nên có lẽ bây giờ tôi phải gọi cô là cô Sumoto Sueko. Toàn thể quý vị ở đây chắc cũng phải nhìn nhận vẻ đẹp chim sa cá lặn của cô. Hôm nay quả là ngày hôn lễ vui mừng của một cặp giai nhân tài tử. Tôi đã quen cô Sueko nửa năm trước khi cô và anh Sumoto quen nhau. Đó là vào một lần ở Shinshu, sau khi tôi vừa chia tay với Sumoto để anh ấy về Tokyo. Trên con đường lớn sắp đến chỗ rẽ, cô Sueko phóng xe đạp từ phía sau tới, sắp đâm sầm vào tôi. Cô vừa bấm chuông vừa bẻ ghi đông tránh sang bên phải, nhưng không may là tôi cũng tránh sang cùng bên, nên bánh xe của cô đâm vào chân tôi, rồi cứ thế cả hai chúng tôi cùng ngã lăn xuống ruộng.

Dường như cô Sueko bị đụng phải chỗ hiểm nên cô ngất đi, đầu bị húc vào ruộng trồng đậu, chân thì bị xe đạp đè lên. Ống quần của tôi cũng bị rách toạc. Tôi vẫn còn nhớ mãi, lúc đó cô mặc một chiếc áo len cài khuy màu xám nhạt và chiếc váy màu đỏ thẫm, chân trần không đi vớ. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một như đang thấy trước mắt cảnh tượng lúc cô bị ngã, sợi dây đeo ở cổ tay cô tuồng như bị đứt, những hạt cườm bằng đá chạm văng ra tung toé bên đường. Tôi đứng dậy lê một chân hơi khập khiễng, dựng chiếc xe đạp đang đè trên người cô lên, lúc đó tôi mới thấy ơ kìa ống chân trắng ngần không đi vớ của cô đang chảy máu là gì … Tôi nghĩ bụng: nguy to, bèn dẹp chiếc xe đạp sang bên kia đường, và đang định nâng cô Sueko dậy, thì cô còn đang bị ngất, bỗng mở bừng đôi mắt tuyệt đẹp mà nói : ” Tôi xin lỗi anh “. Tôi chưa bao giờ được trông thấy một đôi mắt nào thánh thiện và trong suốt đến thế. Người đời thường trân trọng các thứ ngọc bằng đá hay ngọc trai mà họ cho là đẹp, nhưng chẳng qua đó là những vật không hồn, làm sao có thể đem so sánh với đôi mắt của một người con gái đẹp. Chẳng qua vì họ chưa biết đến vẻ đẹp trong đôi mắt của người con gái nên họ mới đem lòng yêu thích kim cương hay ngọc trai. Trên thân thể của người đã có một thứ tuyệt đẹp đến thế, thì kim cương hay châu ngọc phỏng còn có giá trị gì để chúng ta bàn đến nữa.

( Bỗng có người tỏ vẻ sốt ruột )

Cũng vì chuyện này tôi liền viết thư lên Tokyo cho anh Sumoto. Tôi đã viết bức thư ấy trong căn nhà nghỉ mát ở Karuizawa. Nhà làm bằng gỗ, có một chiếc đèn đứng với chân đèn bằng gỗ. Ngay phía trước cửa sổ có một cây hạt dẻ thật cao. Chao đèn phản chiếu hình những bông hoa hạt dẻ trắng như màu tuyết. Tôi đã viết bức thư cho anh Sumoto bên ánh đèn, mở đầu như sau:

” Sumoto à, tôi muốn cho anh xem cái này.

Tôi viết như vậy, có lẽ anh cũng chẳng hiểu đó là gì. Nhưng tôi rất muốn biết, một khi trông thấy rồi anh sẽ nghĩ thế nào. Anh có biết đó là cái gì không? Anh lanh trí lắm, nên tôi có cảm tưởng anh đã đi guốc vào bụng tôi. Đó là sự xuất hiện của một người con gái đẹp. Tôi tưởng chừng như đang thấy nét mặt cau có của anh. Nhưng mà rất đáng để cho anh xem lắm, thật đấy.

Thú thật là từ khi gặp người con gái ấy, tôi đã đổi ý. Một khi đã trông thấy đôi mắt đẹp của người con gái ấy thì tôi không thể nào không thay đổi tôn chỉ của mình bấy lâu. Anh đã biết, lâu nay tôi vẫn nghĩ rằng vẻ đẹp của phụ nữ chỉ là một thứ tà đạo, thân nam nhi mà để bị loạn tâm loạn trí vì thế thì chỉ là hạng người kém hiểu biết, nên tôi vẫn cương quyết làm chủ lòng mình. Thế nhưng nào ngờ hôm nay tôi đã đắm đuối say mê người con gái tình cờ mới gặp. Tôi chưa muốn nói là tôi đã yêu nàng. Nhưng vẻ đẹp của nàng đã làm tâm hồn tôi xao xuyến mất rồi. Tôi đã sinh ra nghi ngờ tự hỏi, tại sao trên đời có đôi mắt đẹp như thế này mà người đời lại quý hoá những thứ không hồn như kim cương hay ngọc trai.

Sumoto ơi, anh hãy tha thứ cho tôi. Lúc này tôi không thể không chế nhạo mình, vì lâu nay đã ngu xuẩn tự giao cho mình cái nhiệm vụ ghét phụ nữ. Có một lần, hôm anh và tôi đi xem tuồng kabuki “Narukami “, lúc đó anh đã chỉ người con gái trên sân khấu mà nói rằng: phụ nữ ai cũng chỉ là hoá thân của loài yêu ma như nàng Kumo no Taema Hime kia. Đàn ông dù cẩn thận thế nào chăng nữa rốt cuộc rồi cũng thành ngu xuẩn. Anh đã bảo anh không muốn trở thành hoà thượng Narukami. Viết đến đây, tôi lại nhớ lại cảnh trên sân khấu lúc bấy giờ. Liệu rồi nàng có phải là nàng Kumo no Taema Hime hay không. Tôi muốn anh nhận xét thử xem sao .

Mong anh mau tới, sớm chừng nào hay chừng ấy ! “



Tôi đã viết một bức thư như thế.
( Tôi vừa nói đến đó, người xếp bồi đã tiến đến đưa cho tôi mảnh giấy giục đã hết giờ, hãy kết thúc nhanh giùm bài chúc mừng cô dâu chú rể .)

Ờ hèm !

Thưa quý vị, người dẫn chương trình của buổi tiệc cưới vừa đưa cho tôi mảnh giấy giục đã hết giờ, đừng dài dòng nữa, hãy đi vào vấn đề chính. Nhưng để quý vị hiểu đích xác đầu đuôi câu chuyện mà tôi không mào đầu như thế này thì e rằng cũng khó trình bày được chân ý.

( Cũng có người la to ” Cứ kể tiếp đi ! “) .

Tôi đã nhận được lá thư hồi âm của anh Sumoto, mà từ đầu đến cuối bức thư đầy ắp từng giòng từng chữ toàn những lời công kích gắt gao, coi việc tôi từ bỏ tôn chỉ ghét phụ nữ là một sự phản bội khó lòng tha thứ. Trong căn nhà nghỉ bằng gỗ ở Karuizawa, tôi đã đọc đi đọc lại bức thư ấy không biết bao lần trong ngấn lệ, lòng tràn ngập niềm biết ơn bạn, nhưng đồng thời không phải là tôi không biết rằng đã đến lúc phải giã từ tình bạn.

( Bấy giờ ngưòi xếp bồi lại đến, nắm lấy vai tôi toan lôi tôi đi . Phòng tiệc có vẻ đang xôn xao, nhưng tôi cứ nói tiếp )

Tôi lại viết thư trả lời Sumoto.

” Quan niệm của anh, coi tất cả phụ nữ trên đời hết thẩy đều là yêu ma quỷ quái như nàng Kumo no Taema Hime, chẳng qua chỉ là một thành kiến lệch lạc mà thôi. Trong đôi mắt nàng tuyệt nhiên không hề gợn một chút vẩn đục nào của loài yêu quái ấy. Mà cho dù nàng có phải là nàng Kumo no Taema Hime chăng nữa, thì hoà thượng Narukami, người đã cảm thông với nàng, say đắm nàng, đến nỗi phải phá giới sa đoạ vì nàng, chẳng phải là một người đàn ông hạnh phúc trên đời này hay sao.”



( Đột nhiên có người quát gọi đem đồ nhắm tới, phòng tiệc nhốn nháo cả lên, tiến sĩ H chừng như giận đã sôi gan, bèn bỏ về, nhưng tôi lại càng cao giọng nói tiếp ).

