Bàn tay tê cóng

__________________________

Arseny Tarkovsky (1907 – 1989) là nhà thơ Nga nổi tiếng thế kỷ XX, sinh tại Yelisavetgrad (nay là Kropyvnytskyi) Ukraine và chết tại Moscow.

Ông bắt đầu theo học Lớp Văn Học Nhà Nuớc Cao Cấp từ 1925 và tốt nghiệp 1929. Trong Thế Chiến II ông bị thuơng, phải cưa chân và đuợc Huân Chuơng Sao Đỏ vì dũng cảm. Ông còn làm báo, viết truyện và nhất là dịch nhiều thơ Đông phuơng (Turkmen, Georgian, Armenian và Arabic). Ông được truy tặng Giải Nhà Nuớc Sô Viết năm 1989.

*Frostbitten Hands *(Bàn Tay Tê Cóng) in trong báo Novy mir, 1987, no.5, là truyện ngắn thời bao cấp với chế độ phân phối thực phẩm và hàng hóa, cho thấy đời sống khó khăn duới thời Sôviết. Thảo nào, sau 3 thập niên đuợc độc lập, huởng dân chủ tự do, Ukraine hiện đang anh dũng chống trả xâm lăng của Nga để bảo vệ chủ quyền, đất nuớc thanh bình thịnh vuợng của mình.

(Phạm đức Thân dịch từ bản Anh dịch Frostbitten Hands của Catherine Porter)

Không lâu sau Cách Mạng, lúc đó còn là đứa trẻ, tôi tới học Truờng Âm Nhạc Robespierre. Khi tôi đuợc bảo cấm không đi chân đất tới truờng, việc học nhạc của tôi bị ngưng giống như nửa chừng giữa đoạn allegro (nhanh) của một sonata (tấu khúc). Nhưng thôi học nhạc không là gì so với xấu hổ của tôi khi nghe thầy hiệụ truởng có ý kiến, trò đi đất đến truờng giống như mấy đứa bụi đời ngoài phố là sỉ nhục truờng ông.
           “Chúng tôi không có tiền mua giầy,” tôi bảo ông.
           “Vậy thì hãy mua giầy cũ ngoài chợ,” ông nói. “Chúng rẻ hơn.”
           “Mẹ không cho mang giầy cũ, bà sợ bị nhiễm trùng,” tôi nói.
           “Tôi hoàn toàn thông cảm tình cảnh khó khăn của em,” hiệu truởng nói, “nhưng tôi phải nghĩ đến danh tiếng của truờng.”
           Tôi ra khỏi phòng ông, tai nóng bừng Trên đuờng về nhà tôi quyết định không nói gì với Mẹ về chuyện giầy. Tôi biết bà sẽ mua giầy cho tôi nếu bà biết cái nhục nhã của tôi; nhưng để làm vậy bà sẽ phải bán đôi ủng bằng nỉ hoặc cái khăn ấm của bà, hoặc nếu không thì phải cắt thực phẩm – và tôi biết bà và cha tôi sẽ phải chịu đói, vì mặc dù mọi khó khăn nhưng tôi luôn luôn đuợc dành phần tốt đẹp nhất.
           Những mơ mộng không ngừng về tiền bạc!
           Tôi mơ thấy một ví tiền với 10, không phải 50 triệu rúp trong đó, hoặc một thẻ phân phối giầy ủng, hoặc tôi nhận đuợc một quà…Rồi tôi mua đôi ủng mới, có buộc dây, sáng bóng như mặt kính âm bản của ảnh, và một quần mới, một jacket, một áo choàng, và tôi đến truờng trông giống như Cậu Bé Lord Fauntleroy. Hiệu truởng rụt rè tiến lại tôi, và tôi nhìn xuống đôi ủng của ông nhếch mép cuời khẩy – hoặc đúng hơn lặng lẽ cuời thầm – vì chúng cũ và chỉ đuợc chải bóng. Rồi tại buổi hòa nhạc của truờng tôi chơi một tấu khúc hay hơn cả chính ông, và ông chạy ào đến tôi nói: “Tha thứ cho tôi đã ngốc nghếch và lỗ mãng bảo em không đuợc đến truờng nếu không mang giầy…!”
           Tôi nhận ra rằng tôi phải kiếm đuợc tiền để mua một đôi ủng. Chuyện này không phải dễ đối với một cậu bé lúc ấy mới 12 tuổi, trong khi đó thì nhiều nguời lớn không thể tìm đuợc việc làm; nhưng tôi gặp may. Một anh bạn đưa tôi đến văn phòng báo Thợ Thủ Công, tại đây tôi đuợc biết mọi thợ thủ công đều có nghĩa vụ luật định phải ghi mua dài hạn báo này, dù muốn hay không. Tôi đuợc giao một sổ biên nhận để mang ánh sáng đến cho thợ may, thợ mũ và thợ đồng hồ trong thành phố, cũng như một mũ bảo hiểm chỏm nhọn Kỵ Binh Đỏ để đội trong giờ làm việc trông cho có vẻ quan trọng. Tôi đuợc bảo có thể giữ lại 10 ngàn trên mỗi triệu rúp đem về cho tòa báo do tôi đi vận động mua dài hạn
           Tôi đâu biết công việc này giống như tròng vòng gai lên đầu.
           Lúc đó Mẹ làm việc tại một trong vô số ban ngành của Chính Phủ mà văn phòng hầu như di chuyển mỗi ngày. Bà là nguời có ý thức xã hội sâu sắc. Bà và đồng nghiệp nhiệt tinh chuyển dịch tài sản nhỏ nhoi của ban ngành từ phố này sang phố kia. Vì thực tế tôi không bị kiểm soát, tôi ít gặp khó khăn khi chuồn ra khỏi nhà. Mặc quần soọc, đội mũ bảo hiểm, tôi chạy chân đất tới Gorlits thợ đóng sách. Ông đứng sau ghế dài đang làm hộp giấy. (Thời gian này ông không đóng sách.)
           Tôi nói: “Công dân Gorlits, xin mời đọc Sắc Lệnh Chính Phủ!”
           Tôi cảm thấy đỏ bừng từ đầu xuống chân, và các chữ tắc nghẹn trong cổ họng.
           Gorlits đọc Sắc Lệnh, đẩy cặp kính nguợc lên trán, thở dài và nhìn tôi chằm chằm.
           “Tôi biết ba em,” ông nói. “Ông có đóng sách tại tiệm tôi hồi thời Nga Hoàng Khát Máu Nicholas còn tại vị. Mọi nguời trong thành phố nể trọng ông. Ai cũng bảo ông là nguời tử tế. Còn em đến tôi, ăn mặc kiểu đó, và cố lấy bánh mì khỏi miệng các con tôi! Em có biết những ngày này bánh mì tốn kém thế nào không? Tôi sẽ đi gặp bố em ngay và nói ông biết con trai yêu quý của ông đang làm gì! Tôi đoán ông không hề biết tí gì chuyện này!”
           “Cháu chỉ kiếm đuợc duy nhất việc này thôi!” Tôi lắp bắp, uớc sao mình có thể chui xuống sàn nhà.
           “Thôi đuợc, tôi sẽ đặt mua dài hạn báo của em vì nếu không nguời ta sẽ cứ dai dẳng đến,” ông nói. “Đây, cầm lấy cái của phi nghĩa của em!”
           Sau ông tôi đến Perets thợ sửa đồng hồ, và Sypunov thợ làm giầy. Tất cả họ quở mắng tôi gay gắt vì đã nhận công việc mà không nguời tử tế nào đụng vào.
           Sypunov là nguời không chịu khoan nhuợng nhất trong đám. Ông còn từ chối đọc Sắc Lệnh, và ngay cả phê bình khinh miệt tôi hơn các nguời khác về việc chọn nghề của tôi, rủa sả tôi như tát nuớc; nhưng cuối cùng ông cũng bắt buộc phải mua dài hạn báo Thợ Thủ Công.
           Trên kệ là một đôi ủng mới còn cả cốt giầy – đáp ứng cho tất cả mơ mộng của tôi. “Đôi đó giá bao nhiêu?” tôi hỏi, khi trao biên nhận cho ông.
           “Em không đủ tiền cho nó đâu,” Sypunov nói. “Tôi đòi em giá cao đến mức em sẽ phải ăn thực phẩm gia súc…”
           Tôi trải qua cả mùa hè và đầu mùa thu chịu sỉ nhục dài dài, để tích lũy đủ vốn mua ủng. Sau cùng ngày đã đến khi tôi mang về từ chợ đôi ủng buộc dây, mới toanh sáng bóng như guơng. Tuơi rói vì sung suớng tôi đem khoe Mẹ.
           “Con lấy nó đâu ra vậy?” bà hỏi.
           “Con mua nó ngoài chợ”, tôi đáp
           “Nhưng làm sao con có tiền?” bà hạch hỏi, và qua nét mặt bà tôi biết bà đang tuởng tôi đã rơi vào đám bạn xấu ngoài phố.
           “Lạy Chúa! ” bà nói sau khi nghe tôi đã thuật lại mọi chuyện. “Tôi không bao giờ nghĩ mình sống để nhìn thấy một ngày như thế này! Con không xấu hổ sao? Tôi đã sinh ra một con quỷ! Con đã kéo danh tiếng nhà ta xuống bùn nhơ chỉ để mua cho mình một đôi ủng. Có chắc là con không dấu mẹ chuyện nào khác?”
           Từ đó trở đi, tôi bị cấm triệt rời nhà nếu không có phép đặc biệt, và tôi hết sức thuyết phục cũng chỉ đuợc Mẹ cho ra ngoài nửa giờ cần thiết để đưa giấy xin nghỉ việc và trả lại mũ bảo hiểm, sổ biên nhận.




