Chấp tay lạy người

________________

Tôn Thất Tuệ _ 2014

tình mẹ con,
tranh Vũ Cao Đàm 1963

Chị tôi sinh 1930, Canh Ngọ vừa qua đời trước Tết con rồng 2012, một ngày trước khi đưa Ông Táo về châu trời.

Chiến tranh Việt Pháp 1946 đã đưa anh chị em tôi vào tình trạng các bạn cứ tưởng tượng như bỗng dưng con cái ra đường sống cuộc đời homeless. Chị không đi học tiếp mà sống nơi nhà thờ họ ngoại với ông trưởng tộc nghèo, chung nhau tìm cách sống qua ngày. Rồi chị cũng lớn lên sống với nhà chồng gần Đàn Nam Giao. Còn nhớ ông cha chồng có nói với dì tôi: Thưa bà Lãnh (chồng lãnh binh), nếu không có sự đảo lộn thì làm sao tôi có thể đến nhà bà xin cưới dâu.

Hão huyền xã hội ấy không phải là điều tôi muốn ghi lại. Điều chính yếu muốn nói là nhờ những đổi thay xã hội ấy, chị tôi vì nghèo, ít học, đã không làm gì có thể hại ai, mắng chưỡi ai, tống tiền, cho vay cắt cổ, gạt gẫm, kể cả không có dịp làm những sai lầm ngoài ý muốn như phạt tù kẻ vô tội. Chị tôi hay cúi nhìn xuống đất, nghĩa bóng và đen. Chị luôn hất cục đá vô lề, lượm những cành gai, những mẻ chai mẻ sành, đinh… sợ người ta đạp què giò.

Thỉnh thoảng chị gánh xuống chợ Bến Ngự bán những sản phẩm nhà vườn. Nghe ghê quá. Nhưng chỉ có: một trái mít non, một mụt măng tre pheo, vài mụt măng cán dáo, mươi trái vả, vài bó chè xanh, trái thơm non.

Trái thơm là trái thơm non, đem về trộn mắm ăn chon như dừa.

Quan trọng và đầy màu sắc là cái ngãu ớt mọi, ớt tím, ớt chìa vôi, còn xanh còn hườm theo thị hiếu ở Huế. Khi nào trời thưởng, thì có thêm nhúm nấm mối mọc dưới lá tre mục, hoặc vài ba chục tai nấm mèo phơi còn ẩm.

Mấy thứ ấy không nặng bằng một thùng nước nên chị kèm theo năm bảy bó củi. Mấy bó củi nầy đầy tính chất phấn son, tô phết. Bên ngoài là những liếp gỗ mỏng trắng tươi từ thân cây dương liễu; bên trong đủ thứ tầm khào, kể cả nhánh vông gai xốp. Chẳng che dấu lường gạt ai được nhưng cái đẹp cũng câu khách, có giá vậy. Quanh xóm ai cũng nghèo, cho nên không thể mua đi bán lại, có chi bán nấy. Tường trình đầu tiên khi ở chợ về chỉ có hai chữ hoặc “gạo hơn” hoặc “gạo thua”. Đến nay tôi chưa hiểu vì đâu có hai thuật ngữ ấy, gạo hơn là giá hạ, gạo thua là giá cao; tạm hiểu cùng một số tiền, thua là bớt gạo; hơn thì thêm một chút.

Nhưng gạo đã làm chị bận tâm một cách khác vào tuổi đôi tám (1945). Hơn mười năm trước, tôi có về Huế lo dời mô mã tổ tiên bị giải tỏa khu núi Ngự Bình. Tôi chẳng đi đâu, ngoài công việc chính yếu trên. Tôi lẩn quẩn trong vườn và tìm gặp những thứ chị mang đi bán như nói trên. Cây chè đã lão hóa, thân hình cổ quái như bonsai. Mấy cây mít chỉ có trái lèo tèo như quả bưởi, nằm trên cao, chúng có cái tên không đẹp nhưng rất thông dụng ở Huế là mít đọt. Mấy bụi thơm có trái chín như hồi nhỏ người lớn hay đố, mặc áo điều áo đỏ ngồi chỏ hỏ sau nương. Cây vả xưa đã chết, mới trồng cây con.

Chiều hôm trước ngày tôi trở lại Saigon, hai chị em ngồi yên lặng dưới giàn hoa. Bỗng nhiên chị tôi nói: Ba rất kính trọng người ăn mày.

Đến đây các bạn sẽ hiểu vì sao tôi nói chị bận tâm về gạo. 1945 thì chị đã 15, tuổi ta là mười sáu đôi tám là đúng rồi, tuổi đủ để nhớ và biết nhiều. Chị nói vào kỳ đói, gia đình tôi nấu cháo từng nồi lớn, mỗi người đi qua được mời một tô cháo trắng. Chị múc và cha tôi hai tay dâng bát (cái đọi) cháo rồi vái lạy người người ăn. Mỗi người chỉ có một tô, đi quanh đi quất đâu đó trở lui ăn nữa nhưng ăn liền tô thứ hai thì không được. Của ít người nhiều.

Tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh đãi cháo ấy; có lẽ nấu đâu ngoài chợ vì nhà tôi ở trong kiệt. Nhưng tôi nhớ mồn một cha tôi mua nhiều gạo lắm (trẻ con thì thấy gì cũng to cũng nhiều). Tự nhiên cái chái trước thành chỗ cao chỗ thấp cho tôi nhảy lên nhảy xuống. Chị phải lo đem gạo cho bà con tận Cồn Hến, có khi qua đò nước lụt rất ghê sợ.

Năm đó cha tôi đi buôn gạo với bác Thanh, tức là cha của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi còn nhớ bác Thanh có đến nhà tôi một lần. Sau hồi cư tôi có thấy vài lần trên xe vespa trước khi bác chết vì tai nạn xe cộ trên đường từ phi trường Phú Bài về Huế. Tôi không hiểu số gạo để tại nhà để đem cho bà con lối xóm hay nấu cháo có phần của bác Thanh hay không. Tuy vậy tôi luôn nguyện hồi hướng công đức cho bác Trịnh Thanh. Việc nầy tôi nghĩ TCS cũng không biết; cũng như không biết sự quen biết giữa cha tôi và cha của ông. Tôi không quen biết TCS; chỉ có một lần tôi đi cùng với một người bạn vô Bộ Thông Tin yêu cầu Ban Kiểm duyệt thông qua bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, lần ấy ông nhạc sĩ cũng đi chung. Nói cho rõ thêm, việc can thiệp nầy là do ông bạn (đã chết Mậu Thân) còn tôi chỉ tình cờ đi theo.

Trước và sau vụ gạo nầy, cha tôi thật sự là homeless, nghĩa là ông chỉ lo đâu đâu ngoài đời. Ông tom góp mọi thứ trong nhà để lo cho tuần lễ đồng, tuần lễ vàng. Mẹ tôi mất sớm nên chị lo cơm nước cho mấy em.

Chị tôi gánh những gánh củi xuống chợ bán, lúc chợ ế phải gánh rong quanh Bến Ngự bán cho những người cùng thời với cha tôi. Sau chiến tranh họ vẫn còn làm chủ tiệm vàng, tiệm xe đạp, quán giải khát (buvette), chủ bàn ping pong, chủ tiệm tạp hóa  v.v…Con cái của họ xưa kia cùng đi học bây giờ áo quần bảnh bao không rách vá như chị. Không ai nhìn. Riêng chỉ có ông bà Viên Lang nhận ra, mời ăn cái bánh và chén nước. Dĩ nhiên những người như mụ Giá quét chợ thì trò chuyện huyên thuyên như ngày xưa vô nhà xúc gạo về ăn.

Nghèo chẳng có gì đáng khen hay đáng trách. Nhưng cái hay của cảnh hàn vi là nó giúp mình không có phương tiện sách hại ai. Đó là trường hợp của chị tôi. Chị tôi dốt, không biết thiền là gì và cũng không biết bát văn cửu vạn (bài bạc) là gì, không biết điều khiển 16 ông tướng qua bốn vùng chiến thuật xanh đỏ trắng vàng; không biết champagne ra làm sao. Chị không biết thập ngưu đồ của thiền học. Chính chị không biết đời mình là một ngưu đồ, suốt đời tận tụy và âm thầm nghiền ngẫm sự việc chung quanh như trâu nhai lại.