Kính thưa tất cả quý ông quý bà trong phòng tiệc, xin quý vị hãy yên lặng mà nghe tôi nói tiếp. Bài chúc của tôi bây giờ mới đến đoạn hay nhất.

( Vì sĩ diện , tôi cứ đứng quay lưng về phía khách dự tiệc cưới mà không buồn quay lại, rồi tiếp tục hùng hồn cao giọng )

Thưa quý vị !

Hoà thượng Narukami đã nhìn thấu được chân tướng của nàng Kumo no Taema Hime, đã biết nàng là yêu quái từ lâu. Nếu cho rằng hoà thượng vì không hay biết nên mới bị nàng quyến rũ mà sa bẫy, thì đó chỉ là một cách nhìn hời hợt. Lẽ nào hoà thượng lại không linh cảm được rằng đó là một con yêu nữ. Tôi cho rằng ngài đã biết nhưng vẫn không tránh được. Thói thường, con nguời ta tuy biết mình sắp gặp nguy, nhưng mà lại hay cứ cắm đầu cắm cổ đâm đầu vào chỗ chết. Hoà thượng thừa biết mình đang bị bùa phép của nàng Kumo no Taema Hime, nhưng ngài vẫn không thắng nổi sức quyến rũ của nàng, cứ đến gần nàng để rồi vương luỵ vì nàng.

Trên sân khấu kabuki, có khi nàng Kumo no Taema Hime cuốn tà áo lên ngay trước mắt hoà thượng, để lộ dưới gấu áo màu đỏ ống chân trần trắng nuốt, có khi nàng lên cơn động kinh ngay trước mặt hoà thượng để ngài phải đỡ nàng,phải xoa từ nhũ hoa cho xuống đến dưới rốn cho nàng. Cho dù là một vị hoà thượng rất đạo hạnh đến đâu đi nữa , trong lúc chạm vào vú, vào rốn và cả hạ bộ của người nữ, lòng trần ắt sẽ nổi dậy, có sa ngã cũng là chuyện thường tình. Người nào vẫn có thể dửng dưng cho dù gặp phải tình huống ấy, quả là đức Phật sống trên đời này. Nếu chỉ là một người bình thường ở đời, thì cho dù đó là một vị hoà thượng hay là ai chăng nữa, nhất định là sẽ không dằn được lòng ham muốn.

Ờ hèm !

Quý vị có mặt ở đây, dù là quý ông hay quý bà, có lẽ đã biết một màn kịch kyogen cũng có tựa đề Narukami, với nhân vật Narukami là một người nữ, ni cô Narukami. Màn kịch mô tả ni cô đã vương vào tục luỵ vì một người đàn ông đẹp trai tên Kumo no Taema no Suke. Có nghĩa là, tôi xin phép thưa không chút khách sáo rằng, cho dù quý vị là hiền nhân quân tử hay thục nữ đoan trang, khó ai tránh khỏi luỵ vì tình. Riêng tôi, từ lúc đã trông thấy giòng máu đỏ trên ống chân trắng trẻo của cô Hitotsubashi Sueko, thật chẳng khác gì nàng Kumo no Taema Hime, tôi không khỏi nghĩ rằng mình đã được thấy một vẻ đẹp tưởng chừng không thể có trên đời.

( Người xếp bồi lại đến , túm lấy vai tôi như muốn tống cổ tôi ra khỏi chỗ ấy. Nhưng tôi cũng gan lỳ, tôi đẩy hắn ra.)

Thư từ qua lại được vài tháng sau, tôi đã đi gặp anh Sumoto để kể cho anh nghe rõ đầu đuôi sự tình. Khác hẳn với thái độ trong thư, bấy giờ anh Sumoto lại ra chiều chăm chú nghe câu chuyện của tôi. Nghe được nửa chừng câu chuyện, tôi thấy anh đã có vẻ nao núng dần.

Ờ hèm ! Ờ hèm !

– Bộ cô ta đẹp đến thế sao ?

– Đẹp thật mà. Chắc anh chỉ gặp cô ta một lần là anh cũng phải lòng ngay.

– Làm gì có chuyện vớ vẩn thế! Đàn bà được khen là đẹp chẳng qua vì họ trang điểm. Cứ bỏ son phấn đi mà xem, thử hỏi trông họ có còn ra gì không ?

– Thôi, chúng ta cứ lời qua tiếng lại thế này cũng chẳng đi đến đâu. Anh cứ gặp cô ta một lần thử xem. Tôi chắc chắn là anh cũng sẽ phải đồng ý với tôi rằng nàng ” đẹp thật “, anh sẽ phải trố mắt ra mà nhìn đấy. Tôi muốn anh phải thú nhận rằng anh đã đầu hàng. .

– Cần gì phải gặp, tôi cũng biết đại khái là anh thích kiểu người đẹp như thế nào rồi !

– Dù thích kiểu nào cũng phải công nhận rằng cô ấy đẹp.

– Anh đã nói thế thì .. tôi gặp cô ta cũng được thôi. Nhưng trước hết tôi muốn hỏi anh một điều.

– Điều gì ?

– Theo như thư đầu anh viết cho tôi, thì anh vẫn chưa phải lòng cô ta. Nhưng anh có viết rằng, anh đã phải ngơ ngẩn trước vẻ đẹp của cô ta, có đúng không ?

– Đúng thế.

– Nếu cô ta đã thành người yêu của anh, tôi có gặp rồi khen chê thế nào cũng là vô ích. Nhưng nếu anh cũng chỉ như tôi, và chỉ là vấn đề khách quan, muốn chúng ta cùng xem thử cô ta có đẹp hay không, thì tôi thử gặp cũng được thôi.

– Như vậy cũng được.

Tôi lúng túng đáp. Thế là, anh Sumoto chịu đi gặp cô Sueko.

( Ba người đàn ông lực lưỡng toan điệu tôi ra khỏi phòng tiệc cưới. Nhưng tôi đâu có chịu thua. Đã nói đến đây, thì tôi phải kết thúc câu chuyện chứ, nếu không thì bài chúc của tôi không ra một bài chúc có đóng có mở đàng hoàng.) .

Ờ hèm !


Thế là anh Sumoto đã gặp cô Sueko lần đầu vào khoảng nửa năm sau khi có vụ đụng xe đạp giữa tôi và cô ấy. Đó là vào một ngày mùa đông, nói cho chính xác thì đó là vào tối trước đêm Giáng sinh, trong một buổi hội chợ ở trường cũ của cô Sueko, trường nữ Shida. Ngày hôm ấy, mặc dù trời lạnh cô Sueko vẫn mặc phong phanh, ai lại đúng cái áo len cài khuy màu xám nhạt với chiếc váy hồng, cũng đeo dây chuyền và đeo vòng ở cổ tay, giống hệt như hôm cô phóng chiếc xe đạp bóng loáng, về chỗ có ngã rẽ trên con đường lớn, có cây thông rụng lá và hoa huệ ngày nào . Hôm ấy cô phụ trách kỹ thuật ở hậu trường sân khấu giúp vui cho ngày hội chợ.

Tôi cứ tưởng là hôm ấy cô sẽ mặc một bộ quần áo sang trọng hơn nhiều, nên vừa trông thấy cô tôi đã nghĩ bụng ” Hỏng kiểu rồi !”. Thế này thì làm sao mà anh Sumoto trầm trồ khen ngợi được. Tiếng là không thèm để ý đến đàn bà con gái, nhưng thực sự anh ta lại kén chọn ra phết đấy. Không đóng bộ cho thật lộng lẫy vào, thì khó mà ăn điểm với anh chàng. Nhưng nào ngờ cô Sueko lại chỉ mặc mỗi một chiếc áo len cài khuy màu xám nhạt, giống như hôm ở Karuizawa. Cô còn đang giúp việc trong hậu trường sân khấu, có vẻ như mặt mày còn dính bụi lem luốc nữa. Tuồng như cô cũng chẳng son phấn gì, lại còn đầu bù tóc rối.

Tôi chỉ vào hậu trường nói:

– Kìa, cô ấy đấy!

Anh Sumoto chỉ nói có mỗi một câu:

– Đấy sao? .

Rồi anh chẳng nói chẳng rằng, tuy rằng cũng có vẻ như đang chăm chú nhìn thật kỹ. Đoạn anh cùng tôi ngồi xuống, ngả lưng vào thành ghế xem văn nghệ, miệng nói:

– Cũng thường thôi.

làm tôi chẳng biết phải trả lời thế nào, trong bụng cứ hối tiếc vì đã để cho anh ta trông thấy cô Sueko không đúng lúc.

Tôi hỏi anh :

– Không chấm được sao?