Thu qua, rồi đông đến. Tôi có một bộ đồ mới, làm từ vải nhung màn cửa mầu lục, với hoa văn hình hoa huệ và cọng hoa uốn luợn, mầu đậm nay đã nhạt phía sau lưng. Tôi cũng có một áo khoác mới, cắt từ áo choàng cũ của Mẹ, và tôi đuợc mua cho một mũ lông. Vật duy nhất tôi không có là đôi bao tay. Bao tay cũ tôi mang khi tuyết rơi lần đầu tiên và tôi đã làm mất sau gần một giờ chơi ném tuyết. Tôi dấu chuyện này không cho Mẹ biết và bất cứ khi nào ra ngoài tôi giả vờ như có mang nó, để cho bà đinh ninh là tôi ăn mặc tươm tất, thích nghi.
           Một hôm Mẹ đi làm về, bảo tôi: “Sáng mai con phải tới nhà kho để lãnh khẩu phần. Tháng này Mẹ sẽ đuợc 6 ký đuờng cát, thay vì luơng và thực phẩm thuờng lệ. Đây là cái bao. Nhớ đừng quên bao tay.”
           Đó là một buổi sáng lạnh cay đắng. Đuờng phố vắng hoe. Một cơn gió buốt giá thổi từ thảo nguyên vào. Nhiệt kế bên ngoài tiệm thuốc chỉ 26 độ âm.
           Tôi tới nhà kho và nhập vào dòng nguời xếp hàng trên đuờng. Tay tôi đỏ tía vì lạnh, trông giống như chân ngỗng. Mẹ đã tự làm áo khoác cho tôi, và vì bà cho rằng thọc tay vào túi áo là bất lịch sự, cho nên áo bà làm không có túi. Ống tay áo lại quá chật tôi không thể thọc tay vào. Tôi đặt tay trái sau ve cổ áo, nhưng rồi tay phải tôi đông giá. Tôi đã rất sợ bị mất chỗ trong truờng hợp nguời ta không cho tôi vào hàng. Dẫu sao có lẽ tôi đến quá chậm vì hàng dài khiếp. Thời gian lết qua. Chân tôi đau, răng tôi lập cập, và tay tôi…Tôi thổi chúng; tôi mở cúc áo và thọc chúng duới nách – đó là một ngày lạnh cực kỳ.
           Sau cùng tôi cũng qua tới nguỡng cửa nhà kho và lê buớc xuống bực thang tiến lại quầy
           Chuyện không thể nào ngờ xẩy ra lại đã xẩy ra.
           Tôi liếc nhìn nguời đàn ông đang cân hàng, và há hốc mồm. Chính là Sypunov thợ làm giầy, một trong những khách của tôi đã đặt mua báo Thợ Thủ Công. Ông cũng nhận ra tôi. Ông nhìn dò xét qua quầy xuống chân tôi xem tôi có mang giầy không, rồi nói; “Tự kiếm đủ tiền rồi, phải không? Ăn cắp tiền từ những nguời luơng thiện.”
           Cả hàng nguời ngó tôi chăm chăm.
           “Nó đi quanh thu tiền mua dài hạn một tờ báo,” Sypunov giải thích như thể đang đòi hỏi công lý. ‘Nó dọa phạt chúng tôi – nó đuợc huởng 1 kopeck cho mỗi tờ báo nó bán. Mới nứt mắt ra mà đã làm tên ăn cắp. Khi nó lớn lên nó sẽ là một nguời xấu xa,”
           Tôi quên hết hai bàn tay. Tôi chỉ muốn đuợc chết cóng. Thà chịu bất cứ chuyện gì cũng đuợc, còn hơn là phải nghe ông nói và bị đám đông nhìn chăm chăm.
           Khi tôi tới quầy, Sypunov nòi: “2 giờ 30. Nghỉ ăn trưa! Các đồng chí phải lui ra ngoài! Chúng tôi sẽ đóng cửa trong một giờ.”
           “Đưa tôi khẩu phần, tôi phải về nhà,” tôi năn nỉ. Và ngạc nhiên thấy mình thêm: “Mẹ tôi đau. Không ai ở nhà.”
           Đó là lời nói dối vô dụng. “Chúng tôi sẽ không phát cái gì truớc bữa trưa,” Sypunov trả lời. “Nếu đói, hãy ăn những biên nhận mua báo dài hạn.”
           “Đưa nó khẩu phần!” Có nguời kêu to từ trong hàng. “Nó không ăn cắp cái gì cả! Nó đã làm gì sai trái? Nhìn nó kìa, nó lạnh tái xanh. Nó đang chết cóng!”
           “Chỉ nhìn nó máu tôi đã lạnh đông cứng! Nó đã làm theo ý nó. Giờ nó không đuợc gì hết. Cứ cho nó đợi. Mời các công dân làm ơn buớc ra ngoài!”
           Chúng tôi ra ngoài đuờng. Bụi, các mảnh giấy và mưa đá sắc như kim đang bị thổi bay theo gió, và những lá vàng đập vào đá lót vệ đuờng nghe như tiếng sắt. Tôi đút hai tay vào bao. Một cô gái nhỏ có lúm đồng tiền trên má đi ngang qua, đội chùm đầu.
          “Bao tay em ngộ quá, chú nhỏ!” cô nói.
           Trong một thoáng tôi cảm thấy ấm. Tôi quay nguời, mở bao, mở cúc áo khoác và phóng tay vào túi quần.
           Cô gái nhỏ ngoái lại, kêu lên: “Quần nhung, quần nhung!”
           Tôi rút tay ra khỏi túi, ra vẻ dũng cảm cài lại tất cả cúc áo và chuẩn bị cam chịu sỉ nhục tiếp theo, nhưng cô đã cạn trò chế nhạo. Nguời trong hàng dấu mũi vào trong cổ áo, lặng lẽ chuyển chân này sang chân kia, nhẩy nhấp nhỏm và vỗ tay, giống như tài xế taxi đang đợi khách. Thời gian lết đi chậm chạp như thể cũng bị lạnh cóng kẹp cắn. Sau cùng Sypunov trở lại, gỡ khóa, mở toang cánh cửa viền khung kim loại, và tất cả chúng tôi lại buớc xuống vào kho. Ông loay hoay với sổ sách, ghi chép, phun nuớc bọt vào đầu bút chì, rồi nói với tôi: “Thẻ đâu, đồ cặn bã?”
           Ngón tay cứng ngắc, tôi lôi thẻ ra khỏi túi, và Sypunov ném 6 ký đuờng đóng cục vào bao. Tôi xốc nó lên vai và lên đuờng.
           Mặt trời như trái cam lớn lờ mờ hiện sau màn suơng giá lạnh trông như nửa trái cầu của Sao Hỏa. Gió thổi những nắm cát vào mắt tôi và làm môi tôi tê cóng. Tôi chỉ còn đủ sức để vác cái bao và phải dùng hai tay đê giữ nó trên vai. Tôi cảm thấy có một cục gì trong ngực, như thể tay tôi đang truyền cái đau tới đó để cho tôi có thể chịu đựng đuợc và không chết. Tôi lôi cái bao xuống khỏi vai, đặt nó trên vệ đường duới hai chân đang đứng, tay trái quệt những giọt lệ trên má và tay phải đút sau ve cổ áo.
           Một phụ nữ dừng lại, nói: “Tay em có tê cóng không, em nhỏ? Chúng đau không? Về nhà ngay và ngâm chúng vào nuớc lạnh. Thật tội nghiệp không có tuyết để chà tay vào. Em phải bảo mẹ mua cho bao tay. Em có mẹ không, em nhỏ?”
           Không trả lời, tôi lại xốc bao lên vai, hai tay nắm chặt cái nút thắt và loạng choạng xuôi xuống phố.
           Mẹ đã về nhà để ăn trưa và bà mở cửa cho tôi.
           “Chuyện gì vậy?” bà kêu ré lên, nhìn chằm chằm vào mặt tôi. “Bao tay con đâu?”
           Tôi xòe bàn tay ra và bà đau đớn nắm lấy chúng trong tay bà. Bà mang lại một nồi nuớc và tôi thọc vào đó đôi tay không có sinh khí, hình như không còn thuộc về tôi nữa. Mẹ cúi nguời trên tôi. Ôi, mấy năm qua bà đã già hẳn đi…