Tôi tin tưởng cuộc đời vô cầu, vô tạo, vô lụy đã cho chị tôi một sự ra đi nhẹ nhàng. Vào nhà thương khám bệnh định kỳ, đột nhiên hôn mê và từ giả mười giờ sau. Đây là một ví dụ, một trường hợp cụ thể của triết lý Đông Phương, đến từ hư vô và trở về với hư vô hay nói khác chẳng đến chẳng đi. 82 tuổi đời, mà e chừng đã có gần 70 tuổi đạo, đạo vái lạy kẻ nghèo đói, đạo chấp tay lạy người.-

https://tonthattue.blogspot.com/2022/06/chap-tay-lay-nguoi.html

Nhật ký tháng tư

Trạch Gầm

Hai mươi tháng Tư tiễn em đi Mỹ

Ta biết dễ dàng mất bé từ đây

Em lên máy bay, ta về đơn vị

Đất Biên Hòa buồn… chết điếng cỏ cây.

Hai mốt tháng Tư ta vào Quân Đoàn

Ngồi nghe thuyết trình, nhận lệnh hành quân

Tay áo xăn cao một đời thám kích

“Kiến lửa bu đầy” nhột cả đôi chân.

Hai hai tháng Tư… ta vào Đại An

Chứng kiến cảnh dân bỏ xóm bỏ làng

Dân chạy đến đâu… địch bò đến đó…

Đâu được như em chừ đã thênh thang.

Hai ba tháng Tư… ta ngược Đồng Nai

Sương ôm mặt sông lau sậy thở dài

Địch xua quân tràn giữa đêm vắng lặng

Ta chỉnh pháo… và thây giặc chồng thây

Ta lạc mấy ngày trong lòng đất địch

Gọi đã khàn hơi chẳng thấy bạn bè

Thằng nào cũng đang giữ từng tấc đất

Đâu có thì giờ để cứu ta ra.

Hai tám tháng Tư… ta ra lộ Một

Gặp ông tướng vùng thị sát thăm dân

Ông nói lung tung, ông thề sống chết

Ông nói xong rồi, ông bay biệt tăm.

Hai chín tháng Tư… Biên Hòa xơ xác

Ta về Sài Gòn ngang qua nghĩa trang

Ta đứng nghiêm chào bạn ta đã chết

Như tự chào mình – nát cả tim gan.

Ba mươi tháng tư… ta ôm mặt khóc

Trên cầu Saigon cạnh phố Hùng Vương

Mười năm binh đao… mưòi ngày kết thúc.

https://tonthattue.blogspot.com/2022/11/nhat-ky-thang-tu-trach-gam-haim-uo-i-th.html

Định Mệnh Đã An Bài & Nếu Có Kiếp Sau







Định Mệnh Đã An Bài
_____________________
Bằng Phong Đặng văn Âu _ 11/01/2015
Bài số 4435-14-29835vb801115







Trước 1975, tác giả là một phi công chiến đấu. Tại Hoa Kỳ, nhiều bài viết của ông thường được phổ biến trên báo giấy, báo mạng trong sinh hoạt cộng đồng và các hội đoàn cựu quân nhân VNCH. Bài viết ông góp cho Viết Về Nước Mỹ kể về một tình yêu đầu đời ly tan và tái hợp đúng như lời một bà thầy bói đã tiên đoán.

* * *


Tôi ra đời vào năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, cho nên tôi mơ giấc mơ hải hồ, được bay cao bay xa như ông Saint Exurpéry (tác giả cuốn Vol de Nuit và cuốn Le Petit Prince). Sở dĩ tôi thỏa được giấc mộng của mình là vì nhờ Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, họ cần đào tạo những phi công cho chiến trường. Nếu không, giấc mơ của tôi sẽ không thành hiện thực, vì tôi chẳng thể nào có tiền để được huấn luyện trở thành phi công. Sở phí đào tạo một người có thể lái máy bay tốn kém rất lớn.

Có hôm tôi hỏi Mẹ tôi, tại sao con tuổi Thìn mà trên giấy khai sinh của con lại ghi năm 1942? Mẹ tôi đáp: “Thời buổi chiến tranh, giấy tờ thất lạc, lại chạy tản cư liên miên, Mẹ phải làm tờ “thế vì khai sinh” và khai trụt tuổi cho con thì nhà trường mới nhận con vào học”. À ra thế! Thảo nào số quân của tôi là 62/600356, lẽ ra phải bắt đầu số 60 để chỉ những lớp người sinh năm 1940. Căn cứ trên tờ “thế vì khai sinh”, chánh quán của tôi là làng Nho Lâm, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán là làng Phổ Tây, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

Thầy (Bố) tôi là bác sĩ, được đổi đi công tác nhiều tỉnh khác nhau, nên tôi có thể bắt chước người giúp việc trong nhà để nói các giọng Bắc, Nam, Trung.

Năm 1945, Thầy tôi qua đời vì căn bệnh ruột dư (Appendicitis) được bác sĩ giáo sư Huard của trường Đại Học Y Khoa Hà Nội – một danh y thời bấy giờ – giải phẫu. Không may Thầy tôi bị nhiễm trùng mà không có thuốc trụ sinh vì cuộc chiến tranh giữa Đồng Minh và Quân đội Nhật hoàng xảy ra. Mẹ tôi lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khá đẹp, mà nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, chứ không chịu bước thêm một bước nữa, mặc dầu có nhiều đàn ông xứng đáng đến ngỏ lời cầu hôn bà.

Tôi là đứa bé khá ngờ nghệch, được Mẹ cho đi học thì cắp sách đến trường; chứ không hề biết học để làm gì? Tôi chưa từng có ý niệm rằng học để trở nên người hữu dụng cho tương lai xứ sở. Do đó, cuối niên khóa được lên lớp là do sự may mắn, hơn là do sự cố gắng bản thân. Khi lên lớp Đệ Lục, tôi nghe Mẹ tôi nói một câu làm tôi tỉnh ngộ: “Gắng học đi con để sau này ấm vào thân. Nếu cứ lười biếng thì sau này chỉ có nước đứng đường thôi con ạ!” Đứng đường tức là làm người ăn mày lạy ông đi qua, lạy bà đi lại; chứ không phải là làm thầy đội Cảnh sát đứng đường điều khiển cho xe cộ lưu thông!

Từ đó, tôi tỉnh ngộ và bắt đầu thời điểm đó, tôi chăm chỉ học, nên cuối niên học nào tôi cũng đều được lĩnh phần thưởng về các môn Toán, Lý Hóa, Anh, Pháp văn, Việt văn. À, cũng xin nói thêm, trước kia, làm cho xong một bài luận quốc văn là một cực hình đối với tôi. Nhưng nhờ học thêm Pháp văn với thầy Trần văn Thông, gần nhà thờ Phủ Cam – Huế, được thầy dạy pháp cú “analyse logique, analyse grammaticale” khiến cho tôi viết câu văn tiếng Việt sáng sủa hơn với đầy đủ chủ từ, động từ và túc từ. Ông bà mình nói không sai: “Không thầy, đố mày làm nên!”. Mỗi khi viết một bài văn nào, tôi đều nhớ ơn thầy Trần văn Thông.

Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại một việc: Mẹ tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi về chữ Hán và chữ Pháp. Câu Hán văn và Pháp văn mà Mẹ tôi muốn xây dựng con người tôi như sau: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu không tham, nghèo không hèn, mạnh không sợ) và “Gravez les bienfaits sur le marble; les malfaits sur le sable” (Khắc ghi những nghĩa cử trên đá cẩm thạch; những điều bội bạc trên cát). Suốt đời tôi cố gắng thể hiện cung cách ứng xử trong cuộc sống như lời Mẹ dạy.

Kết quả thi Trung học Phổ thông, Tú tài I hay Tú Tài II, tôi đều đậu bình, một phần do may mắn! Nghiệm ra, tôi không đến nỗi đần, mà chỉ phải tội chậm trí khôn. Vào trường đời, tôi cũng thuộc loại chậm trí khôn, vì không biết cách làm đẹp lòng thượng cấp, mặc dầu chưa bao giờ kiếm cớ thoái thác một phi vụ nào do căn bệnh… lạnh cẳng.

Nhớ có lần tôi đã phạm vào một điều dại dột trong cuộc họp hành quân. Đó là lúc tôi đứng lên phản đối cấp trên lấy tên chiến dịch Cầu Không Vận là “Kỳ Duyên Mai” (phương danh của đương kim Tư Lệnh, con và vợ). Theo tôi, đáng lý ra phải lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử dân tộc đặt tên cho chiến dịch thì mới đúng! Do “sự cố” ấy, tôi được bạn hữu trong đơn vị đặt cho cái hỗn danh “Đặng văn Ẩu” vì dám công khai “chống” lại thượng cấp. Thật tình, tôi chưa hề làm “ẩu” điều gì để phạm vào quân phong quân kỷ! Tôi lên tiếng vì lợi ích chung. Chẳng qua, nghĩ mình cứ hành xử như lời Mẹ dạy mà thôi.