Anh liền hỏi lại tôi :

– Thế anh chú ý cô ta ở điểm nào mới được chứ?

– Điểm nào thì tôi không nói được. Tôi chỉ nghĩ rằng người như cô ấy thì mình có thể yêu được.

– Nếu nói yêu, thì yêu ai mà chả được. Tất cả các cô gái trong ngày hội chợ này ai cũng đáng yêu. Không có ai là không đáng yêu cả.

Sumoto nói tiếp ra vẻ ta đây:

– Tôi không nói chuyện đáng yêu hay không đáng yêu, mà chỉ muốn nói một cách khách quan về giá trị của người phụ nữ. Hầu như không có người con gái nào đáng gọi là phi phàm cả.

Ờ hèm !

Sau ngày hội chợ được ít lâu, thỉnh thoảng ba chúng tôi lại gặp nhau. Có khi hai thanh niên chúng tôi đến phòng của cô Sueko, cũng có khi cô đến chỗ tôi rồi cùng tôi đến nhà anh Sumoto, lại có những lần cả ba chúng tôi hẹn gặp nhau ngoài phố như Ginza hay Shinjuku.

( Nói tới đây , trước mắt tôi cô dâu chú rể đã biến dạng tự bao giờ. Không những thế, mà tôi còn kinh hoàng nhận thấy tất cả những bông hoa tươi thắm đẹp đẽ trang hoàng trước mặt cô dâu chú rể đều gục đầu rũ xuống. Nhìn những bông hoa héo rũ rượi mà tôi giật mình. Phải chăng bài chúc mừng của tôi đã có ám khí khiến cho cả đến những bông hoa tươi cũng phải héo úa ? Không ! Không đời nào như thế! Trong buổi tiệc mừng hôm nay, tôi chỉ thành thực cố tường thuật lại một cách trung thực, không dám đơm đặt điều gì về con đường tình sử mà cô dâu chú rể đã qua , để nói lên ý nghĩa của cuộc hôn nhân này ) .

Ờ hèm !


Mùa hè năm sau đó, ba chúng tôi lại cùng đi Karuizawa. Chúng tôi bắt đầu cuộc sống chung trong một chiếc chòi gỗ nơi nghỉ mát do tôi đứng tên thuê ở giữa rừng cây xanh, cách con đường nhỏ có sân quần vợt một quãng đường. Thưa các vị quý khách trong buổi tiệc rất đông người hôm nay, quý vị nghĩ sao về cuộc sống đó ? Nói vô phép các ngài, tôi chắc rằng trong các ngài không phải là không có người liền tưởng tượng rằng chúng tôi là những kẻ lập dị, đã sống theo kiểu quan hệ tay ba, hai ông một bà. Một người nữ với hai người nam, trong chữ Hán nếu viết hai chữ nam ở hai bên và một chữ nữ ở giữa, thì đó là chữ “điểu” có nghĩa là đùa bỡn, ỡm ờ. Một người con gái ỡm ờ với hai ngưòi con trai ..là đồ nỡm. Mà hai nguời con trai đùa bỡn với một người con gái thì thật là tội nghiệp cho cô ta. Viết ” đùa chết người”, với chữ đùa là chữ ” điểu ” này, là để trỏ việc hai người con trai xúm lại mà làm hại đời một người con gái cho đến chết .

Thế nhưng xin quý vị đừng lo. Ở Karuizawa, ba chúng tôi đã không làm điều gì để quỷ thần phải quở trách. Chúng tôi theo nguyên tắc phân công, mỗi người một việc. Tầng một là phòng khách vách gỗ kiểu tây phương. Các phòng lát chiếu kiểu Nhật ở tầng hai, gồm một phòng sáu chiếu và một phòng ba chiếu. Còn có thêm một phòng làm việc có thể dùng thành phòng ngủ. Phải nói đó là một diện tích quá rộng rãi cho cuộc sống chung của ba chúng tôi. Chúng tôi ai ở phòng nấy, khi ăn xuống phòng khách, theo kiểu góp gạo thổi cơm chung. Ngoài ra đến giờ đọc sách thì tôi làm thầy giáo, còn cô dâu chú rể trong tiệc cưới hôm nay làm học trò, học với tôi các môn như tiếng Pháp chẳng hạn. Giữa tôi với anh Sumoto, nếu bảo ai là người săn sóc cô Sueko nhiều hơn, thì thật là khó nói, vì cách đối xử ân cần với phụ nữ của tôi và của anh mỗi người một khác.

Một hôm cô Sueko bị sốt nặng. Việc săn sóc cô lúc đó mới là gay go, vì hai chúng tôi chẳng phải là anh hay em trai cô. Lúc ấy giữ việc thay túi nước đá trườm cho cô là anh Sumoto, nhưng tôi lại phải lo đập nước đá cho vụn để bỏ vào túi trườm. Ra phố mua nước đá cũng là bổn phận của tôi. Vì không có bình trườm nước nóng, nên hai chúng tôi phải thay phiên nhau hơ tay trên than hồng cho ấm, rồi ấp tay vào hai gót chân nhỏ bé của cô Sueko. Suốt đời tôi không bao giờ quên được cái cảm giác khi ôm gót chân và cổ chân mềm mại của cô lúc đó.

Tối hôm đó, sau khi uống thuốc át xpi rin, cô Sueko bỗng ra mồ hôi ướt đầm khắp người. Tất nhiên là không thể để mặc như thế, mà phải lau mồ hôi và thay áo ngủ cho cô. Một trong hai chúng tôi sẽ nhận nhiệm vụ này, thật là một vấn đề tế nhị và có tính cách quyết định, mà cô Sueko thì lại không chịu để cho cả hai chúng tôi cùng làm. Mà cũng dĩ nhiên là thế.

Ờ hèm !

Tôi và anh Sumoto bèn lấy bộ bài ra để bốc thăm. Ai rút được con ách cơ sẽ được phép lau người cho cô Sueko. Chồng cỗ bài được đặt trên bàn. Trước hết phải định xem ai là người được giở bài trước. Tôi được đi trước. Tôi giở trúng con bích số 6. Đi trước mà lại rủi ro. Đến lượt anh Sumoto giở bài. Anh được con rô số 9. Tiếp đó là tôi được con cơ số 2. Tim tôi đập thình thịch. Rồi anh Sumoto được con cơ số 5. Rồi đến lượt tôi được con đầm chuồn. Anh Sumoto được con rô già, tôi con chuồn 8 … Rút mãi mà chưa thấy mặt con ách cơ .. Mãi đến lượt thứ 42, khi vừa thấy mặt con ách cơ, thì bấy giờ mồ hôi đã vã ra khắp người tôi, còn anh Sumoto cũng mồ hôi mồ kê nhễ nhại. 42 là số chẵn, vì thế đương nhiên thắng lợi về phía Sumoto. Hai mắt anh như đang bốc lửa và long lên, anh nhìn tôi mà hét lớn :

– Đi ra ngoài !

Tôi thất thểu bước ra ngoài. Tôi đã khóc, khóc vật vã. Làm sao mà không khóc được. Cánh cửa phòng đã khép chặt. Sau đó tất cả đều im phăng phắc, chẳng còn nghe thấy động tĩnh gì cả.

Có lẽ bây giờ cô Sueko đã cởi trần, được cởi bộ áo ngủ ướt đẫm mồ hôi, và anh Sumoto đang được cầm chiếc khăn khô lau tấm lưng và bộ ngực đẹp đẽ của cô. Đã cởi áo rồi thì chắc là cũng phải cởi luôn cả quần, cởi quần lót, cởi cóc xê … Cô đổ mồ hôi là vì uống thuốc át xpi rin chứ có phải là làm điều gì để thần thánh phải quở phạt đâu. Cô bị trần truồng, cho dù có bị lộ những chỗ kín đáo, cũng không phải là điều bậy bạ. Thế nhưng liệu lúc đó anh Sumoto có đủ bình tĩnh mà cầm lòng được không nhỉ? Hay là anh cũng động lòng như hoà thượng Narukami mà rơi từ trên bệ thờ xuống đất. Phải chăng đúng như điều tiên đoán ngày nào, cô Sueko quả là một nàng Kumo no Taema no Hime.