Phạm đức Thân dịch

Bịt mắt bắt dê

__________________________

Enchi Fumiko (1905 – 1986) nữ văn sĩ Nhật xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ đã đọc văn chuơng, xem kịch kabuki, lớn lên viết kịch. Năm 1930 bắt đầu viết tiểu thuyết, truyện ngắn, nhưng chiến tranh đã làm cuộc đời thay đổi. Năm 1945 nhà bị cháy rụi bởi không kích và năm sau bà bị mổ ung thư tử cung, rồi trải qua nhiều biến chứng, mãi đến 1949 mới viết lại. Truyện Omnazaka (Những Năm Chờ Đợi) đoạt giải Noma 1957. Bà viết nhiều truyện đuợc khen ngợi, được giải thưởng Tanizaki 1969, và lại còn bỏ công dịch sang kim văn truyện dài cổ văn The Tale of Genji. Năm 1985 bà đuợc trao tặng huân chuơng văn hóa cao quý Bunka Kunsho.

Mặc dù viết nhiều loại truyện, nhưng bà chú trọng đến đặc tính cơ bản của phụ nữ trong bối cảnh xã hội cũng như quan hệ cá nhân, đặc biệt là dục tính nữ giới với những biểu thị mạnh mẽ, đôi khi khó hiểu. Mekura oni (Bịt Mắt Bắt Dê, 1962) bao gồm cả hai mặt trên: mô tả cuộc đời một nguời con gái mẹ là kỹ nữ, mà phần vì hoàn cảnh và phần vì cá tính, khi lớn lên đã chọn theo con đuờng của mẹ.

(Phạm đức Thân dịch từ bản Anh ngữ Blind Man’s Buff của dịch giả Beth Cary.)