Tôi có một người Mẹ tuyệt vời, hết lòng thương con, nhưng tôi đã phạm vào ba trọng tội mà tôi nghĩ rằng mình là đứa con bất hiếu. Lòng tôi cứ dằn vặt, ăn năn, hối hận, ray rứt khôn nguôi. Đó là:

Thứ nhất, Mẹ tôi muốn tôi theo học ngành y khoa để nối nghiệp thân phụ tôi. Theo bà, nghề bác sĩ giúp con bà cứu nhân độ thế để hưởng phước. Tôi đã gia nhập vào Không Quân, trái với ước nguyện của Mẹ hiền.

Thứ hai, Mẹ tôi đã thể theo lời xin của tôi để dạm hỏi cô nữ sinh học trò của tôi cho tôi, nhưng cuối cùng tôi đã phản bội nàng để kết hôn với người khác. Tôi đã làm cho Mẹ tôi trở thành kẻ bội ước với thông gia.

Thứ ba, cuối tháng Tư năm 1975, tôi đã không ép Mẹ tôi bằng cách “cưỡng bức” bà lên xe để thoát ra khỏi nước, chỉ vì bà nói bà không muốn bỏ nắm xương nơi quê người. Mẹ tôi đã qua đời trong đói lạnh, cô đơn ở quê nhà. Tôi đã khóc òa như một đứa bé khi hay tin Mẹ mình khuất núi.

Hơn 37 năm sống ở quê người, tôi ao ước có dịp về nước, đến trước mộ phần của Mẹ để nói lời tạ tội. Nhưng bởi lo ngại an ninh bản thân, tôi cứ chần chừ vì đã viết nhiều bài đăng trên mạng lên án gắt gao chống lại chính sách cai trị tàn ác của chế độ hiện hành. Tháng 8 năm 2011, có lẽ cuộc nhân duyên giữa vợ chồng chúng tôi đã dứt, tôi liều mình về quê nhà để thể hiện sự sám hối của mình trước vong linh Mẹ.

Khi về đến phi trường Nội Bài, Hà Nội, tôi “được” hai cán bộ an ninh văn hóa “trao đổi” hơn 90 phút và ba ngày sau tại khách sạn cũng “được” nhân viên an ninh chiếu cố hơn 4 giờ đồng hồ. Tôi sẽ tường trình nội vụ này vào một dịp khác. Từ Hà Nội, tôi gọi điện thoại cho một người bạn học từ thời tiểu học báo tin tôi đang ở Hà Nội. Bạn tôi ban đầu không tin, vì nghĩ rằng tôi không dám về.

Đúng thế! Từ lâu tôi không về nước vì vợ tôi ngăn cản. Nàng sợ nhỡ tôi bị bắt giam thì nàng sẽ phải tốn tiền để chuộc tôi ra. Nay, duyên nợ giữa nhau đã dứt. Nàng không còn trách nhiệm gì với bản thân tôi, nếu tôi về để bày tỏ sự hối hận với vong linh Mẹ mà bị bắt giữ thì tôi cũng cam lòng.

Bạn tôi biết đích xác tôi đang ở Hà Nội, sau khi nhìn vào “caller ID” hiện ra trên điện thoại của anh. Bạn tôi nói (xin lặp lại nguyên văn ngôn ngữ địa phương Huế): “Mi có về Huế thăm mộ O (tức Mẹ tôi) thì nhớ gọi cho hắn nghe!”. Chữ “hắn” trong câu nói của bạn tôi là vị hôn thê mà tôi đã bội tình thưở trước. Anh bạn cho tôi số điện thoại của nàng. Có số điện thoại được bạn cho, tôi vẫn không dám gọi nàng, vì tự hỏi: “Gọi để nói gì bây giờ? Nhỡ khi nghe mình xưng tên, nàng sẽ thốt lên những lời xỉ mắng vì sự bội bạc của mình hoặc nàng cúp máy không thèm nói chuyện thì bẽ bàng vô cùng”.

Hai ngày sau, bạn tôi gọi và hỏi: “Mi đã gọi cho hắn chưa?”. Tôi đáp: “Chưa!” Bạn tôi có vẻ nôn nả: “Tại răng mi không gọi cho hắn?”. Tôi nói về lý do sự ngại ngùng do dự của tôi, bạn tôi cười: “Mi còn nhớ đến chuyện hai đứa bây đi xem bà thầy bói Bụi không?”. Tôi đáp: “Chừ mi nhắc thì tau mới nhớ, nhưng có liên quan gì trong việc tau gọi điện thoại cho hắn?”. Bạn tôi trả lời một cách quả quyết: “Hắn còn yêu mi và chờ mi về đó. Tính đến nay đã là 38 năm kể từ ngày hắn ly dị chồng hắn. Tau đã giới thiệu mấy thằng bạn giáo sư đồng nghiệp của tau cho hắn mà hắn không bằng lòng đứa nào hết. Hắn nhất quyết đợi ngày mi trở về đó. Mi hãy mau mau mà gọi cho hắn đi”. Nói xong một hơi dài, bạn tôi cúp máy điện thoại.

Hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Năm 1963, chúng tôi sửa soạn làm đám cưới. Hôn thê của tôi kéo tôi đi xem bói bà thầy bói Bụi, vì bà nổi tiếng bói rất đúng. Chiều lòng người yêu, tôi cũng đi, nhưng tôi chẳng bao giờ tin nhảm. Sau khi hỏi tuổi tác chúng tôi, bà thầy gieo quẻ, rồi đoán: “Cuộc hôn nhân của hai anh chị sẽ không thành!”. Nghe bà thầy nói thế, gương mặt người yêu tôi tái đi, còn tôi tỏ ra giận dữ: “Bà thầy nói bậy, chúng tôi yêu nhau, cha mẹ hai bên đều đồng ý. Lý do nào mà bà nói không thành? Tôi đập mu rùa của bà bây giờ!”. Bà thầy bình thản trả lời: “Chừng nào cuộc hôn nhân của hai anh chị thành thì anh trở lại đây đập mu rùa của tôi cũng chưa muộn!”. Trước sự quả quyết của bà thầy bói, vị hôn thê của tôi khóc nức nở. Tôi xoa lưng nàng và trấn an: “Bói toán nhảm nhí, em tin làm gì?”. Có lẽ cảm động vì những giọt nước mắt của người yêu tôi, bà thầy nói: “Tình duyên của hai anh chị phải trải qua một đoạn đường dài chia ly rồi mới thành tựu. Anh này có đi cùng vành non nước đi nữa thì sau tứ tuần hoa giáp, anh cũng sẽ trở về với chị thôi!”. Đang bực tức vì lời tiên đoán của bà thầy làm người yêu tôi khóc, tôi hỏi: “Tôi không rành chữ Nho. Bà nói tứ tuần hoa giáp là nghĩa lý gì?”. Bà thầy lại bình thản giải thích: “Hoa giáp là 12 năm, tứ tuần hoa giáp là 48 năm. Tôi quả quyết rằng 48 năm sau anh sẽ về tác hợp tình duyên với cô này”.

Tôi vẫn cho rằng bà thầy bói nói nhảm. Nhất định không tin. Chẳng ngờ cuộc hôn nhân giữa hai chúng tôi bất thành. Vì tuổi trẻ thiếu bản lĩnh, tôi đã phạm vào một trọng tội mà thâm tâm tôi không bao giờ dụng ý phản bội ý trung nhân của tôi. Khi tôi thú nhận với vị hôn thê của tôi rằng tôi trót rơi vào một tình trạng khó xử, nàng nói trong nước mắt: “Số trời đã định vậy, em chấp nhận hy sinh”. Tôi quá hổ thẹn trước tấm lòng quảng đại, vị tha của người yêu. Tôi quá xót xa cho nàng, nhưng chẳng biết làm sao hơn.

Tuân theo lời khuyên của bạn, tôi bấm số điện thoại gọi cho nàng và hy vọng không bị nàng buông những lời nói phũ phàng hay gác máy không thèm tiếp. Khi tôi nói tôi là ai qua máy điện thoại thì đầu dây phía bên kia có tiếng cười thật tươi reo lên: “Anh đó à? Anh về rồi đó à? Em đây! Đúng 48 năm rồi đó anh hí!”.