Trời ! Phải chi mà tôi đổi được vị trí của con ách cơ ấy, thì cái trọng trách tuyệt vời ấy đã về phần tôi, và sự thể sẽ khác hẳn như sáng với tối. Nếu là tôi, tôi sẽ chỉ cởi quần áo để lau mồ hôi cho cô mà không có một ý nghĩ vẩn đục nào. Tôi sẽ rất tỉnh táo. Trước hết là cởi áo để lau bán thân trên, không thể không lau đôi nhũ hoa và dưới nách cho cô. Rồi sẽ từ từ lau xuống dưới, từ ngực xuống dưới bụng và quanh rốn. Rồi cởi quần, lau thật kỹ hạ bộ. Lòng tôi không gợn một mảy may nào ham muốn xác thịt, mà chỉ nghĩ đến chuyện lo lau sạch mồ hôi cho cô mà thôi. Như thế đã đủ để tôi mãn nguyện, không còn gì phải hối tiếc trên đời này nữa. Càng nghĩ tôi càng oán hận con ách cơ. Phải chăng, cũng vì ngày hôm ấy mà viên ngọc quý đang ở trong tay, đã tuột ra khỏi lòng bàn tay tôi mà lăn sang tay anh Sumoto.

Thế nhưng, một lát sau cánh cửa mở, anh Sumoto bước ra, nét mặt hiền hoà hơn cả mọi ngày. Thực tình, giữa hai người dường như không có chuyện gì xảy ra cả, họ đã mời tôi vào phòng, rồi bấy giờ đến lượt giở bài để xem ai sẽ phải đem quần áo dính mồ hôi đi giặt .

Lần này anh Sumoto lại ra hẹn là lá bài J- thằng diễu- . Tôi thận trọng giở từng lá bài, bụng bảo dạ, lần này thì nhất định không để bị thua. Tôi đã nhường cho bạn Sumoto được lau mồ hôi cho cô Sueko, không lẽ lại chịu thua luôn cả cái khoản giặt quần áo cho cô sao. May mắn là đến lá bài thứ 15 thì tôi đựợc. Thế là tôi liền vơ bộ quần áo ướt mèm của cô cho vào giỏ, vội đem ra vò ở sân sau nhà. Đúng lúc ấy, gió thổi lùa vào tàng cây hạt dẻ làm con chim lạ giật mình kêu lên một tiếng và bay vụt đi. Tôi xăn tay áo lên, bắt đầu giặt. Thật là mới thảm thiết, não nùng ai oán làm sao ! Tôi thấy rõ nước mắt mình đang rỏ xuống bộ quần áo ngủ màu trắng của cô Sueko. Tôi đoán là từ hôm hội chợ, anh Sumoto đã đem lòng yêu cô Sueko, và dần dần cô cũng đã phải lòng anh. Tấm tình của hai người đã sâu đậm từ lâu, đến độ không thể dứt ra được nữa, thế nhưng vì tình nghĩa với tôi nên họ vẫn phải dối lòng.

Ô hô … ( khóc )

Thế nhưng làm sao người ta có thể dối lòng chỉ vì tình nghĩa. Cũng như hoà thượng Narukami dù có phép thần thông đến đâu, cũng không dứt bỏ được tấm tình của ngài với nàng Kumo no Taema Hime. Cái sự nể nang vì tôi đã quen cô Sueko trước, gặp phải ngọn lửa tình nóng bỏng của họ, đã bị thiêu rụi thành tro và bay đi mất giữa khoảng trời cao rộng.

Trời ơi, vẻ đẹp trong đôi mắt của người con gái còn hơn cả thần thánh nữa đấy trời ạ.

Ờ hèm !

Đến đây tôi xin được kết thúc bài chúc vụng về và dài dòng trong buổi tiệc cưới hôm nay, để mừng cho cô dâu chú rể đã tìm được một tình yêu thiêng liêng cao quý. Và tình yêu của họ đã may mắn thành tựu, để có được ngày hôm nay, ngày giao ước sẽ trọn đời bên nhau đến bách niên giai lão, đồng tịch đồng sàng đồng quan đồng quách. Thành thật xin tất cả quý vị trong tiệc cưới hôm nay tha lỗi cho tôi, đã bắt quý vị phải bận tai lắng nghe một bài chúc dài dòng văn tự.

( Tôi nói đến đây, không kịp lau mồ hôi đang vã ra, ngồi xuống. Nhưng nhìn quanh phòng tiệc tối om chẳng thấy một ai. Còn chùm đèn sáng choang như đèn hoa chúc trong ngày cưới lúc nãy, thì đã tắt ngấm tự bao giờ) .




DTTM (Quỳnh Chi)
dịch truyện “Kashoku” của Funahashi Seiichi,
trong tuyển tập Truyện ngắn Nhật Bản (Nihon no Tanpen), 1989, Bungeshunju xuất bản.


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd050.htm

Tăng lương …

     



Một tớ gái tìm bà chủ xin tăng lương.

_ Tại sao phải tăng?! – Bà chủ hỏi.
_ Thưa bà, có ba lý do chính đáng – tớ gái đáp – Thứ nhất, tôi ủi đồ giỏi hơn bà!
_ Ai nói?!
_ Chồng của bà!! Thứ hai, tôi nấu ăn ngon hơn bà!
_ Ai nói?!?
_ Chồng của bà! Và thứ ba, việc trên giường tôi cũng làm tốt hơn bà!
_ Giỏi nhỉ? Lại chồng tôi nói với cô à!?
_ Không thưa bà, là anh làm vườn ..!

_ ……. OK, được rồi …., cô muốn tăng bao nhiêu…?




          

Thư gửi chị Thụy Vũ


_____________________
Lê Chiều Giang
_ “Không Đứng Mãi Trong Tranh” _ Nhà xuất bản Nhân Ảnh 2021

  • Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây

Trong một lần giận chồng tê tái, tôi vùng chạy khỏi căn chung cư nhỏ, lang thang đi dọc theo hàng cây bọc dài quanh con sông trước nhà.

Cái dễ thương nhất của những cuộc “bỏ nhà ra đi”, là chúng ta luôn ngoái cổ tìm xem “đối thủ” có cuống quýt chạy theo, có ăn năn, có hoảng hốt gọi mình trở lại hay không?

Nghiêu Đề đã chẳng làm điều đó, tôi chợt hiểu ra và thấy mình sai sai, trong những giận hờn vô lối sáng nay.

Sẵn chiếc ghe của bà Mười đang chờ đón khách, tôi vùng vằng “sang sông”. Không hiểu có phải sự vừa làm nư vừa muốn ăn vạ của tôi đã khiến chiếc thuyền tròng trành, chao đảo đến nỗi nó suýt nghiêng xuống nước?

Cũng chẳng biết qua tới bờ bên kia rồi tôi sẽ đi đâu?

Nhảy xuống sông? Thôi, chắc không nỡ, bởi tôi còn mê “sống” lắm…

Con đường cát trắng vòng vo dài như vô tận, dẫn tôi qua nhà chị Thụy Vũ bên Làng Báo Chí. Chị Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn hay dùng chiếc ghe nhỏ của bà Mười như chiếc cầu nối để thường xuyên sang thăm chúng tôi ở Cư Xá Thanh Đa. Hôm nay, lần đầu tiên tôi vất vả tìm sang nhà chị, một mình.

Anh Hồ Trường An hỏi thăm đủ điều khi tôi ngồi chờ chị thay áo, chải tóc. Dù bất ngờ có thêm tôi, chị Thụy Vũ cũng rủ để cùng đi gặp ai đó mà chị nói là sống ở… xa lắm.

Cái nơi “xa lắm” đó giờ nhớ lại tôi nghĩ chắc chỉ là Phú Lâm hay Chợ Lớn. Sau vài chuyến xe lam, chúng tôi đi bộ, lội tắt vô những ruộng những đồng xa khuất hẳn với đường phố ngoài kia.

Ngạt ngào trong gió, tôi ngửi ra mùi của trầm hương. Nhưng nơi chúng tôi dừng lại trông chẳng có vẻ gì là một ngôi Chùa. Rất đông người sàng qua lượn lại trong một cái sân nhỏ, tay mang những dĩa hoa quả, nhang đèn và tiền âm phủ. Anh Hồ Trường An giờ mới tiết lộ cho biết, chúng tôi đi coi… “Hầu Đồng”.

Hết hồn, vì sợ hãi một điều mà tôi chỉ nghe đến đã lạnh mình, sợ đến nỗi tôi chỉ còn muốn tìm đường tẩu thoát. Nhưng làm sao tôi dám rời khỏi nơi đây một mình? Và thật lạ, chỉ với cái nắm tay của chị Thụy Vũ sau đó đã làm tôi yên tâm. Tôi ngồi khoanh tròn chân chờ đợi, cứ như một “Đồng” rất lâu năm và chuyên nghiệp.