Mưa nhẹ đang rơi đêm cuối tháng Mười Một thì tôi nhận đuợc điện thoại từ nhà của cô em ở Kyoto. Chủ nhà – Ichiko, em cùng cha khác mẹ – hai ngày truớc nói đi Osaka, mà đến nay vẫn chưa về.
           Cũng tình cờ, Kinu, u nguời làm truớc đây của chúng tôi, đã biết Ichiko từ hồi nhỏ, đang đến thăm qua đêm tại nhà tôi. Cho nên tự nhiên là sau khi tôi gác điện thoại tôi bảo u điện thoại về chuyện gì.
           “Ô, cô Ichiko ở Kyoto, ” Kinu nói, và ngưng giây lát. Rồi u bật cuời. “Cô ấy nên qua cái tuổi bỏ nhà đi.”
           “Đúng vậy,…nhưng đó là điều ông Kajita sợ rằng cô ấy đã làm.”
           Ông Kajita là tu sĩ truởng của ngôi đền mà Ichiko đã thuê đất để mở nhà hàng chay kiểu nhà Phật. Ichiko là vợ ông theo tập tục sống chung không hôn thú. Tên cô không ghi trong sổ gia đình, nhưng mọi gia đình thành viên của đền công nhận tình trạng này.
           Có lần cô bảo tôi tại sao cô không ghi tên vào sổ. Không phải vì giáo lý cấm Kajita lấy vợ. Ông ngần ngại chuyện này vì ông sợ đạo hữu của đền ông có thể không chấp nhận Ichiko do bởi cô đã từng là geisha; và chính Ichiko cũng không muốn gia nhập đền và đuợc coi như vợ ông.
           “Nhưng thưa bà, cô Ichiko chỉ kém bà một tuổi. Nay cô hẳn đã 52.” Kinu tiếp tục băn khoăn về tuổi của Ichiko.
           “Dù 52 hay 53, nguời ta ngày nay khác ngày xưa. Chẳng còn nhiều phụ nữ không ngại độc thân và khô cằn nhăn nhúm như tôi,” tôi nói.
           “Thưa bà, dĩ nhiên tôi biết bà và cô Ichiko khác nhau. Nhưng không thể có một lý do nào để cô bỏ nhà.đi. Họ nói tiệm cô rất đông khách.”
           “Chính thế. Ngay vừa rồi khi điện thoại, ông Kajita nói ông không thể hiểu chuyện gì đã xẩy ra. Ông nói cô rời nhà hai ngày truớc, bảo rằng cô sẽ ở lại đêm với một nguời bạn tại Osaka. Cho nên hôm qua cô không về họ không nghi ngại gì. Sáng nay khi cô vẫn chưa về, họ mới gửi điện tín – bạn cô hình như không có điện thoại – và biết ra cô không hề có mặt ở đó. Lúc ấy họ mới bắt đầu lo lắng và gọi đây xem cô ấy có thể tới Tokyo chăng.”
           “Ừ, nghe có vẻ hơi lạ.”
           Lần đầu tiên Kinu bắt đầu tỏ ý nghi ngại.
           Mặc dù Ichiko và tôi sinh khác năm, ngày sinh của chúng tôi chỉ cách nhau có 6 tháng, tôi tháng Muời Một và cô tháng Năm sau. Điều này cho thấy chúng tôi không thể cùng mẹ. Tôi là một trong những đứa con của cha hoạt động chính trị và mẹ là vợ chính thức của ông, trong khi mẹ của Ichiko là một geisha ở Yoshi-cho.
           Tôi không biết hoàn cảnh thế nào, nhưng theo tôi nhớ lại đuợc, Ichiko đã luôn luôn sống với chúng tôi ở Ichigaya như nguời trong gia đình và đuợc nuôi duỡng như em gái tôi. Chúng tôi cùng nhau đi học từ tiểu học lên trung học tại truờng phụ thuộc của Truờng Sư Phạm Nữ Cao Cấp Ochanomizu. Tôi là một cô gái nhan sắc trung bình, và trên đuờng đi học không ai chú ý nhiều đến khuôn mặt vừa mới cọ rửa sạch sẽ của tôi. Mặc dù họ bảo chúng tôi trông giống nhau, từ khi Ichiko lên 12 hay 13, khuôn mặt cô đã bừng lên như một nụ hoa mầu tuơi sáng. Có một nét duyên dáng hấp dẫn không thể tả đuợc trong vẻ đẹp quanh mắt và miệng cô.
           Trong khi cô đang trên xe lửa đến trường hoặc về nhà, đám con trai đôi khi tuồn thư tình vào ống tay áo kimono của cô. Cô có cho tôi thấy một hai bức. Cái kiểu chú ý này có lẽ là một trong những điều đã khuyến khích Ichiko cảm nghiệm sớm hoan lạc. Mùa xuân, bắt đầu vào lớp chín, cô yêu mê mệt một bạn của anh tôi đang là sinh viên Đại Học T, và cô bỏ nhà theo anh ta,
           Cuộc tình kết thúc đột ngột bất ngờ. Sau chuyện này, vì có thể tác dụng xấu trên các trẻ khác, Ichiko đuợc gửi trả về sống tại nhà mẹ ruột. Một hai năm sau cha tôi qua đời. Tới lúc đó mẹ Ichiko đã trở nên một trong những geisha độc lập nổi tiếng trong vùng, duới tay có vài geisha trẻ. Bà là một phụ nữ khôn ngoan và bề ngoài rất hòa thuận với mẹ tôi.
           Cho dù sau khi đã bị đưa ra khỏi nhà, Ichiko vẫn muốn thân thiết với tôi. Thỉnh thoảng cô viết thư, mời tôi đến khu phố cô. Lúc đó tôi là sinh viên của Truờng Anh Ngữ Tsuda. Lẽ ra bực bội, giận hờn Ichiko lại hãnh diện về tôi. Bây giờ khi tôi nghĩ đến chuyện này tôi thấy hơi lạ; nhưng tôi thuờng nói dốí mẹ, bảo bà rằng tôi đang tới nhà bạn. Thay vì thế, tôi thuờng gặp Ichiko duới Cầu Azuma. Từ đây chúng tôi lấy xuồng máy hơi nuớc tới Vuờn Hyakkaen hoặc Đền Shiharige và thả bộ quanh vùng.
           Ichiko chưa trở thành geisha, nhưng cô làm kiểu tóc bới cao như geisha tập sự, mặc kimono sọc mầu sáng, và thắt dải lưng đỏ hoa văn khác nhau. Tuơng phản giữa dáng vẻ cô và tôi – một cô gái trung lưu bậc trên, tóc rẽ đuờng ngôi bên – hằn phải có vẻ kỳ cục khó tin. Chúng tôi thuờng bị trêu ghẹo bởi các thủy thủ tầu chở hàng và các nhân công nghỉ để hút thuốc. Chúng tôi tản bộ dọc sông Sumida vì tôi hồi đó là độc giả hăng say của Nagai Kafu và bị ấn tuợng bởi các truyện Sông Sumida, Vườn Mẫu Đơn, Truyện Đêm ở Shinbashi, và những truyện khác của ông mà bối cảnh là khu ăn chơi. Nó khơi nguồn cho tôi hãnh diện có một cô em xinh đẹp cùng cha khác mẹ, từ cái khu cổ kính lãng mạn đó của Tokyo.
           Rồi tôi tốt nghiệp trường sư phạm, lấy chồng, và không bao lâu sau chồng tôi được phái qua Mỹ làm viên chức ngân hàng, và chúng tôi di chuyển đến New York. Bốn năm sau con trai tôi chết bệnh. Dù bằng mọi cách chúng tôi không thể hòa hợp và tôi dùng đó như một cái cớ để ly dị chồng, và trở về Tokyo. Vì tôi không muốn tái hôn, tôi trở lại với mẹ và sống với bà cho tới lúc gần đây khi bà qua đời.
           Tôi sống đời bình thuờng đều đặn dạy Anh ngữ. Nếu thỉnh thoảng có bứng lên sáng sủa bất ngờ tô điểm vẻ đều đều đơn điệu thì đó là do Ichiko mang lại. Ngay như mẹ tôi hồi còn trẻ đã coi Ichiko như một phiền toái, đã trả cô về mẹ ruột, nhưng nay cũng đã trở nên yêu thuơng cô hơn hẳn các con dâu. Bất cứ khi nào Ichiko đến thăm, Mẹ thuờng chăm chú nghe Ichiko mô tả những biến chuyển của đời cô cũng như đời các bạn cô.
           Trong khi tôi ở ngoại quốc, Ichiko trở thành một geisha trẻ trong cơ ngơi của mẹ cô và bắt đầu giúp vui trong các bữa tiệc. Cô đẹp lộng lẫy và có tài đối đáp. Cô cũng may mắn có mẹ huớng dẫn mọi chuyện. Mặc dù cô không đuợc huấn luyện nghệ thuật giải trí bắt đầu từ hồi còn nhỏ, nhưng không có gì gợi ra cô có thể là một geisha buông thả. Sau ba, bốn năm làm geisha hạng nhất, Ichiko trở thành tình nhân của Katsuyama Kijuro, một đại lý hàng đầu trong giới mỹ thuật..Ông ổn định cuộc sống cho cô trong một ngôi nhà ở Takagi-cho tại quận Aoyama. Vì tôi sống ở Zaimoku-cho tại Azabu gần đó nên Ichiko thuờng đến thăm tôi. Chính vào thời gian này Mẹ và Kinu biết Ichiko khi đã truởng thành.
           Katsuyama là đại lý mỹ thuật buôn bán chính các tranh Nhật. Gia đình ông nghe nói là những nguời cho vay tiền duới thời Edo, cho nên bản năng thích bảo trợ có thể nằm trong huyết quản ông. Ông thích hỗ trợ những gia đình họa sĩ trẻ và những tài năng mới chưa đuợc biết đến, coi đây hầu như là một thói quen giống đánh bạc, và đã phung phí một số tiền lớn vào thú vui này.
           Các họa sĩ đó tụ tập tại nhà Ichiko, và vì Ichiko hiểu rõ Katsuyama, cô chăm sóc họ chu đáo. Trong nhà Ichiko chỗ tắm luôn luôn sẵn sàng, ngay cả từ buổi sáng, và tới bữa cơm thức ăn ngon đuợc dọn cùng với bia. Thảo nào nhiều họa sĩ hội tụ ở đây.
           “Thật ngạc nhiên ông ấy không ngại gửi các thanh niên lôi thôi lếch thếch đến cô để chăm sóc. Thuờng thuờng đàn ông có gái bao còn không thích cả thân nhân gia đình của nguời tình quẩn quanh chỗ ở của họ.”
           Những lần nghe mẹ tôi bình phẩm như vậy tôi cảm thấy thích thú. Mẹ đã học kinh nghiệm về đàn ông từ cha tôi, ông tằng tịu với geisha trong khi giả vờ trung thành với bà. Vì tôi sống đời hôn nhân chỉ có ba bốn năm trong khi ở ngoại quốc, tôi sẽ không bao giờ mơ có thể bình phẩm như thế.
           Nhưng Ichiko chỉ mỉm cuời, để lộ hơi lúm đồng tiền trên má. Những ngày này bất cứ khi nào tôi thấy khuôn mặt Ichiko tôi cảm thấy da má cô mềm và mịn, sờ vào sẽ gợi hoan lạc như khi sờ vào trái chín. Phụ nữ trí thức, dùng đầu óc để sinh sông, không bao giờ đuợc diễm phúc hoan lạc như thế.
           “Thưa mẹ,” Ichiko nói (lúc này Mẹ không còn ngại Ichiko xưng hô kiểu đó), “Không có vần đề gì cả. Katsuyama tin tuởng con. Ông nói con không phải là loại đàn bà cuồng si đàn ông. Các họa sĩ tụ tập ở nhà con, cách này hay cách khác, có bị con hấp dẫn. Katsuyama hình như lại hài lòng khi thấy họ thăng hoa cái hấp dẫn của con thành đam mê trong công việc. Con có lần tức giận và lên án ông đã dùng con để khơi dậy cái đam mê đó. Nhưng con không thể tranh luận với Katsuyama. Ông nghĩ mỗi nguời như là vật liệu để cho tranh tốt đẹp. Con nghe nói tình nhân truớc của ông đã bỏ đi với một họa sĩ.”
           “Điều gì đã xẩy đến cho họa sĩ đó? Anh trở nên thành công?”
           Ichiko lắc đầu, “Không, anh không bao giờ thành đạt. Hình như hiện giờ anh đang ở đâu đó trong Kyushu sơn vẽ cho nhà hàng và khách sạn.”
           “Vậy thì ông Katsuyama đã thất bại hoàn toàn với họa sĩ đó. Nguời tình của ông còn bị cuỗm mất, và nếu các tranh cũng chẳng giá trị gì, ông ta mất cả chì lẫn chài.”
           “Không, trái nguợc hẳn, mất nguời tình lại đem đến một kết quả khác thuờng,” Ichiko vừa nói vừa cuời. “Có một họa sĩ đã trở nên thực sự nổi tiếng qua Nhà Triển Lãm Nitten và hiện giờ còn là một trong những giám khảo của Nhà – họa sĩ phong cách Nhật Bản tên Hirade Shusai. Họ nói anh là nguời tài năng hứa hẹn nhất đuợc Katsuyama đỡ đầu. Ừ, anh đã phải lòng nguời tình của Katsuyama. Anh không nói gì về chuyện này, nhưng nàng đã từ chối anh và bỏ đi với họa sĩ kia. Mẹ không thể biết đuợc tâm tư của nguời đời, nhưng sau vụ đó phong cách của Hirade phát triển nở rộ. Mẹ biết không, giờ hầu như không thể mua tranh của anh nếu không qua Katsuyama. Chúng đã trở nên những thứ đem lại nhiều lợi lộc….Cho nên mẹ không thể bảo Katsuyama đã bị thua lỗ.”
           Có một phần sự thật trong điều cô nói. Katsuyama quả có dùng Ichiko như một con mồi trong công việc. Ichiko bảo cô để cho mình sống cuộc đời như vậy vì cô bị lôi cuốn bởi cách Katsuyama dùng nguời như con súc sắc trong trò chơi cờ bạc lạ lùng. Một phụ nữ chỉ 27, 28 mà lại chọn kiểu sống này thì theo tôi có vẻ hơi quá tính toán. Nó có vẻ hư vô một cách kỳ lạ thế nào ấy. Đang thời trổ mã xinh đẹp, làm sao Ichiko lại có thể hài lòng sống trong một thế giới mà sô phận con nguời bị tung hứng như thế? Cho dẫu cái thao túng này có vẻ như là chỉ vì lợi ích nghệ thuật, nó vẫn hình như lạ lùng, không tự nhiên. Và mặc dù chúng tôi có liên hệ với nhau, tôi cảm thấy không thể hỏi cô cặn kẽ hơn.
           Mẹ và tôi gặp Katsuyama thời kỳ này. Để thêm tiền tân trang một phần căn nhà, qua Ichiko chúng tôi nhờ cô hỏi xem Katsuyama có muốn mua vài tranh cuốn của Hoitsu và Buncho. Ông mời chúng tôi ăn tối chính thức ở một tiệm Nhật tại Azabu để cám ơn chúng tôi đã bán cho ông những tác phẩm giá trị. Dĩ nhiên Ichiko cũng tham dự.
           Trên đuờng về nhà Mẹ nói với nụ cuời nuối tiếc, “Ông Katsuyama yêu Ichiko, nhưng ông yêu kinh doanh hơn. Nhiều chính trị gia cũng giống thế. Họ có thể dốc lòng dồn hết chú ý vào một phụ nữ, nhưng nếu cần thiết cho công việc, họ có thể dễ dàng nhuờng nguời đàn bà quý giá đó cho nguời khác.”
           Khi nghe Mẹ nói vậy tôi hoàn toàn không hiểu hết bà muốn nói gì. Nhưng sau này nghĩ tới nghĩ lui tôi mới nhận ra rằng bà hẳn đang phản tỉnh điều bà học đuợc qua kinh nghiệm với Cha. Từ viễn cảnh này, tôi có thể hiểu rằng có lẽ Ichiko chịu sống với Katsuyama già tuổi hơn cô nhiều vì tiềm thức cô mong muốn có một hình ảnh nguời cha.
           Trong thời gian hơn 10 năm Ichiko là nguời tình của Katsuyama và là chủ căn nhà dùng làm chỗ tụ tập cho các họa sĩ trẻ phong cách Nhật còn trong bóng tối, tôi chưa bao giờ nghe đồn đại Ichiko tai tiếng dính líu lãng mạn với ai trong bọn họ. Tôi cũng không hề nghe có vấn đề gì giữa Ichiko và Katsuyama.