Năm 1963 tôi chia tay nàng. Năm 2011 tôi lần đầu tiên gọi điện thoại cho nàng từ Hà Nội đúng 48 năm sau. Không còn do dự gì nữa, khi về Huế lạy tạ lỗi vong linh Mẹ, tôi sẽ tìm gặp người yêu xưa. Nếu định mệnh dun dủi, tôi có cơ duyên sẽ tiếp nối cuộc sống còn lại với người vợ (sắp cưới) đầu đời thì cũng là ý trời. Tôi nghĩ thế! Bốn mươi tám năm trước tôi thú tội với người yêu, nàng không một lời trách móc, giận hờn. Bốn mươi tám năm sau gọi điện thoại thăm người yêu xưa, nàng đã không buông lời giận hờn trách móc mà còn reo lên một cách sung sướng giống như người thiếu phụ chờ chồng sau cuộc vạn lý trường chinh.

Gặp người yêu xưa, tôi đã quỳ xuống xin lỗi nàng và xin nàng rộng lòng tha thứ. Nàng vội cầm lấy hai tay tôi và nâng tôi đứng dậy, rồi ôm tôi một cách âu yếm nồng nàn. Xưa nay, tôi chưa bao giờ được nàng ôm chặt đến như thế. Trong giờ phút ấy, trước mắt tôi, nàng là hiện thân của Phật Bà Quan Âm hay Đức Bà Maria. Vì chỉ có con người bao dung thánh thiện mới tha thứ cho tôi một cách dễ dàng như thế!

Tôi kể cho nàng nghe chuyện tôi và vợ tôi đang trong tiến trình ly dị. Người yêu tôi nhẹ nhàng khuyên: “Anh hãy cố gắng về hòa giải với chị. Cả hai đã ở tuổi ngoài 70, chẳng còn sống được bao lăm! Em thui thủi một mình gần 40 năm nên quen rồi! Chỉ khi nào sự cố gắng hòa giải của anh bất thành, anh bị ruồng rẫy, hất hủi, gục ngã thì em sẽ vực anh đứng dậy! Chưa lúc nào em giận anh vì em tin cái số em như thế! Chưa lúc nào em thôi yêu anh!”

Sau cuộc chia tay giữa hai chúng tôi, nàng ngày ngày đi dạy học, nuôi Mẹ già và đứa em bị bệnh tâm thần. Nàng quyết sẽ không kết hôn với bất cứ ai. Nhưng cuối cùng nàng phải vâng lời yêu cầu của Mẹ vì nàng là người con chí hiếu. Nàng đành kết hôn với một người mà nàng không hề yêu. Tiếc thay! Người đàn ông ấy mắc chứng bệnh ghen tuông một cách kỳ lạ. Anh ta nhiều lần bạo hành với vợ một cách tàn nhẫn vì nghĩ rằng nàng còn ngoại tình trong tư tưởng, nghĩa là còn yêu tôi. Riêng tôi, tôi không hề liên lạc với nàng bằng dưới mọi hình thức nào để nàng yên thân bên chồng, bên con.

Không thể chịu đựng nổi người chồng vũ phu, nàng về sống với Mẹ và ly hôn chồng. Tin tưởng vào lời tiên đoán của bà thầy bói, nàng cương quyết chờ tôi. Chưa lúc nào tôi tin vào thuyết định mạng hay duyên nghiệp như thế, sau khi gặp gỡ nàng. Giả sử chồng nàng biết cách xử sự như một người có văn hóa đối với vợ thì dù không yêu chồng, nàng cũng không ly hôn vì cổ tục hoặc lễ giáo Huế không bao giờ chấp nhận người đàn bà ly dị chồng. Giả sử vợ chồng tôi có chuyện bất hòa dù nặng nề đến đâu, tôi cũng không thể bỏ vợ. Chẳng qua bị vợ xua đuổi, sỉ nhục mà tôi không thể chấp nhận là do số trời đã định đoạt để cho tôi trở về quê nhà và được biết người yêu xưa vẫn chờ mình. Bốn mươi tám năm sau tôi trở về quê để bái lạy hương hồn Mẹ tha thứ, tôi lại được người yêu xưa tha thứ. Biết đâu Ơn Trên đã dẫn đưa hai anh em chúng tôi về lại với nhau như bà thầy bói năm xưa đã dự đoán? Tôi rất ao ước được sống phần đời còn lại bên người yêu xưa. Chúng tôi không phải là hai kẻ bỏ vợ bỏ chồng để lấy nhau ở tuổi xế chiều. Chúng tôi trở về với nhau do sự an bài của định mệnh hay duyên nghiệp, tùy theo tín ngưỡng của mỗi người.

Tôi không ghi xuống đây chức vụ của mình từng đảm nhiệm trong quân ngũ, vì tôi nhớ đến Đặng Trần Thường, kẻ phò Nguyễn Ánh đắc thắng, đã hành xử thiếu quân tử đối với kẻ ngã ngựa vì mối thù trước kia. Thường ra câu đối buộc kẻ bại trận phải đáp:

“Ai công hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai?”. Ngô Thời Nhậm, kẻ phò vua Quang Trung trả lời:

“Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế!”

Đặng Trần Thường có cái vẻ vênh váo của kẻ chiến thắng với cái chức vị công hầu khanh tướng của mình. Trái lại, Ngô Thời Nhậm không tỏ ra hèn vì thua trận. mà phải khúm núm xin tha tội. Chẳng qua cái thời cái thế xoay vần xui nên đấy thôi!

Cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đã khiến cho chúng tôi đánh mất nhau. Rồi cũng chính cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đưa chúng tôi về lại với nhau. Tôi quỳ xuống xin lỗi người yêu xưa của tôi không phải tại vì tôi hèn, mà tại vì tôi sám hối và tôi ngưỡng mộ tấm lòng bao dung, cao cả, vị tha của nàng đã tha thứ cho tôi.

Nghĩ cho cùng, công hầu hay khanh tướng như Đặng Trần Thường tỏ ra kiêu hãnh, đối với tôi cũng chỉ là trò bãi biển nương dâu, chỉ là phù vân gió cuốn mây trôi. Tôi cho rằng cách ứng xử độ lượng giữa người với người với nhau mới là vĩ đại. Tôi rời Houston, Texas để về định cư tại Quận Cam của California. Bạn bè, bà con giúp đỡ tôi rất nhiều nên chỉ trong một thời gian rất ngắn tôi đã thu xếp cuộc sống tạm gọi là ổn định với đầy đủ tiện nghi. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của tôi đến tất cả bà con, bạn bè. Xin xác nhận rằng câu nói “Ở hiền gặp lành” của tiền nhân rất chính xác. Tôi đã được bà con, bạn bè giúp đỡ tận tình. Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Chú Đại Bi và đọc sách Phật để thấm nhuần lẽ vô thường của Tạo Hóa. Bài kinh sám hối đọc từ thưở còn là đồng niên Phật tử Gia đình Chơn Tuệ tôi vẫn nhớ:

“Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận, kiêu căng, si mê, lầm lạc. Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành… Ngửa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, ngày ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu để mau ra khỏi luân hồi…”

Thiết nghĩ, chỉ có tình yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính vị tha, tình lân tuất thương yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên đời, vì nó giúp ta quên được cái “NGÔ vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh phúc trong đời.

Thưa tất cả bằng hữu,

Tôi đang hành trì đạo Từ Bi của Đức Phật. Xin các bạn cầu nguyện cho tôi có ý chí bền bỉ. Xin cảm ơn tất cả. Xin cầu nguyện gia quyến của mọi người đều được an vui, hạnh phúc.



Bằng Phong Đặng văn Âu

https://vvnm.vietbao.com/a232172/dinh-menh-da-an-bai




____________________________________________

















Nếu Có Kiếp Sau
_____________________
Nguyễn Thị Hồng _ 12/01/2015
Bài số 4436-14-29836vb201215





Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp thủ khoa khoá 2 Sư Phạm Qui Nhơn. Sau đổi đời 1975, bà là cô giáo trường cấp 2 Thuận An. Bà cũng chinh là nhân vật mà trong bài viết “Định mệnh đã an bài,” tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu gọi là ““người yêu đầu đời và cũng là người vợ hiện thời của tôi.” Hai ông bà hiện là cư dân Westminster, CA. Sau đây là bài viết của bà.

* * *

Tháng 8 năm 1963, tôi xách chiếc va li nhỏ vào trường Sư phạm Quy Nhơn trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng lứa: “Con Hồng mà học Sư phạm Quy Nhơn ni à?”.

Vâng, các bạn tôi không ngạc nhiên sao được, khi con bé Hồng tuy nhà quê, nhưng khi vào trường nữ trung học Đồng Khánh, từ Đệ thất đến Đệ nhị luôn giành ngôi vị đứng nhất lớp; chỉ khi qua Đệ nhất Quốc học mới chịu đứng thứ hai, (nên dỗi không đi lãnh phần thưởng thật là trẻ con!).