Bạn anh Hồ Trường An, Sìn, người mà tôi muốn chào bằng “Anh” thì chị Vũ nhắc tôi gọi là “Chị”. Lúng túng với nhiều nhân vật chẳng biết Ông hay Bà chung quanh tôi hôm đó, khiến tôi chỉ còn biết ngồi im với hương khói cay xè mắt như sắp khóc và chuông mõ rộn ràng.

**********

1975, cái mốc của nhiều điều và nhiều thứ… Tôi chẳng muốn than đi thở lại làm gì cả hằng trăm chuyện, mà thiên hạ đã nói gần hết. Nhưng làm sao để tôi có thể quên hình ảnh rã rời của chị Thụy Vũ, những lần chị ghé chơi nhà sau một ngày đi làm mệt mỏi.

Một ngày mà 12 tiếng phải chen lấn, bán vé trên những chuyến xe buýt tràn ngập những người là người. Chị mong manh và nhỏ bé, chị kiệt quệ rão rệu trong inh ỏi, điên đầu của một Sàigòn náo loạn những âm binh…

Nhờ sự tử tế của một cô bạn thân đang làm ở “Bộ Giao Thông”, chị Vũ được đi bán vé xe buýt, và dù chỉ với đồng lương thời bao cấp ít ỏi như thế, chị phải vặt vẹo nuôi nấng Khôi Hạo, Bé Khôi Thụy và Khôi Hạnh. Ông Sìn, người tôi gặp trong Chùa vài năm trước đó, sau 75, đã về ở để giúp chị cơm nước, chăm sóc mấy nhỏ khi chị không có nhà.

Bé Khôi Thụy, một vết sẹo ngang xương của đời, một gắn bó kỳ lạ từ mối tình mà chị thường đắng cay, chì chiết: “Khi lấy “Chả”, coi như là mình đã xí hết những trầm luân từ một tỷ những “Thằng Cha” có mặt trên cái thế giới này rồi!”

Chị có sắc mặt lạnh tanh khi nói chuyện đời mình, nét mặt vẫn hiền hòa nhưng vô cùng lạnh lẽo. Nhìn chị mà tôi mơ hồ tưởng chị kể chuyện nhân gian, chuyện của ai khác. Phải chăng, với những khổ đau trùng trùng, những bầm dập của đời, có khi đã tạo ra lớp vỏ ngạo mạn lạnh lẽo, như một khí giới tự vệ hữu hiệu nhất của chị?

Những tối chị ở lại nhà chúng tôi, phải là những nói cười rộn rã, hoặc rì rào to nhỏ, suốt đêm…

Mối tình đầu tiên thời thiếu nữ, chị tưởng đã đặt hết yêu thương, tưởng như được nép vai bé nhỏ bên một “Anh Hùng Mã Thượng”. Mối tình lớn này đã khiến chị sau đó phải giam mình suốt chín tháng dài, trong căn nhà im ỉm của song thân, vì sợ những thị phi, tai tiếng… Hóa ra lại chỉ là người “chẳng ra làm sao”, rất đặc biệt là đã không hiểu chút gì về Thượng với Mã! Bởi thế, Bé Hương chưa bao giờ được gặp cha mình, cho tới ngày Ông mất ở Sàigòn khoảng năm 1995.

Sáng thức dậy, khi Nghiêu Đề ngồi quấn thuốc rê, cái thuốc mà cả nước nghi là xắt ra từ những lá đu đủ, tôi rót trà nhâm nhi, ngồi nhìn chị Vũ trang điểm. Có lẽ chút yêu đời duy nhất còn sót lại từ chị, là lúc ngồi vẽ đôi chân mày, mỏng dính và mờ nhạt. Đời có còn gì không để chúng ta phải tô thêm cho đậm đà? Có lần tôi đã tính hỏi chị như thế.

Chị tô son lên môi, xức chút má hồng và… ca vọng cổ! Tôi hay cười cười với những phối hợp tréo ngoe, trật chìa chẳng đâu vào đâu của chị. Vậy mà cái chất giọng ngai ngái, khàn khàn khi chị ngân nga có lần đã làm tôi suýt khóc:

  • “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây…”

Có lần chị rủ tôi tới ngôi chùa Già Lam ở Phú Nhuận, Sư trụ trì là người thân với chị và nghe nói ông thuyết pháp rất hay. Chị đến không phải vì gì khác, ngoài việc có hẹn xem bói bài cho rất nhiều bà đang ngồi chờ chị ở bên ngoài, dưới bóng mát của một cây cổ thụ phía sau sân chùa.

Trên những khuôn mặt lam lũ, đầy lo âu và tội nghiệp đó đã có thoáng chút vui mừng, khi thấy chị Vũ đến. Câu hỏi của tất cả quý bà chỉ là: “Tuần sau, tháng tới chồng tui vượt biên có ổn không?”, hoặc “Bao giờ thì có tin của con trai tôi, hai thằng nhỏ đã ra ghe từ tháng trước?” …

Tôi nhìn mà xót xa thương những người Vợ, người Mẹ, mà trong những lo lắng, bối rối của một đời sống đầy rủi ro và tai ương… Họ đã chẳng biết tính toán cách nào, thu xếp ra sao, họ đành phải mang những băn khoăn, những thắc mắc tới nhờ chị Thụy Vũ trả lời và… giải quyết.

Dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, tôi ngồi bần thần, tò mò nghe chị Vũ bàn chuyện tương lai, quá khứ của thiên hạ qua một xấp lá bài xanh xanh đỏ đỏ. Trúng sai gì thì chắc chỉ có Trời và chị cùng với những “khách hàng” này mới biết, nhưng có một thời gian chị đã sống lất lây với cái “sự nghiệp” vui vui này. Chị đã bỏ đi được sự vất vả của bao tháng ngày bị rượt đuổi kinh hoàng, bởi những chuyến xe buýt triền miên, chạy bạt mạng và như điên trong thành phố.

Tôi đã nhiều lần trở về quê cũ, líu lo với chị ở Lộc Ninh hay trên Sàigòn, hoặc đi cùng chị tới nhà anh Văn Quang, người mà tôi nói đùa là chỉ có mình anh là trông gầy ốm hơn so với chị Thụy Vũ.

Mỗi lần muốn rủ tôi tới chung cư Nguyễn Thiện Thuật, chị giỡn: “Sáng nay tụi mình đi café với Ân Nhân”, tôi hiểu ngay là Văn Quang, người đã viết nhiều bài “tố cáo” về “Chả” giùm chị…

Đêm qua nhận email từ chị Thụy Vũ, một email dài hơn bình thường chợt làm tôi lo lắng. Chúng tôi email qua lại nhiều lần chị đã chẳng bao giờ nói tới anh Tô Thùy Yên. Duy nhất email này chị nhớ đến anh, dù chỉ thoang thoảng viết với một chút u hoài, nhắc tên một người “Chồng” đã ra đi từ vài năm trước. Chị cũng nhắn tôi về chơi, trước khi… quá trễ.

Chúng tôi đã sống cùng nhau một thời dưới những oan khiên của quê nhà. Nơi mà đời sống có những khi lẳng lặng, trầm tĩnh, đôi lúc lại hốt hoảng, vội vàng, cứ như sắp không còn kịp để làm một điều gì… Cảm giác đó sau bao năm đã chìm lắng, đã biến mất kể từ ngày tôi từ biệt chị, ra đi.

Và với email chị gửi đêm nay, tôi ngồi viết suốt bốn tiếng, tưởng đã như là một hồi âm.

Viết, để gửi về một nơi chốn rất xa xăm, một nơi mà không biết sẽ còn có bao giờ tôi trở lại…

Bỏ nhà

Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa?
Quăng lên trời
Ta,
Bước chân phiêu bạt
Tay không
bày cuộc chơi

Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản Đà? Ta chấp hết!
Cà phê? Dạ, Khổng Tử
Ngàn ly chưa thấm tháp

Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi vài
Phạm Thái
Đàn đứt dây, lỡ nhịp
Hết hơi
đêm chưa tàn
Ta hát lời ly biệt
Tử Kỳ
chết, dưới trăng

Đứng giữa trăm ngả đường
Không lui
và chẳng tới
Ta như đêm
Mịt mù
giữa trùng trùng duyên khởi

Quanh một vòng trái đất
Thèm,
Trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê
Khóc… nhớ nhà.


Bố cáo thất tung


Cắm cổ
Ta chạy bừa phía trước
Đêm trắng toát
Đêm,
trắng toát
Có tiếng nói nào trên trời kia
Dẫn dắt ta về nơi
… không biết

Ta ra đi
Bàn chân u mê
Thôi,
Chắc không tìm đường trở lại
Những gì chờ
Ở nơi sắp tới
Bếp ấm?
Hay tro tàn
Một ngày?
Hay trăm năm
Ta thật
không biết.