           Katsuyama chết vì ung thư dạ dầy 2 hoặc 3 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Ông di chúc để lại cho Ichiko căn nhà ở Takagi-cho, và cô tiếp tục điều hành đại lý mỹ thuật. Thời gian sống với ông, cô đã học thành thạo công việc. Một số ít họa sĩ đã thành đạt duới sự bảo trợ của Katsuyama, và hầu hết bọn họ tiếp tục huởng lợi ích nhờ ảnh huởng của Ichiko. Mặc dù liên kết với nhà chính của Katsuyama dĩ nhiên bị cắt đứt, nhưng kinh doanh ở Takagi-cho vẫn đuợc hỗ trợ qua những mối liên hệ cá nhân của Ichiko. Cũng như Ichiko đã làm khi Katsuyama còn sống, Ichiko có những họa sĩ trẻ ra vào nhà cô nhưng cô không quan hệ thân mật với ai trong bọn họ. Cô hình như đã tiếp thu hoàn toàn kiểu thao túng của Katsuyama và vẫn dùng các họa sĩ này như những con chốt trong kinh doanh.
           Ichiko lúc này đã quá 40. Cô đã chín mùi, trở thành một phụ nữ chín chắn, thân hình nẩy nở, vai tròn căng và bộ ngực không có dấu hiệu gì là trung niên. Cô thích mặc kimono vải dệt cứng Yuk hoặc Shiozawa, làm bằng chất liệu không bám sát vào nguời. Cô hình như không biết rằng vật liệu như thế càng làm cô thêm quyến rũ.
           “Tôi quan tâm tất cả cho công việc. Tôi đã nghỉ chơi thôi làm phụ nữ,” cô thuờng nhấn mạnh. Và với vẻ bạo dạn, cô một hơi nốc cạn ly bia.
           Cô tiếp tục cuộc đời nữ đại lý mỹ thuật đuợc bao lâu?
           Hẳn phải đã 6 hay 7 năm rồi từ khi cô thình lình đóng cửa doanh nghiệp, trả lại gia đình Katsuyama các họa phẩm cô đang nắm trong tay, và tuyên bố sẽ về Kyoto sống ẩn dật.
           Sau chiến tranh tôi bận rộn với việc dạy Anh ngữ và tôi ít có dịp hơn để nói chuyện lâu với Ichiko. Khi Ichiko bảo tôi cô sắp dọn về Kyoto thì Mẹ mới chỉ vừa mất truớc đó. Buồn phải chia tay nhau, Ichiko và tôi hàn huyên mãi sau lễ cúng 27 ngày mất của Mẹ.
           “Tại sao cô đóng cửa doanh nghiệp giữa lúc cô đang có một số khách hàng tốt thuờng xuyên và nhân viên đã rành nghề?” Tôi hỏi.
           Chúng tôi đang ở trong phòng có trưng bầy hình Mẹ. Khi cô ngồi đối diện tôi qua bàn, Ichiko rơi vào thói quen cũ là vén lớp ngoài của kimono đang che phủ hai đầu gối mập tròn và qua hàng mi liếc nguợc lên nhìn tôi.
           “Ừ, tôi cũng đã có suy nghĩ một chút, và nhận ra rằng, sau cùng đây là công việc của đàn ông. Nếu Katsuyama còn sống – cho dù ông có bị bại và nằm liệt giuờng – kinh doanh vẫn có thể tiếp tục đuợc. Nhưng không thể nào một phụ nữ đơn thân có thể đảm đuơng việc này.”
           “Hóa ra lại như vậy sao? Thật khó cho một nguời không kinh nghiệm như tôi hiểu đuợc nó thế nào.”
           Sau khi nói thế, tôi quay nhìn hình Mẹ và thuật lại cô nghe nhận xét của bà về tính cách của Katsuyama
           “Thật vậy sao? Bà nói thế quả là nguời hiểu biết. Dĩ nhiên bà đang nói về Cha….Đúng vậy, mẹ của tôi (bà mất sau khi Katsuyama bắt đầu bảo bọc Ichiko đuợc ít lâu) bảo tôi rằng khi Cha đem tôi về nhà chính, ông tạm thời gán bà cho một chủ tịch công ty thuơng mại muợn, để ông này chi trả phí tổn chiến dịch vận động của Cha. Giao dịch này có lẽ hơi đơn giản hơn kế hoạch của Katsuyama. Có thể tôi đã chịu một ông già hơn tôi nhiều mà không thấy phản cảm vì cách nào đó ông làm tôi nhớ đến Cha,”
           Ichiko thở dài thật sâu và nói, “Gần đây, tôi đi đến nhận định rằng mọi chuyện trên đời, đặc biệt là quan hệ nam nữ, giống như trò chơi bịt mắt bắt dê. Nguời đóng vai “nó”, con quỷ, bị khăn bịt kín mắt, không thể nhìn thấy gì. Các nguời khác vỗ tay trêu chọc, hấp dẫn nó, nhưng đuợc tự do chạy quanh ra xa nhờ vẫn có thể nhìn. Cho nên họ không bị nó tóm. Nhưng mỗi lần chơi đều có nguời bị tóm. Sai lầm là nghĩ rằng mình không thể bị tóm. Chị có nghĩ là số phận con nguời cũng giống vậy không? Chúng ta khoác lác rằng nó sẽ không tóm đuợc chúng ta. Nhưng chúng ta càng lớn tiếng khoác lác, thì chúng ta càng có nhiều nguy cơ bị tóm bởi con quỷ còn nguy hiểm hơn.”
           “Cô nói giống như đang nói về chính mình. Tại sao cô không kể tôi nghe cô đã trải qua những gì?” Tôi mớm lời. Nhưng Ichiko lắc đầu.
           “Chẳng có gì đặc biệt ..,” cô nói. “Ngay một nguời ngốc nghếch như tôi mà cũng cảm thấy giống như đang nói điều gì có vẻ triết lý sau khi đã sống ờ đời trên 40 năm. Có lẽ nó hình như buồn cuời đối với một nguời thông minh như chị.”
           “Tôi không thấy có chút buồn cuời nào cả. So với cô tôi giống như đứa trẻ với những nếp nhăn của trung niên trên mặt. Tôi thấy quan hệ của cô với ông Katsuyama thật lạ lùng hấp dẫn. Và chuyện cô đóng cửa doanh nghiệp, lui về ở ẩn tại Kyoto hình như cũng có cái gì đằng sau, thành thử tôi tò mò là tất nhiên.”
           “Biết mọi sự việc là phù hoa và rút lui khỏi thế gian….” Ichiko đọc lên một câu trong bài hát đàn lute nổi tiếng thời chúng tôi còn trẻ. “Có lẽ lúc nào đó tôi sẽ kể chị nghe,” cô nói. “Xin hãy đợi khoảng 10 năm.”
           Bí mật đằng sau chuyện Ichiko đóng cửa đại lý mỹ thuật hình như có liên quan đến một nguời đàn ông. Nhưng tôi không muốn tọc mạch, cho nên tôi đổi đề tài.
           Khoảng một tháng sau khi Ichiko đóng cửa cơ sở và dọn đi Kyoto, xác của Kenmochi Akira – một họa sĩ phong cách Nhật đang lên – bất ngờ đuợc phát hiện ở Núi Zao. Anh đã biến mất trên đuờng đến Ấn Độ để tham gia nhóm leo núi huớng tới Himalayas.
           Kenmochi khác thuờng trong số các họa sĩ đuơng thời ở chỗ anh không đuợc giáo dục cao. Một họa sĩ trẻ đã nổi lên từ vị thế tập nghề với Takatori Kanichi, tên anh chỉ gần đây mới đuợc biết đến trong giới mỹ thuật. Trong thế giới tranh Nhật nơi những khắt khe của hệ thống huấn nghệ vẫn còn tồn tại, quan hệ giữa Takatori và Kenmochi giống như chủ – tớ hơn là thầy – trò. Sau khi phấn đấu tiến lên trên con đuờng dài Kenmochi cuối cùng cũng bắt đầu đuợc công nhận theo giá trị của chính anh.
           Takatori chưa bao giờ đối xử đặc biệt với Kenmochi, nhưng ông bắt đầu chiếu cố đến anh sau khi thấy Ichiko chú ý đến tranh của Kenmochi và mời anh tới nhà cô. Takatori đã đạt địa vị ngày nay nhờ Katsuyama sinh thời tiên đoán phát triển mỹ thuật của ông và đã hỗ trợ tài chánh đáng kể. Takatori đã luôn luôn bị hấp dẫn bởi nữ tính sinh động của Ichiko. Nay thấy cô – một phụ nữ – đề cao Kenmochi, ông bắt đầu nghĩ rằng có thể khai thác vị thế là thầy của Kenmochi. Qua thăng tiến Kenmochi, Takatori có thể giúp Ichiko kinh doanh, và đồng thời chiếm hữu cô.
           Thích thú ban đầu của Ichiko đối với tranh Kenmochi không dựa trên hấp dẫn của Kenmochi như một đàn ông. Cho tới thời điểm đó, cô đã âm thầm thực hiện công việc của Katsuyama theo buớc của ông. Nhưng nay cô bị kích động thử nghiệm khả năng kinh doanh của chính mình qua họa sĩ trẻ Kenmochi mà tranh của anh có một vẻ khác lạ. Không giống họa phẩm của những nguời tốt nghiệp truờng mỹ thuật chính thức, tranh Kenmochi có tính chất hiếm hoi, bảo tồn những nét đơn sơ mộc mạc của nông dân vùng đông bắc Nhật Bản.
           Tất nhiên Kenmuchi không biết kế hoạch của Ichiko dùng anh như vật liệu để đầu cơ kinh doanh. Anh bị choáng ngợp bởi nét duyên dáng của một phụ nữ chín chắn, hơn anh 10 tuổi và đang ở đình cao của quyến rũ. Tuy nhiên khi Ichiko trở nên biết rõ anh hơn, cô liên tiếp ngạc nhiên truớc sự bộc trực đơn giản của Kenmochi, và tim cô vang vọng một xao động tăng dần. Ichiko cảm thấy hồn và xác mình trở nên trong suốt, minh bạch thấy rõ. Cô tự hỏi có phải đây là cảm nghiệm tình yêu.
           Ngay khi cô vừa 16, Ichiko đã bị quyến rũ bởi một bạn của anh tôi. Rồi sau đó, nét đẹp khêu gợi của cô đã khiến cô luôn luôn bị đàn ông theo đuổi, và cô đã dính líu xác thịt với vài nguời truớc khi trở thành tình nhân của Katsuyama. Như ông đã tiên liệu, ngay trong khi dùng cô như con mồi để kinh doanh, đã không xẩy ra đồn đại nào liên kết cô với đám nguời tụ tập ở nhà cô. Bỏ ngoài tai những gì nguời khác có thể đã nói về cô, Ichiko cảm thấy mình trơ trơ như một khúc cây trong một lãnh vực mà nguời ta thuờng giả định có thân mật thực sự giữa nam nữ. Cô nghĩ mình chỉ đơn giản không thích thú lắm loại chuyện đó. Thật ra cô đã quyết định có lẽ cô sẽ dành hết ngày giờ vào chăm lo kinh doanh và sống cuộc đời vui vẻ thích thú. Nhưng cô có thể bảo rằng, trong đam mê Kenmochi, cô đang bị mất quân bình. Về phuơng diện tình cảm, cô co rút lai trong lo sợ, nhưng thân xác cô lại cứ phóng tới truớc.
           Kenmuchi không thể không biết đến những tình cảm mê đắm cô dành cho anh, và chẳng bao lâu cả hai bị vuớng vào một cuộc tình. Kenmochi xử sự giống như một phụ nữ có chồng hoảng sợ, duới thời những ngày mà ngoại tình còn bị coi là phạm pháp. Anh sợ rằng Takatori sẽ phát hiện bí mật. Thái độ nhút nhát của Kenmochi đã làm Ichiko đang hứng khởi phải buồn bực đau khổ khôn nguôi.
           Thật vậy, Takatori rất tức giận khi đánh hơi đuợc sự thât. Ông nổi đóa và đe dọa sẽ lan truyền đồn thổi chuyện tai tiếng Ichiko, đại lý mỹ thuật, đã có kế hoạch đẩy nguời tình của mình vào giới mỹ thuật; ông sẽ dùng tai tiếng này để phá hoại hoàn toàn chỗ đứng của Kenmochi trong thế giới nghệ thuật. Kenmochi thề rằng, dù nếu anh có bị Takatori nói xấu và loại ra khỏi giới mỹ thuật, anh sẽ tìm cách khác để đuợc thừa nhận theo giá trị của chính anh miễn là anh vẫn đuợc nguời ta yêu thích. Nhưng Ichiko, lớn tuổi hơn, không thể chịu đựng thấy Kenmochi khổ sở bị chối bỏ như vậy.
           Để xoa dịu Takatori, Ichiko đành phải nhuợng bộ đòi hỏi xác thịt của ông. Vị thế bề trên hống hách của Takatori đổ sụp. Kenmochi đồng ý chấm dứt quan hệ với Ichiko, và còn đi xa hơn nữa quyết định gia nhập toán leo núi khởi hành đến Himalayas. Có lẽ ngắm cảnh hùng vĩ của những ngọn núi cao này anh chưa từng biết sẽ mở ra những chân trời mới trong tranh anh.
           Ichiko kiên quyết không tiếp tục quan hệ thân mật với Takatori. Cho nên cô quyết định đóng cửa doanh nghiệp và
dọn tới Kyoto. Cô hy vọng Kenmochi cũng xây dựng cuộc đời mới. Nhưng hy vọng của cô bị tan biến khi Kenmochi kết liễu đời mình trong đám tuyết núi tại quê huơng, không đuợc ngắm cảnh tuyệt vời của Himalayas tuyết phủ.
           Không ai biết bằng cách nào, sau khi chia tay bạn ở Singapore, Kenmochi đã tìm đuờng đến rặng núi đông bắc Nhật Bản. Thầy Takatori của anh giải thích với phóng viên rằng anh đã đối diện – và đây không phải lần đầu – bế tắc mỹ thuật vào một lúc khủng hoảng và hẳn phải đã sụp đổ tinh thần. Họ đã cùng nhau thận trọng không để lộ bí mật của cuộc tình tay ba. Vì thế mặc dù có đồn đại Kenmochi đã đau khổ thất vọng trong tình yêu với Ichiko, ngay cả tôi khi đó cũng không hiểu hoàn cảnh thực sự thế nào.
           Tôi đuợc nghe sự thật của câu chuyện từ Ichiko chỉ hai năm truớc đây khi tôi tới núi Koya để đặt tro tàn của Mẹ vào đền trong. Ichiko muốn đi theo và chúng tôi gặp nhau ở Osaka và cùng nhau hành huơng tới núi Koya.
           Đêm truớc khi chúng tôi vào đền trong, chúng tôi ngụ trong nhà khách tại một trong những đền trên núi. Ichiko lấy ra từ trong túi du lịch một hộp gỗ nhỏ không sơn phết và đặt lên kệ cạnh hộp đựng tàn tro của Mẹ.
           “Cô cũng tính dâng hiến tro?” tôi hỏi. “Của ai vậy?”
           Với vẻ mặt trang trọng, Ichiko nói, “Hôp đựng một hình và tro tàn của những bức thư đã đốt cháy của một họa sĩ tên là Kenmuchi – nguời đã tự tử cách đây sáu năm.”
           Rồi cô kể tôi nghe câu chuyện mà tôi đã thuật lại ở trên.
           Tôi sau cùng hiểu ra hoàn cảnh khiến Ichiko đã đóng cửa đại lý mỹ thuật và tới ẩn dật tại Kyoto.
           “Có những kinh doanh mà phụ nữ chỉ không thể thành công. Đại lý mỹ thuật dùng nguời như những con súc sắc. Khi vấn đề giữa nam nữ bị thẩy vào cuộc chơi, không chỗ nào để di chuyển,” Ichiko nói. “Lúc đó tôi muốn giết chết ham muốn của chính mình, để cho Kenmuchi có thể thành đạt. Thay vì thế, can thiệp vội vàng thiếu suy nghĩ của tôi đã giết chết anh. Tôi muốn theo anh và tự tử, nhưng nhiều năm trôi qua, tôi vẫn còn đây, sống nhăn. Tôi còn trở thành vợ của một tu sĩ và kiếm tiền, làm chủ nhà hàng… Thỉnh thoảng, khi tôi tự hỏi mình là cái qủy gì, tôi cảm thấy giống như một cái gì hoàn toàn không có thật, chỉ là một cái bóng. Không, dù cho tôi có sống bao nhiêu năm nữa, tôi sẽ không bao giờ yêu một nguời đàn ông khác. Tôi đã quyết định rằng, nếu chuyện ấy xẩy ra, thay vì gây đau khổ cho nguời, tôi sẽ là nguời phải chết,”
           Lúc đó một nụ cuời sâu sắc khắc họa trên khuôn mặt Ichiko, nụ cuời cho thấy cuơng quyết trộn lẫn đau buồn. Chỉ có nụ cuời của một phụ nữ đã buớc đi trên đuờng đời gần 50 năm mới có thể kết hợp đuợc những cảm xúc này.