Thành tích học ấy là niềm mơ ước của các phụ huynh khá giả hồi đó để mong đưa con vào trường Dược, trường Y. Và chính tôi cũng từng ôm mộng như thế, nên khi vào lớp Đệ tam tôi đã không chọn ban Văn chương (ban C) dù tôi rất thích và khá giỏi hai môn Anh và Pháp ngữ, mà ghi vào ban Vạn vật (ban A), vì ông anh Cả ở Sài Gòn ra thăm bố mẹ tôi, biết thành tích học của tôi, nên hứa sẽ “nuôi” cho tôi học Dược ở Sài Gòn. Thế là tôi chúi đầu vào “gạo” Vạn vật và Lý Hóa để chuẩn bị được cầm cái bằng Tú tài II, hầu bước vào Đại học. Tôi vui mừng bay ngay vào Sài Gòn (với tấm vé mà cha tôi phải mượn tiền để mua). Nhưng oái ăm thay, ông anh Cả tôi đã quên lời hứa, kèm lời phán của bà chị Dâu: “O Hồng con gái học chi cho lắm, chỉ ích lợi mai sau chồng nhờ, thôi để tiền nuôi chú T (em trai tôi)…” Và khi tôi trở lại Huế thì đã quá muộn để ghi tên vào phân khoa Đại học, chỉ còn Sư phạm Quy Nhơn nhận đơn, tôi ghi danh thi và đậu ngay.

Các bạn ơi! Giờ đây tôi kể dông dài như trên không phải là nhằm mục đích khoe mẻ thành tích của người về già còn tiếc nuối cái quá khứ học giỏi của mình (để làm gì cơ chứ?!), mà chỉ để các bạn biết cho lòng tôi miễn cưỡng thế nào khi vào Sư phạm Quy Nhơn buồn tủi vì cha mẹ nghèo không đủ tiền cho con học cao, lại tự ái và sỉ diện hão với bạn bè cùng lớp tôi đã từng ray rứt với ý muốn bỏ trường bỏ bạn, rời xứ dừa sau mỗi biến cố của đời tôi. Nhưng ân tình sâu đậm của Thầy, của bạn mà tôi sắp kể dưới đây đã gắn số phận tôi với trường Sư phạm, với nghề giáo thân thương mà đến nay tôi rất đỗi tự hào.

Hai năm học ở trường Sư phạm Quy Nhơn tôi đã phải gánh chịu hai cái đại tang hai cái tang quá lớn trên đôi vai gầy của một cô gái ngây thơ bé bỏng. Có lẽ linh cảm điều đó không vui cho tương lai của tôi, nên chuyến tàu lửa mang tôi vào xứ dừa thật ảm đạm, tiếng bánh xe sắt của con tàu đều đặn lăn trên đường rầy hòa với tiếng chong chóng quay ầm ào của hai chiếc trực thăng hộ tống vần vũ trên đầu toa xe (đề phòng VC tấn công).

Nhập học tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị vào trường Y khoa.

Sáng hôm sau, bạn bè cùng phòng nội trú, cùng lớp và cảm động nhất là thầy Lương, Hiệu trưởng, cùng tiễn tôi tận chân cầu thang lên máy bay. Thầy xoa đầu tôi an ủi thật trìu mến như cha tôi thường làm với tôi. Thầy còn cử anh Võ trị Hà, người trưởng tràng, lại là hàng xóm của tôi tháp tùng theo tôi để đại diện trường phúng điếu cha tôi và giúp đỡ tôi trở về trường. Anh Hà cũng thích vì được dịp về thăm Mạ. Nhìn xuống sân bay tôi thấy mái tóc thầy như bạc thêm, cùng những cánh tay vẩy vẩy của bạn bè mờ đi sau làn nước mắt. Trước ân tình ấy, ý nghĩ sẽ bỏ trường bỏ lớp bỗng tan biến trong đầu. Tôi trở lại trường tìm vui trong tình thương của thầy, của bạn. Tôi lại vô tư gây cười cho các bạn, thường tự xưng mình là Hồng Thất Công (trong Thần Điêu Đại Hiệp) khi ngồi trên lầu hai, lầu ba mà dùng tài đánh hơi của lão “Cái Bang” đoán trúng phóc trưa nay Mệ Huế cho ăn món gì, khiến các bạn phục lăn và cười như “nắc nẻ” khi xuống tới phòng ăn. Tại đây, cả nhóm ăn lại nhỏng nhẻo với Mệ Huế là không ăn được cá ngừ, cà nướng… v…v.. Tội nghiệp Mệ Huế lại trìu mến sai đổi cho thành món chả trứng, cá thu chiên… Thế là các nàng dù là Hoàng Dung xinh đẹp, dù là “Phật tổ” Như Lai, dù là nàng Tôn Nữ Âu Dương Phong e lệ… (biệt hiệu của các bạn cùng phòng nằm cạnh giường tôi) đều ăn ào ào như tằm ăn rỗi, đem soong vào xin thêm cơm. Các chị bếp vui vẻ xới thêm rất tự nhiên để các cô khỏi thẹn, chỉ một nhát xúc của chiếc đũa bếp to như cái “xẻng xúc đất” là đủ đầy soong cơm. “Kílô” của các nàng tăng vùn vụt, vì sáng nào cũng “nhón” sạch hai thúng khoai lang luộc, bánh ú của hai nhóc con bác cai đội lên bán. Khỏi rao, khỏi mời, hai chú đã được các nàng ngóng từ thật xa, rồi đón ở cầu thang và thoáng một chốc chỉ còn hai cái thúng không. Các chú chỉ việc ngồi chờ, một lát sau các nàng đem tiền ra trả đủ. “Này chị hai xâu (khoai)…, này chị hai cặp (bánh ú)…”. Các nhóc chỉ việc đếm tiền, xong đội thúng ra về. Hỉ hả!!! Giành nhau mua vậy, nhưng ai chậm chân không mua được đều có phần chia cho. Vui như hội! Ăn, ngủ, cười và… chờ thư. Chỉ khi nào đọc thư người yêu thì mỗi nàng lui về một thế giới xa xôi với khóc, cười, trăn trở…

Nhưng số phận lại không mỉm cười với tôi vào năm sau, tôi lại chịu cái đại tang thứ hai. Lần này không phải là vành khăn trắng lên mái tóc, mà là mảnh khăn đen vắt qua “con tim vừa vui trở lại” của tôi: Người yêu của tôi, mối tình đầu trong sáng của tôi, vị hôn phu của tôi đã phụ tình tôi. Đời phi công hào hoa, đời lính cận kề bên cái chết, cùng với thái độ tránh né giữ gìn thái quá của người con gái Huế như tôi, cộng thêm không gian xa cách, khiến chàng sa ngã vào ánh sáng phù hoa, vào niềm đam mê vội vã mà nói lời bội ước với tình xưa. Trước lời thú nhận đã lỡ lầm của vị hôn phu, dưới sự chứng kiến của gia đình hai bên, dù mẹ chàng cố nói ra lời hàn gắn, nhưng tôi đã bình tĩnh chúc chàng hạnh phúc (không một giọt nước mắt van vỉ, không một lời oán trách hờn ghen), vì tôi nghĩ rằng bất cứ thái độ nào khác cũng sẽ đánh đổ thần tượng của chàng trong tôi. Và tôi cũng không cần một chút nào lòng thương hại của kẻ khác. “Người ta phụ mình, nhưng làm sao cho người ta vẫn tôn trọng mình”, tôi nghĩ thế.