Nếu chẳng thấy ta thành phố này
Cũng đừng
gắng tìm ở nơi khác
Thôi,
Hãy đăng
“Bố cáo thất tung”
Cứ nghĩ như ta vừa
Mất tích.

http://vanviet.info/van/khng-dung-mi-tr … ieu-giang/

Đen hay Trắng ….?

  •         



    Ký giả:
  • _ Thưa Ông, bò của ông cho bao nhiêu lít sữa mỗi ngày ?

    Nông dân:
  • _ con nào, con đen hay con trắng ?

    _ con đen.
    _ 2 lít mỗi ngày.
    _ còn con trắng ?
    _ vẫn 2 lít.
    _ đêm đến bò ngủ ở đâu ?
    _ con nào, con đen hay con trắng ?
    _ con đen.
    _ nó ngủ trong chuồng.
    _ còn con trắng ?
    _ vẫn trong chuồng.
    _ Bò của ông trông rất khỏe mạnh … ông cho chúng ăn gì ?
    _ con nào, con đen hay con trắng ?
    _ con đen.
    _ nó ăn cỏ.
    _ còn con trắng ?
    _ cũng là cỏ.

    Ký giả … bực mình:
  • _ Tại sao Ông cứ hỏi đen hay trắng khi câu trả lời đều giống nhau ?

    _ vì con đen là của tôi.
    _ còn con trắng ?
    _ cũng của tôi.




    :tng:

Ăn Cơm Chưa?

Bình nguyên Lộc

Bà sơ rút nhiệt kế ra khỏi nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ ngạc nhiên như không tin ở điều mà bà đã thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc lại một lần nữa.

Tôi đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm cho tôi hốt hoảng đến cực điểm. Tôi mắc chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng kiến sự bối rối của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ là tôi sắp chết đến nơi.

Nhưng gương mặt tươi của bác sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi an lòng lại ngay. Giờ ấy còn sớm quá, bác sĩ, chắc mới đến nhà thương, chưa kịp mặc áo choàng, còn mặc thường phục.

Bà sơ theo sau nói:

– Hắn không còn nhiệt độ nữa, chắc hắn phải lạnh lắm, vì sự thay đổi đột ngột nầy, tôi cho hắn uống “Potion de Todd,” bác sĩ nhé!

– Phải đấy.

Đoạn bác sĩ hỏi tôi:

– Ông nghe thế nào?

– Như vừa tái sanh, thưa bác sĩ.

– Tốt! Mới nghe, tôi hoảng lắm, vì nhiệt độ xuống thình lình, có thể là triệu chứng của sự chảy máu ruột… nếu ông lén ăn gì.

Tôi cười, một cái cười héo hon của con người sốt liên miên hăm tám ngày, mà không ăn uống gì cả trong thời gian đó. Bác sĩ dặn thêm, trước khi rời buồng tôi:

– Vài hôm nữa là thèm ăn, nhưng phải nhịn, ăn là lủng ruột ngay… Ngoan lên nhé!

Quên nói rõ, là tôi mắc bịnh nầy trước chiến tranh, vào thuở mà loài người chưa tìm ra thuốc trị thương hàn. Nhà thương cứ để vậy, tiêm thuốc nâng đỡ cho trái tim khỏi lụy, rồi ai kháng chết được, thì sống, ai yếu lắm, là đi luôn.

Như vừa được tái sanh! Tôi không nói quá đâu. Vi trùng bệnh thương hàn phá rối sinh lý con người một cách kỳ lạ lắm. Tôi nghe yêu đời ghê hồn và dòm ra sân nhà thương tỉnh Bình Dương (bấy giờ là Thủ Dầu Một), tôi thấy khóm bông dừa, thứ bông hèn ấy, sao mà hôm nay lại đẹp lạ lùng.

Trưa hôm đó, bác sĩ Chaput khoe với tôi rằng, ở trại bố thí III, một con đồng bịnh với tôi cũng vừa khỏi. Ông ta sung sướng về chuyện ấy lắm, vì con bịnh các trại bố thí chết nhiều quá, khiến dân chúng hiểu lầm, nhà thương bỏ bê người nghèo khó. Sự thật, thì sở dĩ, số tử ở đó lên cao theo tỷ lệ, vì các con bịnh nghèo, thường để thật nguy kịch mới vào nhà thương và khi vào điều trị, không có người nhà theo để săn sóc, nhà thương chỉ vừa đủ người lo thuốc men thôi. Còn những sự săn sóc (rất cần thiết) phải được người nhà lo lấy mới mong lành bịnh.

Tôi yêu đời, và cố nhiên, yêu kẻ đồng bịnh vừa khỏi cùng một lượt với tôi. Ba hôm sau, được nuôi dưỡng bằng nước xúp và bột Ý, tôi đã chống gậy đi được, và mục tiêu phiếm du đầu tiên của tôi là trại III.

Kẻ đồng bịnh với tôi là một cô gái Trung Hoa, hai mươi tuổi, con gái đang thì, cái ngực tất phải to, thế mà tôi trông cô ta xẹp lép như con cá khô. Cái mền cô ta đắp, như dán sát vào chiếu nhà thương.

Người bạn đồng bịnh với tôi, đi không được như tôi. Trong cơn nóng sốt không ăn, người nhà tôi có mua “Sérum Glucosé” cho bác sĩ bơm vào tôi, nhờ thế mà tôi không suy lắm. Con bịnh nghèo nầy, thì khỏi hưởng món xa xí phẩm ấy, mà nhà thương không sắm được, vì kém tài chánh.

Tuy nhiên, nhìn sơ cô gái, tôi cũng thấy là cô ta đẹp lắm. Hoa tàn kia mà còn mang dấu vết thời tươi thắm thay, huống chi đây chỉ là một đóa hoa thiếu nước lọ trong chốc lát thôi… Cứ theo người cùng trại với “Á Lìl,” tên cô, thì cô ta là một đứa bé được “mua.” Chú Xừng Hinh, chủ tiệm chạp phô ngoài chợ, năm xưa về thăm quê quán bên Tàu, gặp mùa lụt lội, đói kém, đã mua đứa bé ấy ba mươi đồng bạc. Bạc Trung Hoa với bạc Đông Dương thuở ấy tương đương giá với nhau, thì quý vị biết, con bé ấy rẻ là dường nào.

Chú Xứng Hinh cũng khá, xem Á Lìl như con chú, chớ nhiều thằng khác, nó nuôi những con bé “nước lụt” ấy cho đến thời trổ mã, bắt làm lụng cho bù với số tiền mua, rồi lại hưởng luôn chúng là khác.

Như chủ nó, Á Lìl là người Triều Châu. Phụ nữ Triều Châu để rìa tóc phủ lên trán, xem rất ngây thơ và có duyên. Họ lại đẹp người hơn tất cả các thứ người Trung Hoa khác. Á Lìl lại là gái dung nhan có hạng trong thứ người đẹp nầy, nên tình thương kẻ đồng bịnh của tôi, bỗng nhiên, tăng lên gấp bội, vì tôi mới có hăm ba tuổi.

Nếu như ở ngoài, chắc không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện yêu một “ả nô tỳ,” cho dẫu là nó đang đẹp lộng lẫy. Nhưng ở đây, cô ta là con bịnh, đồng hạng với tất cả con bịnh khác.

Một ngày, tôi chống gậy xuống trại III đến hai lần, lần nào tới nơi, tôi cũng đứng lại nơi cửa trại, để thở dốc một hơi, rồi mới vào được…

Á Lìl đoán biết tình cảm của tôi đối với nó, nên lần nào, mắt nó cũng sáng lên, khi nghe tiếng gậy của tôi nện cồm cộp trên gạch.

Từ năm lên chín, mãi đến bây giờ, nghĩa là từ năm bị bán và đưa sang nước “An Nam,” con “nô tỳ” nầy chưa được ai nói ngọt với nó lời nào cả. Bây giờ, bỗng nhiên có một dân mặc “bi-da-ma,” lân la thăm hỏi nó, thì làm sao nó không rưng rưng lệ sung sướng được.

Mặc dầu chỉ được uống nước cháo với đường hạ, con ở Á Lìl cứ càng ngày càng hồng hào ra. Con gái, dường như, có dự trữ trong người những sức mạnh gì như cứ chực vùng lên, không cần ăn gì cho bổ lắm, họ cũng cứ béo tốt ra.