           Hai năm đã trôi qua từ sau cuộc hành huơng của chúng tôi. Báo cáo gần đây xác nhận nhà hàng chay kiểu nhà Phật của Ichiko cạnh cổng chính của một ngôi đền ở Kyoto bán thức ăn ngon và giá cả hợp lý. Du khách từ Tokyo thuòng ghé ăn tại nhà hàng trên đuờng trở về từ Sambo-in. Ngôi đền thuộc Thiên Thai tông, và tu sĩ truởng, ông Kajita, là một nhà trí thức và cũng là diễn giả tại một đại học.
           Tôi biết Ichiko cảm thấy có tội trong cái chết của Kenmochi. Tuy nhiên, đôi khi nhớ lại tôi nghĩ rằng, qua nghe thuyết pháp của Kajita về Phật giáo và sáng chiều chuẩn bị thực phẩm chay kiểu nhà Phật, Ichiko theo thời gian già hơn có thể đi tới chỗ hiểu sâu xa hơn quan niệm của Phật giáo coi mọi thứ là phù phiếm. Nhưng đêm tháng Muời Một đó, khi điện thoại rung lên và tôi nghe tin Ichiko đã rời nhà, tôi cảm thấy lo xa. Tôi không thể cuời cách vô tư như Kinu đuợc.