Từ Sài Gòn trở lại Quy nhơn với con tim băng giá, với đôi mắt ráo hoảnh, tôi lại có ý nghĩ bỏ Sư phạm, rồi về Huế ghi danh học Đại Học để trở thành một bác sĩ, hơn hẳn” người ta” cho bõ tức. Nhưng anh lớp trưởng nhận ra nỗi buồn vời vợi trong tôi. Chờ lớp về hết, anh ở lại hỏi tôi “Sao em có vẻ buồn thế?”. Anh lớp trưởng đã có vị hôn thê ở Quảng trị và xem tôi như người em gái nhỏ. Tôi cũng xem anh như anh mình, nên khi anh hỏi chạm đến vết thương lòng, tôi đã òa lên khóc nức nở và kể cho anh nghe về mối tình tan vỡ của mình. Anh để yên cho tôi khóc, rồi dùng lời an ủi động viên tôi. Sau đó anh cùng các bạn trong lớp tổ chức nhiều chuyến du ngoạn ngoại thành: thăm Tháp Chàm ở Quy nhơn, trại cùi Quy hòa, viếng mộ Hàn Mặc Tử…, để tôi thấy nhiều cảnh khổ gấp bội mình. Rồi chuyến đi về Tuy Phước, thăm sâu vào làng quê Bình Định với những phong cảnh thật nên thơ, nhưng thấp thoáng những bộ quần áo đen lầm lũi (VC đó). Thấy thật rùng mình, may mà có anh trong đoàn, sinh trưởng ở vùng đó nên không việc gì. Rồi những phút cùng các bạn nội trú lầu ba ôm nhau lăn xuống gầm giường khi VC tấn công nổ bom tự sát làm sập lầu Việt Cường dưới phố (nơi có binh lính Mỹ đến đó ăn uống sau mỗi cuộc hành quân). Khi lầu hết rung chuyển, chúng tôi cùng chui ra một cách khó khăn gấp bội so với khi chui vào. Thầy Giám học lên bảo: “sao lại chui xuống gầm giường, sao không chạy xuống núp trong các hố cát ngoài sân, nhỡ lầu sập thì sao?”

Thì ra khi hoảng hốt, chúng tôi đã hành động giống như những con đà điểu rúc đầu vào cát lúc gặp hiểm nguy. Nhưng nằm trong hố cát ở sân nhìn lên trời càng đáng sợ hơn: những lằn đạn xanh đỏ bay vèo vèo trên bầu trời do VC tấn công vào thành phố, bên ta chiến đấu đẩy lui. Thế là cái khổ, cái chết lại giúp tôi gắn bó với trường với bạn, chúi mũi tìm quên trong việc học, uống từng lời dạy dỗ của thầy cô để ra trường với hạng thủ khoa (mà các bạn cứ trêu là “thủ khôi” khiến tôi hờn giận mãi thật là trẻ con!). Tôi được chọn giữ ở lại trường làm giáo sư hướng dẫn các khóa sau, nhưng tôi chỉ muốn về Huế để được sống bên mẹ già.

Rồi chính nhờ được làm một cô giáo hiền hòa, mẫu mực mà tôi đã vượt qua những nghiệt ngã của số phận do sự đối xử hà khắc của gia đình chồng và những tai ương của đất nước tạo nên. Môn tâm lý giáo dục của thầy Mẫn dạy tôi biết nói những lời ái ngữ với học trò trước khi phê bình cái sai của chúng. Nhớ lời thầy, tôi không bao giờ phê “chữ cẩu thả” mà “em cần viết cẩn thận hơn”, hoặc không phê “vở nhớp quá” mà là “vở sạch mới đẹp”…

Những năm dạy tiểu học, trong cặp tôi lúc nào cũng có hộp kim chỉ để khâu áo cho những em nào nhỡ rách, có cả lượt dày để chải chí cho mấy em gái nghèo thiếu bàn tay mẹ chăm sóc, có cả kéo để cắt tóc cho các em khỏi bị tóc che mắt…

Khi được chuyển về trường cấp II Thuận An thì nơi đây là quê hương thứ hai che chở giúp tôi vượt qua những khổ ải do gia đình chồng đọa đày. Lúc phải rời bỏ gia đình chồng do bị đàn áp quá đáng, các phụ huynh ở Thuận An đã đùm bọc, an ủi xoa dịu cho tôi những vết thương từ thể xác đến tâm hồn. Thậm chí có người mở lời cho tôi và hai con vượt biên cùng con của họ mà không phải đóng một cắc bạc, nhưng tôi không thể bỏ mẹ già và cậu em bị tâm bệnh để ra đi. Các học sinh của tôi đều mê môn Văn tôi dạy, phải chăng do tôi đã trao truyền cho các em tất cả tình cảm thương yêu và trải nghiệm của bản thân vào trong mỗi bài giảng?

Thời bao cấp, nhà giáo đều thiếu thốn, nhưng tôi biết tranh thủ thời gian để chạy chợ nuôi mẹ, em và các con no đủ. Thấy các cô giáo mà phải vất vả ngược xuôi, các cô dì chủ hàng cũng thương, dành cho sự nhẹ nhàng, ưu ái. Một số bạn tôi bỏ nghề, vì nghề giáo cơ cực quá, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ rằng nhờ giữ nghề dạy học mà một người mẹ đơn thân như tôi mới có thể giáo dục các con chăm ngoan, thành đạt và có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn bố mẹ chúng. Tôi cảm thấy lời Phật dạy “sống từ bi, hỉ xả” như thấm từ lúc nào vào cuộc đời làm cô giáo của tôi, tự nhiên như cây cỏ hấp thụ khí trời. Tôi không hề oán hận ai, thậm chí cả với người đã hành hạ mình.

Có lẽ cuộc đời nhà giáo của tôi chỉ biết gieo nhân lành nên cuối đời gặp quả ngọt: người yêu đầu đời của tôi đã trở về quỳ xuống xin tạ tội vì đã để đời tôi bấy lâu chịu khổ đau. Anh đã đón tôi sang đất nước Hoa Kỳ để tôi được sống sung sướng quãng đời còn lại. Tôi được học sinh cũ của trường Trung học Thuận An từ nhiều tiểu bang về chào mừng hoặc gọi điện thăm hỏi, dẫn cô đi thăm thú cảnh đẹp nhiều nơi.

Ôi, còn gì sung sướng hơn khi thấy những học sinh bé bỏng ngày xưa của mình, giờ đây đã trở thành những trung niên khôi ngô, thành đạt, những thiếu phụ xinh đẹp, lịch lãm nơi xứ người. Vậy mà đối với cô giáo cũ, các em vẫn một tiếng “thưa” hai tiếng “dạ” rất đỗi lễ phép, khiến lòng tôi cảm thấy xúc động nao nao, tự hào về mình và về các học sinh thân yêu.

Tôi còn được gặp lại các bạn nội trú trường Sư phạm Qui nhơn ngày xưa, nay các nàng đều xấp xỉ ở ngưỡng “thất thập cổ lai hi”, nhưng vẫn xinh đẹp, vẫn yêu đời và nhất là tình bạn vẫn nồng nàn, thắm thiết như xưa. Phải chăng, nhờ ngành Sư phạm mà vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt nam vẫn nở hoa trên xứ người!

Chính vì thế, như đầu bài viết, tôi có kể lể là tôi miễn cưỡng thi vào trường Sư phạm, thì nay tôi xin sửa sai để khẳng định: Nếu có kiếp sau, tôi lại cố gắng học để được thi vào ngành Sư phạm, được làm một cô giáo mẫu mực, dịu hiền, để trao hết tri thức và tình cảm yêu thương của mình cho thế hệ mai sau: gieo những nhân lành nhằm tạo quả ngọt cho đời.



Nguyễn thị Hồng

https://vvnm.vietbao.com/p210a232198/neu-co-kiep-sau

Ngon hơn …




Trong nhiều năm, vợ làm hai miếng bít tết cho mình và chồng mỗi tối cuối tuần. Chồng luôn lấy miếng nhỏ và nhường miếng lớn. Nhưng gần đây, mô hình này bỗng thay đổi, và người chồng lấy miếng lớn và để miếng nhỏ cho vợ.

Để ý điều này, vợ nói với chồng:

  • “Anh ơi, em đoán bây giờ anh không yêu em nhiều nữa, vì anh đã từng nhường miếng lớn, nhưng bây giờ anh lại giữ cho riêng mình”.
Người chồng trả lời:
  • “Không, không, em yêu! Đó không phải là vấn đề, anh vẫn yêu em như xưa. Điều khác biệt là, bây giờ em làm bít tết ngon hơn xưa.”


:lol2:

Bàn tay tê cóng

__________________________

Arseny Tarkovsky (1907 – 1989) là nhà thơ Nga nổi tiếng thế kỷ XX, sinh tại Yelisavetgrad (nay là Kropyvnytskyi) Ukraine và chết tại Moscow.

Ông bắt đầu theo học Lớp Văn Học Nhà Nuớc Cao Cấp từ 1925 và tốt nghiệp 1929. Trong Thế Chiến II ông bị thuơng, phải cưa chân và đuợc Huân Chuơng Sao Đỏ vì dũng cảm. Ông còn làm báo, viết truyện và nhất là dịch nhiều thơ Đông phuơng (Turkmen, Georgian, Armenian và Arabic). Ông được truy tặng Giải Nhà Nuớc Sô Viết năm 1989.