Má Á Lìl cạn dần lên, trông ngon như hai trái đào ở bảy phủ Triều Châu mà Á Lìl thường ca tụng với tôi. Trông Á Lìl, tôi nghĩ ngay đến những phi tần bên Tàu ngày xưa, cũng tuyển lựa trong đám dân “nước lụt” như vầy. Thì ra, con gái Trung Hoa, ngàn đời, vẫn đẹp và vẫn để mà tiếp tế cho các cung tần. Á Lìl sẽ làm bé chú “chệt” già đại phú nào đây, một ngày kia.

Hôm ấy, Á Lìl ngồi dậy được, nhưng còn phải ăn cháo hoa với “hàm-yũu.” Cháo với vị mặn giúp Á Lìl tươi tỉnh hẳn ra. Nó tiếp tôi bằng một bài hát gì đó, tôi không hiểu, nhưng rất thích nghe. Cái giọng mũi của người Triều Châu, khi hát lên, nghe líu lo rất dễ yêu, nhứt là dễ thương, nghe như là họ khóc cảnh sống lầm than của họ.

Á Lìl cắt nghĩa cho tôi biết rằng, bài hát ấy nói đến cái mặt trăng nho nhỏ và tròn tròn. Nó mới giải thích tới đó, thì người nhà chú Xừng Hinh mang cho nó một “gàu-mên” cơm. Mắt con Lìl sáng hơn là khi tôi mới vào thăm nó nữa… Tôi hỏi:

– Nhà đem cơm từ bao lâu rồi?

– “Ngóa” thèm quá, chỉ mới nhắn đem vô lần đầu thôi.

– Lìl không nên ăn cơm vội. Bác sĩ không có dặn gì sao?

– Bác sĩ nói tiếng Tây, ngóa đâu có hiểu. Bà Sơ biết chút ít tiếng Annam, dặn đừng cho ăn đồ cứng, ăn thì lủng ruột chết liền.

Á Lìl nói xong cười ngặt nghẹo, một hơi, rồi tiếp:

– Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.

– Lìl không hiểu, chớ ruột Lìl đã bị vi trùng làm cho mỏng lắm rồi đó.

Á Lìl lại cười một giây nữa, mà rằng:

– Bị thuốc của thằng Tây làm cho mỏng thì có. Thầy biết sao không? Hổm nay ông Tây chích cho “ngóa” chết mà “ngóa” không chết, nên ổng bỏ đói cho “ngóa” chết đó…

Á Lìl nói rồi vừa kéo gàu-mên cơm lại, vừa nói:

– Ăn cơm với gừng nấu dấm thì tốt lắm, như người “An nam” ăn với muối tiêu vậy mà, chết sao được.

Tôi bối rối quá. Hôm ấy có Mẹ Bề Trên, người cai quản các bà Sơ, từ Sàigòn lên Bình Dương thanh tra, nên bà Louise bận tiếp đón bà Mẹ Bề Trên ấy, không còn ai cho tôi cầu cứu để thuyết lý Á Lìl. Các thầy khán hộ thì đã dặn con bịnh cữ kiêng xong là nghe tròn bổn phận, không theo dõi họ để ngăn cản gì nữa. Còn tôi, tôi ngại một điều, mà cũng chẳng khỏi.

Khi tôi giựt lấy “gàu-mêm” cơm, thì Á Lìl giận dỗi trách:

– “Cố lứ” nói thương “ngóa,” sao không cho “ngóa” ăn cơm?

– Vì thương mới không cho ăn.

Thật thế. Nếu Á Lìl chỉ là một cô gái xấu xí, tôi cũng không nỡ để cho nó tự tử một cách gián tiếp như vậy. Huống chi trong mấy ngày vui mừng tái sanh ấy, tôi lại điên dại mà yêu đứa “nô tỳ” nầy.

Lìl cười gằn hỏi:

– Thương gì lại bỏ đói?

– Vì ăn thì chết ngay.

– Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.

Á Lìl lập lại câu hồi nãy, rồi khóc mùi mẫn.

Thật là em nhỏ, mất miếng ăn một cái là khóc bù lu, bù loa. Nhưng không sao, tôi sẽ dỗ em nhỏ, thì em nhỏ nín chớ gì.

Tôi định bụng như thế, nhưng tôi lầm.

Lần đầu tiên, tôi rờ đến Á Lìl. Tôi vuốt tóc trán nó và nói rằng:

– Lìl nín đi, rán nhịn, rồi vài bữa khỏi hẳn, tôi sẽ đưa Lìl đi ăn tửu lâu Triều Châu Đại La Thiên ở Chợ Lớn, có nhiều món ngon bằng một vạn thứ cơm gừng dấm nầy. Ở Đại La Thiên có chè thịt heo nè, có cù lao nè.

Nhưng Á Lìl cứ khóc, khóc như cha chết mẹ chết không bằng, lâu lắm nó mới nói được trong tấm tức, tấm tưởi:

– “Ngóa” nhớ tía má của “ngóa” quá. Tía má “ngóa” vì không có cơm ăn nên chết. Tía “ngóa” chết đi được một tháng, thì má “ngóa” bán “ngóa” cho Xừng Hinh lấy tiền mua gạo cho mấy em của “ngóa” ăn. Nhưng cả nhà ăn giỏi lắm được mười ngày, chắc rồi cũng chết hết. Cơm sao lại giết người? Không cơm mới nguy chớ!

Nghe Á Lìl nhắc tới nguồn gốc nó, tôi đau xót vô cùng. Cơm là giấc ác mộng của người Trung Hoa từ mấy ngàn thế hệ nay, cho đến đỗi họ gặp nhau, chào nhau bằng câu: “Ăn cơm chưa?”

Nhưng làm thế nào cho con bé dại dột nầy hiểu rằng, không cơm thì chết đã đành, mà có cơm, lắm khi cũng chết.

Vả lại, Á Lìl không cả quyết ăn vì thèm nữa, mà ăn để trả thù sự chết đói của cả nhà nó, thì làm sao mà thuyết phục nó được. Có lẽ nó đang nhìn cơm, mà nói thầm: “Ừ, ngày xưa, cha mẹ tao không có mầy nên chết, bây giờ gặp mầy đây, tao có dung tha đâu! Tao ăn cho sống dai, mặc kệ lũ nó bày điều, đặt chuyện.”

Biết nói làm sao cũng không xong, tôi xách “gàu-mên” mà đi. Sau lưng tôi, Á Lìl chửi rủa om sòm bằng tiếng Tàu. Nếu nó mà rượt theo được, chắc nó một mất, một còn với tôi, để cướp cơm lại.

Chiều hôm ấy, tôi trốn luôn, đến sáng ngày hôm sau mới dám chống gậy qua trại III. Á Lìl vắng mặt trên giường. Thấy tôi ngơ ngác tìm quanh, một bà lão vừa ho sù sụ, vừa nói:

– Nó chết đêm rồi thầy à, hồi năm giờ sáng. Người ta đã khiêng nó xuống nhà xác.

– Trời ơi! Sao lại chết?

Tôi giậm chân mà hỏi câu ngớ ngẩn ấy.

Người khán hộ ở đâu sau lưng tôi đáp hộ bà lão:

– Chảy máu ruột!

– Sao lại chảy máu ruột?

– Vì ăn!

– Trời ơi!

Bà lão ho, rồi lại nói:

– Thầy giựt cơm của nó mà trốn đi, thì chiều lại, người nhà nó đem cơm vô nữa. Nó ăn xong, tối lại kêu đau bụng, vằn vật tới khuya mới chết.

– Sao bà không mời bác sĩ dùm nó?

– Có, tôi có cho bà Sơ hay, bả có kêu thầy đây.

Bà chỉ vào thầy khán hộ, thầy ta lắc đầu thở ra và giải thích:

– Tôi có tiêm thuốc cho nó, nhưng không gọi bác sĩ…

– Sao vậy?

– Vô ích. Chỉ có sang máu mới có một chút xíu hy vọng cứu nó; Nhưng ai sẽ cho máu nó? Còn thuê người để lấy máu thì tiền đâu?

Là con trai, tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to…

Đứng tần ngần giây lâu, tôi hỏi bà lão:

– Nó có nói gì hay không bà, lúc nó hấp hối?

– Có. Nó có kêu thầy…

– Kêu tôi? Có nhắn gì hay không ?

Nó kêu khóc rằng:

“Thầy hai ơi, té ra, quả thật không cơm cũng chết, mà ăn cơm cũng chết.. ‘Ngóa’ nghèo dốt, biết đâu. Trước kia tía má của ‘ngóa’ nghèo nên không ăn cơm, ngày nay ‘ngóa’ nghèo nên không biết, hai lần đều chết. Thầy hai ơi, ở lại mạnh giỏi nhá!”