           Tôi bị mất ngủ, và cả đêm bị quấy rầy bởi những mộng mị liên tiếp. Sau cùng, khi rạng đông chấm dứt đêm dài cuối thu, tôi hoàn toàn tỉnh giấc bởi chuông điện thoại trong hành lang. Kinu ở qua đêm và đã nhỏm dậy liền để bắt điện thoại. Tôi nghe u trả lời một hai câu, và rồi tôi nghe buớc chân chạy duới hành lang.
           “Bà ơi, bà dậy chưa?” Tôi nghe u nói giọng run run. “Điện thoại từ Kyoto. Cô Ichiko đã tự tử.”
           “Tôi hiểu…,” Tôi thở dài nói và nhỏm dậy. Giọng trong điện thoại không phải của Kajita. Đó là một giọng nam trẻ, rõ ràng.
           “Đây là con trai cả của Kajita,” Giọng nói bắt đầu. “Dì Ichiko đuợc tìm thấy chết trong một khe đá tại nơi gọi là Gyukudo, trong rặng núi bên ngoài Sanzen-in ở Kitayama, phía bắc Kyoto. Chưa có giảo nghiệm nhưng cảnh sát nói rằng có vẻ như tự tử bằng quá liều thuốc ngủ.”
           Giọng anh thanh niên hơi run run khi nói. Tự kiềm chế của anh sụp đổ lúc anh tới phần cuối của báo cáo. Khi tôi nhận ra điều này, đau thuơng của anh đâm nhói tim tôi.
           “Khi nào bà có thể tới?” anh hỏi, giọng nói đã lấy lại bình tĩnh.
           “Bằng xe lửa hôm nay – chậm lắm là chiều nay.”
           “Xin làm ơn đến. Cha nói ông muốn bà nhìn mặt dì truớc khi hỏa táng.”
           Sau khi gác điện thoại, tôi không thể nhúc nhích. Tôi đứng đó, chân trần trên sàn gỗ lạnh của hành lang.
           “Họ nói tự tử. Nhưng quỷ thật, tại sao….?”
           Kinu đã ngồi phịch suống sàn, hai cánh tay dang rộng, há hốc mồm nhìn tôi chăm chăm. Từng năm của tuổi u hiện rõ trong dáng ngồi, và khi tôi liếc nhìn điệu bộ như hề của u, tôi nhớ lại cảnh thời niên thiếu – ồn ào sống động của trò bịt mắt bắt dê. Khom lưng, hai tay dang rộng, trông giống Kinu, nguời bịt mắt là con quỷ đuổi bắt đám trẻ con đang vỗ tay, chạy ra xa khi trái khi phải. Kinu hẳn phải 13, 14 khi đuợc gửi tới để chơi trò này với chúng tôi. Nhất định hồi đó u là người mang khăn bịt mắt.
           Nhưng lúc này không phải hiện trạng bề ngoài của Kinu như con quỷ bịt mắt tôi đang nhớ lại. Mà chính là điều Ichiko đã nói với xúc cảm sâu xa khi chúng tôi hàn huyên tại căn nhà này truớc khi cô dọn đi Kyoto. Cô đã bảo rằng tất cả chúng ta đều bị tóm bởi số phận riêng của mỗi nguời, cũng giống như chúng ta đã bị tóm bởi con quỷ bịt mắt. Tuy nhiên cô đã không nói gì đến cuộc tình với Kenmochi. Lúc đó Ichiko không bao giờ muốn tới gần con quỷ lần nữa, và cô đã cầu nguyện cô sẽ không bao giờ có cuộc tình khác đầy u ám như thế. Có vẻ như rằng uớc muốn tha thiết của cô đã đuợc chấp thuận cho tới năm truớc năm ngoái, khi tôi gặp cô tại núi Koya. Bây giờ, biết đuợc Ichiko đã đột ngột kết liễu đời mình tôi chỉ có thể nghĩ rằng cô đã lại bị con quỷ mù tóm. Nhưng lần này nó đã hiện duới hình thức quấy rối nào?
           Tôi nhớ lại có lần gặp tại nhà của Ichiko ở Kyoto một thiếu niên trẻ đep là con trai cả của Kajita. Từ đó đến nay cũng đã 6 năm rồi, anh trai đó bây giờ hẳn là một sinh viên đại học. Phải chăng anh có thể là con quỷ mù đã dẫn dắt Ichiko đến cái chết? Nhớ lại giọng của anh trong điện thoại – thấp, rõ và run run dù đã kiềm chế, giống như rì rào của một dòng suối nhỏ – tôi đứng đó đóng băng trên sàn nhà.