*Frostbitten Hands *(Bàn Tay Tê Cóng) in trong báo Novy mir, 1987, no.5, là truyện ngắn thời bao cấp với chế độ phân phối thực phẩm và hàng hóa, cho thấy đời sống khó khăn duới thời Sôviết. Thảo nào, sau 3 thập niên đuợc độc lập, huởng dân chủ tự do, Ukraine hiện đang anh dũng chống trả xâm lăng của Nga để bảo vệ chủ quyền, đất nuớc thanh bình thịnh vuợng của mình.

(Phạm đức Thân dịch từ bản Anh dịch Frostbitten Hands của Catherine Porter)

Không lâu sau Cách Mạng, lúc đó còn là đứa trẻ, tôi tới học Truờng Âm Nhạc Robespierre. Khi tôi đuợc bảo cấm không đi chân đất tới truờng, việc học nhạc của tôi bị ngưng giống như nửa chừng giữa đoạn allegro (nhanh) của một sonata (tấu khúc). Nhưng thôi học nhạc không là gì so với xấu hổ của tôi khi nghe thầy hiệụ truởng có ý kiến, trò đi đất đến truờng giống như mấy đứa bụi đời ngoài phố là sỉ nhục truờng ông.
           “Chúng tôi không có tiền mua giầy,” tôi bảo ông.
           “Vậy thì hãy mua giầy cũ ngoài chợ,” ông nói. “Chúng rẻ hơn.”
           “Mẹ không cho mang giầy cũ, bà sợ bị nhiễm trùng,” tôi nói.
           “Tôi hoàn toàn thông cảm tình cảnh khó khăn của em,” hiệu truởng nói, “nhưng tôi phải nghĩ đến danh tiếng của truờng.”
           Tôi ra khỏi phòng ông, tai nóng bừng Trên đuờng về nhà tôi quyết định không nói gì với Mẹ về chuyện giầy. Tôi biết bà sẽ mua giầy cho tôi nếu bà biết cái nhục nhã của tôi; nhưng để làm vậy bà sẽ phải bán đôi ủng bằng nỉ hoặc cái khăn ấm của bà, hoặc nếu không thì phải cắt thực phẩm – và tôi biết bà và cha tôi sẽ phải chịu đói, vì mặc dù mọi khó khăn nhưng tôi luôn luôn đuợc dành phần tốt đẹp nhất.
           Những mơ mộng không ngừng về tiền bạc!
           Tôi mơ thấy một ví tiền với 10, không phải 50 triệu rúp trong đó, hoặc một thẻ phân phối giầy ủng, hoặc tôi nhận đuợc một quà…Rồi tôi mua đôi ủng mới, có buộc dây, sáng bóng như mặt kính âm bản của ảnh, và một quần mới, một jacket, một áo choàng, và tôi đến truờng trông giống như Cậu Bé Lord Fauntleroy. Hiệu truởng rụt rè tiến lại tôi, và tôi nhìn xuống đôi ủng của ông nhếch mép cuời khẩy – hoặc đúng hơn lặng lẽ cuời thầm – vì chúng cũ và chỉ đuợc chải bóng. Rồi tại buổi hòa nhạc của truờng tôi chơi một tấu khúc hay hơn cả chính ông, và ông chạy ào đến tôi nói: “Tha thứ cho tôi đã ngốc nghếch và lỗ mãng bảo em không đuợc đến truờng nếu không mang giầy…!”
           Tôi nhận ra rằng tôi phải kiếm đuợc tiền để mua một đôi ủng. Chuyện này không phải dễ đối với một cậu bé lúc ấy mới 12 tuổi, trong khi đó thì nhiều nguời lớn không thể tìm đuợc việc làm; nhưng tôi gặp may. Một anh bạn đưa tôi đến văn phòng báo Thợ Thủ Công, tại đây tôi đuợc biết mọi thợ thủ công đều có nghĩa vụ luật định phải ghi mua dài hạn báo này, dù muốn hay không. Tôi đuợc giao một sổ biên nhận để mang ánh sáng đến cho thợ may, thợ mũ và thợ đồng hồ trong thành phố, cũng như một mũ bảo hiểm chỏm nhọn Kỵ Binh Đỏ để đội trong giờ làm việc trông cho có vẻ quan trọng. Tôi đuợc bảo có thể giữ lại 10 ngàn trên mỗi triệu rúp đem về cho tòa báo do tôi đi vận động mua dài hạn
           Tôi đâu biết công việc này giống như tròng vòng gai lên đầu.
           Lúc đó Mẹ làm việc tại một trong vô số ban ngành của Chính Phủ mà văn phòng hầu như di chuyển mỗi ngày. Bà là nguời có ý thức xã hội sâu sắc. Bà và đồng nghiệp nhiệt tinh chuyển dịch tài sản nhỏ nhoi của ban ngành từ phố này sang phố kia. Vì thực tế tôi không bị kiểm soát, tôi ít gặp khó khăn khi chuồn ra khỏi nhà. Mặc quần soọc, đội mũ bảo hiểm, tôi chạy chân đất tới Gorlits thợ đóng sách. Ông đứng sau ghế dài đang làm hộp giấy. (Thời gian này ông không đóng sách.)
           Tôi nói: “Công dân Gorlits, xin mời đọc Sắc Lệnh Chính Phủ!”
           Tôi cảm thấy đỏ bừng từ đầu xuống chân, và các chữ tắc nghẹn trong cổ họng.
           Gorlits đọc Sắc Lệnh, đẩy cặp kính nguợc lên trán, thở dài và nhìn tôi chằm chằm.
           “Tôi biết ba em,” ông nói. “Ông có đóng sách tại tiệm tôi hồi thời Nga Hoàng Khát Máu Nicholas còn tại vị. Mọi nguời trong thành phố nể trọng ông. Ai cũng bảo ông là nguời tử tế. Còn em đến tôi, ăn mặc kiểu đó, và cố lấy bánh mì khỏi miệng các con tôi! Em có biết những ngày này bánh mì tốn kém thế nào không? Tôi sẽ đi gặp bố em ngay và nói ông biết con trai yêu quý của ông đang làm gì! Tôi đoán ông không hề biết tí gì chuyện này!”
           “Cháu chỉ kiếm đuợc duy nhất việc này thôi!” Tôi lắp bắp, uớc sao mình có thể chui xuống sàn nhà.
           “Thôi đuợc, tôi sẽ đặt mua dài hạn báo của em vì nếu không nguời ta sẽ cứ dai dẳng đến,” ông nói. “Đây, cầm lấy cái của phi nghĩa của em!”
           Sau ông tôi đến Perets thợ sửa đồng hồ, và Sypunov thợ làm giầy. Tất cả họ quở mắng tôi gay gắt vì đã nhận công việc mà không nguời tử tế nào đụng vào.
           Sypunov là nguời không chịu khoan nhuợng nhất trong đám. Ông còn từ chối đọc Sắc Lệnh, và ngay cả phê bình khinh miệt tôi hơn các nguời khác về việc chọn nghề của tôi, rủa sả tôi như tát nuớc; nhưng cuối cùng ông cũng bắt buộc phải mua dài hạn báo Thợ Thủ Công.
           Trên kệ là một đôi ủng mới còn cả cốt giầy – đáp ứng cho tất cả mơ mộng của tôi. “Đôi đó giá bao nhiêu?” tôi hỏi, khi trao biên nhận cho ông.
           “Em không đủ tiền cho nó đâu,” Sypunov nói. “Tôi đòi em giá cao đến mức em sẽ phải ăn thực phẩm gia súc…”
           Tôi trải qua cả mùa hè và đầu mùa thu chịu sỉ nhục dài dài, để tích lũy đủ vốn mua ủng. Sau cùng ngày đã đến khi tôi mang về từ chợ đôi ủng buộc dây, mới toanh sáng bóng như guơng. Tuơi rói vì sung suớng tôi đem khoe Mẹ.
           “Con lấy nó đâu ra vậy?” bà hỏi.
           “Con mua nó ngoài chợ”, tôi đáp
           “Nhưng làm sao con có tiền?” bà hạch hỏi, và qua nét mặt bà tôi biết bà đang tuởng tôi đã rơi vào đám bạn xấu ngoài phố.
           “Lạy Chúa! ” bà nói sau khi nghe tôi đã thuật lại mọi chuyện. “Tôi không bao giờ nghĩ mình sống để nhìn thấy một ngày như thế này! Con không xấu hổ sao? Tôi đã sinh ra một con quỷ! Con đã kéo danh tiếng nhà ta xuống bùn nhơ chỉ để mua cho mình một đôi ủng. Có chắc là con không dấu mẹ chuyện nào khác?”
           Từ đó trở đi, tôi bị cấm triệt rời nhà nếu không có phép đặc biệt, và tôi hết sức thuyết phục cũng chỉ đuợc Mẹ cho ra ngoài nửa giờ cần thiết để đưa giấy xin nghỉ việc và trả lại mũ bảo hiểm, sổ biên nhận.