Tôi không còn là con trai nữa, nhưng tôi không khóc tiếc thương một cô gái đẹp. Tôi chỉ khóc vì một gia đình sống không tên, không tuổi bị thảm kịch cơm làm tuyệt nòi, chỉ còn một mống thôi. Mống ấy trôi dạt đi xa ngàn dặm, qua cái xứ có cơm nhiều nầy, mà lại cũng không thoát khỏi thảm kịch cơm.

Ngày nay, mỗi khi nghe một người Trung Hoa chào ai: “Ăn cơm chưa?” tôi bâng khuâng nhớ lại mối tình yêu đầu và nao nao buồn mối tình thương đầu của tôi.

Bình Nguyên Lộc

https://www.luanhoan.net/gocchung2022/htm/bm%2022-9-11.htm

Đàn bà

Onna
tác giả Akutagawa Ryunosuke – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Nhện cái đang nằm yên tắm ánh nắng hè dưới đáy bông hoa hồng kép màu đỏ, trầm ngâm nghĩ ngợi. Tức thì lúc bấy giờ trên không có tiếng đập cánh, rồi chẳng mấy chốc có một con ong mật lao đầu sà xuống đoá hoa hồng. Nhanh như chớp nhện ngước mắt nhìn lên. Bầu không khí tĩnh mịch của buổi trưa như vẫn còn sót lại gợn sóng dư âm tiếng đập cánh của ong mật.

Không biết tự lúc nào, từ đáy hoa hồng, nhện cái đã bắt đầu âm thầm lặng lẽ cựa mình. Đúng lúc ấy ong cũng đang thò vòi vào hút mật ẩn dấu phía dưới nhụy hoa, mình dính đầy phấn hoa

Vài giây im lặng đến tàn nhẫn trôi qua.

Từ trong cánh hoa hồng đỏ bỗng nhô lên bóng dáng của nhện cái đang quờ quạng theo sau ong đang say mật. Nhưng mới đó nhện đã nhanh như cắt, chồm lên vồ lấy đầu ong. Ong ra sức rung cánh, hai ba bận toan dùng vòi chích lại kẻ thù. Phấn hoa bị đôi cánh của ong quạt bay tung lên, từng hạt phấn như đang nhẩy múa trong ánh nắng. Nhưng nhện cái nhất định không đời nào chịu nhả cái miệng đã ngoạm được mồi ra.

Cuộc đọ sức thật là chóng vánh.

Chẳng mấy chốc ong không còn rung cánh được nữa. Thế rồi chân bắt đầu bị tê. Cuối cùng chiếc vòi vươn dài quơ vào khoảng không vài cái như thể đang bị co giật. Đó là những phút cuối thật bi thảm. Một hồi kết cuộc bi thảm, tàn nhẫn và bạc bẽo chẳng khác gì cái chết của con người.——-Chỉ một lát sau, ong đã nằm sóng soài dưới đáy của hoa hồng kép, vòi ngay đơ không còn co lại được nữa, chân và cánh vẫn còn dính đầy phấn hoa thơm phức…

Nhện cái nằm im ru, bắt đầu từ tốn hút máu ong mật.

Ánh mặt trời không hề biết ngượng ngùng đã xé rách sự tĩnh lặng của buổi trưa đang trở lại với hoa hồng, lại soi trên bóng dáng ngạo nghễ đắc thắng của nhện sau cuộc tranh giành cưỡng đoạt đầy sắt máu. Cái bụng giống hệt như vải sa tanh màu tro, hai mắt làm ta liên tưởng đến hai viên bi, và rồi những cái chân xấu xí khòng khoèo như mắc phong hủi, nhện hầu như là hiện thân của cái ác, cứ chễm trệ ở trên xác ong một cách ghê rợn không biết đến bao giờ.

Cái màn kịch tàn ác này sau đó vẫn còn lập đi lập lại mãi. Thế mà hoa hồng đỏ tươi đẹp vẫn nở rộ mỗi ngày trong cái nắng và nóng ngột ngạt.

Thế rồi có một buổi trưa, làm như chợt nghĩ ra điều gì, nhện cái bèn chui mình giữa kẽ lá hoa hồng, bò lên cành cây ở phía trên. Đầu cành có một nụ hồng bị héo vì hơi đất bốc lên hừng hực, cánh hoa bị hấp hơi nóng toả ra một mùi thơm nhẹ. Nhện cái bò lên đến tận đó rồi thì bây giờ tới lượt cứ đi đi lại lại mãi không ngừng nghỉ giữa nụ hoa và cành cây. Cũng cùng lúc ấy, vô số những sợi tơ trắng ngần, óng ánh, một đầu mắc vào nụ hoa héo úa, và dần dần giăng khắp đầu cành .

Một lát sau, ở đó đã có một cái túi bằng lụa hình ống màu trắng sáng loà đến chói mắt phản chiếu lại ánh nắng giữa ban trưa.

Nhện giăng tơ xong, đã đẻ vô số trứng dưới đáy của cái túi mỏng mảnh ấy. Thế rồi nhện lại đan một miếng đệm bằng sợi thật dầy ở miệng túi, rồi chính mình vừa chiếm chỗ ở trên cái đệm ấy, vừa giăng thêm một cái trần nhà mỏng như vải the. Tấm mạng như thể một mái vòm chỉ chừa lại có mỗi một cái cửa sổ, đã ngăn con nhện màu tro dũng mãnh như một con thú dữ này với bầu trời xanh giữa buổi trưa. Tuy vậy, nhện – nhện cái sau khi sinh- gầy gò ốm yếu vẫn nằm yên trong căn phòng trắng nuốt ấy, một mình đơn chiếc đắm chìm vào giòng suy tưởng, dường như đã quên hẳn hoa hồng, mặt trời và cả tiếng đập cánh của ong mật.

Một vài tuần lễ như thế trôi qua.

Trong thời gian đó, trong cái túi của nhện, những sự sống mới say ngủ trong vô số trứng đã mở mắt chào đời. Nhận ra điều ấy trước tiên, trước bất cứ một ai, chính là nhện mẹ, nay đã già và kiệt sức, nằm yên bỏ cả ăn, trong căn phòng màu trắng ấy. Nhện mẹ đã nhận ra được dưới tấm nệm bằng tơ những sinh mệnh mới đã cựa mình không biết từ bao giờ, bèn lê những cái chân đã yếu dần quờ quạng xé rách trần nhà che trên túi ngăn cách mẹ với con. Vô số nhện con lục tục từ đó tràn ra khắp phòng. Hay nói dúng ra là chính cái đệm đã tự phân tán ra thành hàng trăm vi phân tử nhỏ li ti cùng chuyển động một lúc thì mới đúng.

Nhện con liền chui ra ngoài cửa sổ trên mái vòm, qua nắng và gió, tràn ra cành hoa hồng. Cả một lũ chúng nó chen chúc nhau trên những lá cây hồng nặng trĩu vì hứng cái nóng như lửa. Và cả lũ lại hiếu kỳ chui vào giữa hoa hồng nơi có ủ không biết bao nhiêu tầng mật ngọt. Thế rồi cả lũ lại còn nhanh nhẹn bắt đầu chăng những sợi tơ mỏng đến nỗi mắt thường không trông thấy, giữa những cành hoa hồng ngang dọc đang xé nát cả khoảng trời xanh. Nếu chúng có thể thốt lên lời, thì chắc hẳn là bông hoa hồng giữa ngày nắng hạ đã lên tiếng gọi chiếc đàn viôlông mắc trên ngọn cây hãy cất tiếng ca cùng gió.

Thế nhưng trước khung cửa sổ trên chiếc mái vòm, nhện mẹ gầy gò chỉ còn như cái bóng vẫn buồn rầu cuộn mình ủ rũ. Chẳng những thế, cứ như thế mãi, nhện có vẻ như chẳng buồn động đậy nữa, cho dù là một cái cẳng chân. Ở nơi vừa để sinh con vừa là mộ địa, dưới bức màn mỏng như the buông trên trần nhà, trong tĩnh lặng của căn phòng trắng nuốt, và hương thơm của nụ hồng đã héo, nhện mẹ – con nhện đã sinh ra vô số nhện con – đang nằm tận hưởng niềm vui vô hạn của người mẹ đã làm xong thiên chức và một lúc nào đó sẽ về tới cõi chết — Đó là một người đàn bà hầu như là hiện thân của cái ác, từng ăn sống nuốt tươi ong mật, đã sống cùng thiên nhiên vào giữa một mùa hè.


DTTM (Quỳnh Chi)
dịch theo nguyên tác Onna trong Akutagawa Ryunosuke toàn tập, nhà xuất bản Iwanami Shoten,1934.
(Tokyo, tháng 4 năm Taisho thứ 9, 3/2005)


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd056.htm