Thu qua, rồi đông đến. Tôi có một bộ đồ mới, làm từ vải nhung màn cửa mầu lục, với hoa văn hình hoa huệ và cọng hoa uốn luợn, mầu đậm nay đã nhạt phía sau lưng. Tôi cũng có một áo khoác mới, cắt từ áo choàng cũ của Mẹ, và tôi đuợc mua cho một mũ lông. Vật duy nhất tôi không có là đôi bao tay. Bao tay cũ tôi mang khi tuyết rơi lần đầu tiên và tôi đã làm mất sau gần một giờ chơi ném tuyết. Tôi dấu chuyện này không cho Mẹ biết và bất cứ khi nào ra ngoài tôi giả vờ như có mang nó, để cho bà đinh ninh là tôi ăn mặc tươm tất, thích nghi.
           Một hôm Mẹ đi làm về, bảo tôi: “Sáng mai con phải tới nhà kho để lãnh khẩu phần. Tháng này Mẹ sẽ đuợc 6 ký đuờng cát, thay vì luơng và thực phẩm thuờng lệ. Đây là cái bao. Nhớ đừng quên bao tay.”
           Đó là một buổi sáng lạnh cay đắng. Đuờng phố vắng hoe. Một cơn gió buốt giá thổi từ thảo nguyên vào. Nhiệt kế bên ngoài tiệm thuốc chỉ 26 độ âm.
           Tôi tới nhà kho và nhập vào dòng nguời xếp hàng trên đuờng. Tay tôi đỏ tía vì lạnh, trông giống như chân ngỗng. Mẹ đã tự làm áo khoác cho tôi, và vì bà cho rằng thọc tay vào túi áo là bất lịch sự, cho nên áo bà làm không có túi. Ống tay áo lại quá chật tôi không thể thọc tay vào. Tôi đặt tay trái sau ve cổ áo, nhưng rồi tay phải tôi đông giá. Tôi đã rất sợ bị mất chỗ trong truờng hợp nguời ta không cho tôi vào hàng. Dẫu sao có lẽ tôi đến quá chậm vì hàng dài khiếp. Thời gian lết qua. Chân tôi đau, răng tôi lập cập, và tay tôi…Tôi thổi chúng; tôi mở cúc áo và thọc chúng duới nách – đó là một ngày lạnh cực kỳ.
           Sau cùng tôi cũng qua tới nguỡng cửa nhà kho và lê buớc xuống bực thang tiến lại quầy
           Chuyện không thể nào ngờ xẩy ra lại đã xẩy ra.
           Tôi liếc nhìn nguời đàn ông đang cân hàng, và há hốc mồm. Chính là Sypunov thợ làm giầy, một trong những khách của tôi đã đặt mua báo Thợ Thủ Công. Ông cũng nhận ra tôi. Ông nhìn dò xét qua quầy xuống chân tôi xem tôi có mang giầy không, rồi nói; “Tự kiếm đủ tiền rồi, phải không? Ăn cắp tiền từ những nguời luơng thiện.”
           Cả hàng nguời ngó tôi chăm chăm.
           “Nó đi quanh thu tiền mua dài hạn một tờ báo,” Sypunov giải thích như thể đang đòi hỏi công lý. ‘Nó dọa phạt chúng tôi – nó đuợc huởng 1 kopeck cho mỗi tờ báo nó bán. Mới nứt mắt ra mà đã làm tên ăn cắp. Khi nó lớn lên nó sẽ là một nguời xấu xa,”
           Tôi quên hết hai bàn tay. Tôi chỉ muốn đuợc chết cóng. Thà chịu bất cứ chuyện gì cũng đuợc, còn hơn là phải nghe ông nói và bị đám đông nhìn chăm chăm.
           Khi tôi tới quầy, Sypunov nòi: “2 giờ 30. Nghỉ ăn trưa! Các đồng chí phải lui ra ngoài! Chúng tôi sẽ đóng cửa trong một giờ.”
           “Đưa tôi khẩu phần, tôi phải về nhà,” tôi năn nỉ. Và ngạc nhiên thấy mình thêm: “Mẹ tôi đau. Không ai ở nhà.”
           Đó là lời nói dối vô dụng. “Chúng tôi sẽ không phát cái gì truớc bữa trưa,” Sypunov trả lời. “Nếu đói, hãy ăn những biên nhận mua báo dài hạn.”
           “Đưa nó khẩu phần!” Có nguời kêu to từ trong hàng. “Nó không ăn cắp cái gì cả! Nó đã làm gì sai trái? Nhìn nó kìa, nó lạnh tái xanh. Nó đang chết cóng!”
           “Chỉ nhìn nó máu tôi đã lạnh đông cứng! Nó đã làm theo ý nó. Giờ nó không đuợc gì hết. Cứ cho nó đợi. Mời các công dân làm ơn buớc ra ngoài!”
           Chúng tôi ra ngoài đuờng. Bụi, các mảnh giấy và mưa đá sắc như kim đang bị thổi bay theo gió, và những lá vàng đập vào đá lót vệ đuờng nghe như tiếng sắt. Tôi đút hai tay vào bao. Một cô gái nhỏ có lúm đồng tiền trên má đi ngang qua, đội chùm đầu.
          “Bao tay em ngộ quá, chú nhỏ!” cô nói.
           Trong một thoáng tôi cảm thấy ấm. Tôi quay nguời, mở bao, mở cúc áo khoác và phóng tay vào túi quần.
           Cô gái nhỏ ngoái lại, kêu lên: “Quần nhung, quần nhung!”
           Tôi rút tay ra khỏi túi, ra vẻ dũng cảm cài lại tất cả cúc áo và chuẩn bị cam chịu sỉ nhục tiếp theo, nhưng cô đã cạn trò chế nhạo. Nguời trong hàng dấu mũi vào trong cổ áo, lặng lẽ chuyển chân này sang chân kia, nhẩy nhấp nhỏm và vỗ tay, giống như tài xế taxi đang đợi khách. Thời gian lết đi chậm chạp như thể cũng bị lạnh cóng kẹp cắn. Sau cùng Sypunov trở lại, gỡ khóa, mở toang cánh cửa viền khung kim loại, và tất cả chúng tôi lại buớc xuống vào kho. Ông loay hoay với sổ sách, ghi chép, phun nuớc bọt vào đầu bút chì, rồi nói với tôi: “Thẻ đâu, đồ cặn bã?”
           Ngón tay cứng ngắc, tôi lôi thẻ ra khỏi túi, và Sypunov ném 6 ký đuờng đóng cục vào bao. Tôi xốc nó lên vai và lên đuờng.
           Mặt trời như trái cam lớn lờ mờ hiện sau màn suơng giá lạnh trông như nửa trái cầu của Sao Hỏa. Gió thổi những nắm cát vào mắt tôi và làm môi tôi tê cóng. Tôi chỉ còn đủ sức để vác cái bao và phải dùng hai tay đê giữ nó trên vai. Tôi cảm thấy có một cục gì trong ngực, như thể tay tôi đang truyền cái đau tới đó để cho tôi có thể chịu đựng đuợc và không chết. Tôi lôi cái bao xuống khỏi vai, đặt nó trên vệ đường duới hai chân đang đứng, tay trái quệt những giọt lệ trên má và tay phải đút sau ve cổ áo.
           Một phụ nữ dừng lại, nói: “Tay em có tê cóng không, em nhỏ? Chúng đau không? Về nhà ngay và ngâm chúng vào nuớc lạnh. Thật tội nghiệp không có tuyết để chà tay vào. Em phải bảo mẹ mua cho bao tay. Em có mẹ không, em nhỏ?”
           Không trả lời, tôi lại xốc bao lên vai, hai tay nắm chặt cái nút thắt và loạng choạng xuôi xuống phố.
           Mẹ đã về nhà để ăn trưa và bà mở cửa cho tôi.
           “Chuyện gì vậy?” bà kêu ré lên, nhìn chằm chằm vào mặt tôi. “Bao tay con đâu?”
           Tôi xòe bàn tay ra và bà đau đớn nắm lấy chúng trong tay bà. Bà mang lại một nồi nuớc và tôi thọc vào đó đôi tay không có sinh khí, hình như không còn thuộc về tôi nữa. Mẹ cúi nguời trên tôi. Ôi, mấy năm qua bà đã già hẳn đi…

Phạm đức Thân dịch