Phạm đức Thân dịch

Nữ hoàng búp bê


__________________________

Carlos Fuentes (1928 – 2012) là nhà văn Mexico kiệt xuất, cùng với G. Garcia Marquez (Colombia) Mario Vargas Llosa (Peru) Julio Cortazar (Argentina) thập niên 1960 tạo nên “bùng nổ” văn học Mỹ Latin khiến thế giới chú ý, với văn phong hiện thực huyền diệu (magic realism) kết hợp hiện thực với huyễn tuởng, huyền thoại phong phú của Mỹ Latin. Ông viết truyện dài, truyện ngắn, kịch, bình luận và đồng thời là nhà báo, nhà ngoại giao, giáo sư đại học và nhận được nhiều giải văn học của Mỹ Latin. Tác phẩm nổi tiếng có thể kể: La muerte de Artemio Cruz (Cái Chết của Artemio Cruz), Terra Nostra (Đất Nuớc Chúng Ta). Ông đuợc coi là Balzac của Mexico, nhưng ông cũng chịu ảnh hưởng của M. de Cervantes, F. Dostoevsky, M. Proust, F. Kafka, J. Joyce, W. Faulkner…

Nữ Hoàng Búp Bê là truyện ngắn nhưng khó đọc vì chứa đựng nhiều đặc điểm của văn phong truyện dài của C. Fuentes. pha lẫn thực tại và huyễn tuởng, xáo trộn thời gian, độc thoại nội tâm, dòng ý thức, liên tiếp thay đổi cương vị thuật sự, nhiều sử dụng ngũ quan để miêu tả, đôi khi khác lạ bất ngờ (nhìn nhạc, nghe vị, sờ mùi…), chưa kể còn phúng dụ, ẩn dụ…Vd. Nữ Hoàng có thể tuợng trưng Nữ Thần Mặt Trăng (thần của sinh, yêu, chết) – tựa truyện là Nữ Hoàng Búp Bê, không phải Búp Bê Nữ Hoàng. Tên Amilamia do chữ lamia, là ma cà rồng nữ thường quyến rũ thanh niên để hút máu. Những Buổi Chiều trên Nông Trại (Afternoons on the Farm) làm liên tuởng tới Afternoon of a Faun của S. Mallarmé….

Câu chuyện có đủ cả mọi yếu tố huyền ảo, kinh dị, phỉnh gạt, hồi ức, điều tra trinh thám…buộc độc giả vào một chùm rối rắm và mong đợi thêm chi tiết. Cuối cùng độc giả thắc mắc tác giả có chủ ý gì đặc biệt hay là viết chỉ để độc giả suy nghĩ. Làm chủ đuợc văn phong và ngôn ngữ tác giả có tài xây dựng truyện hấp dẫn như là một tìm kiếm câu trả lời nhưng không bao giờ cho biết kết luận rõ ràng.



(Phạm đức Thân dịch từ bản Anh ngữ The Doll Queen của Margaret Sayers Peden.)

________________






          

Tặng Maria Pilar và José Donoso



                     I

Tôi đi vì cái thẻ đó – một thẻ lạ lùng làm sao – gợi nhớ đến hiện hữu của cô bé. Tôi tìm thấy nó trong một quyển sách bỏ quên mà những trang sách đã làm sống lại ám ảnh của viết chữ đẹp thời trẻ con. Lâu lắm rồi lần đầu tiên tôi thu xếp lại đống sách. Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, vì có quyển đặt trên kệ cao nhất, đã rất lâu không đọc. Lâu đến nỗi các cạnh của trang giấy như nổi hạt, và một trộn lẫn bụi vàng cùng vẩy cáu bẩn xám rơi trên lòng bàn tay tôi mở ra, làm nhớ đến nước sơn phủ bóng trên những thân hình thoáng thấy đầu tiên trong mộng và sau này trong hiện thực giả trang của trình diễn vũ kịch mà chúng tôi được xem lần đầu tiên. Đó là một quyển sách thời nhỏ của tôi – có lẽ thời nhỏ của nhiều đứa trẻ – liên quan ít nhiều đến một chuỗi những câu truyện điển hình hung bạo có đặc tính là xô đẩy chúng tôi vào lòng người lớn để hỏi đi hỏi lại: Tại sao? Những trẻ vô ơn cha mẹ; những thiếu nữ trinh trắng bị bắt cóc bởi những kỵ sĩ dũng cảm và trở về trong xấu hổ – cũng như những người vui vẻ từ bỏ tổ ấm gia đình; những người già, để đổi lấy chuyện tha cho món nợ quá hạn, đòi lấy cho đuợc cô gái đẹp nhất, chịu đau khổ lâu dài nhất của gia đình bị đe dọa..Tại sao? Tôi không nhớ được những câu trả lời. Tôi chỉ biết rằng từ những trang giấy hoen ố đã bay ra chiếc thẻ trắng với chữ viết xấu xí sai chính tả của Amilamia: Amilamia xẽ khôn quên bạn tốt của mìn – hãy den gặp tôi tai day nơi tôi vẽ nó.
           Và trên mặt kia của thẻ là phác họa một lối đi khởi từ dấu X, rõ ràng là cái ghế dài công viên nơi tôi, một thiếu niên chống lại cái giáo dục chán ngấy và áp đặt, đã quên thời khóa biểu lớp học để tiêu nhiều giờ vào đọc sách mà, nếu thật sự không do tôi viết, thì hình như có vẻ đúng là vậy: ai có thể ngờ rằng chỉ từ tưởng tượng của tôi đã nhảy ra nào những tay cướp biển, nào những người truyền tin của sa hoàng, nào những cậu trai nhỏ tuổi hơn tôi một tí mà đã trôi nổi cả ngày xuôi một con sông lớn ở Mỹ trên một chiếc bè. Nắm chặt cạnh ghế công viên như thể đó là cái mỏm truớc của yên ngựa huyền ảo, thoạt tiên tôi không nghe tiếng bước chân sau khi chạy xuống lối đi công viên lát sỏi đã khe khẽ ngưng lại phía sau tôi. Đó là Amilamia, và tôi không biết trong bao lâu em đã im lặng đánh bạn với tôi, nếu không có một chiều kia do thích tinh nghịch em đã chọn làm nhột tai tôi bằng cách lấy hoa bồ công anh thổi về phía tôi, môi tru ra và trán nhăn thành nếp.
           Em hỏi tên tôi, và sau khi coi đây như là chuyện rất nghiêm túc em nói tên mình kèm với mỉm cười nếu không thành thực thì cũng không có vẻ gì là đã quá luyện tập. Nhanh chóng tôi nhận thấy Amilamia đã khám phá ra, nếu chữ đó là đúng, một kiểu biểu thị nằm giữa chân thật ngây thơ của tuổi em và những hình thức bắt chước người lớn mà những trẻ được giáo dục đàng hoàng phải biết, đặc biệt là cho những lúc giới thiệu hoặc chia tay. Cái nghiêm túc của Amilamia đúng hơn là quà tặng của tự nhiên, trong khi những bộc phát nổi hứng của em, trái lại, hình như có vẻ giả tạo. Tôi thích nhớ lại em, chiều này qua chiều khác, trong một liên tiếp những hình ảnh gộp chung lại tổng kết thành một Amilamia đầy đủ trọn vẹn. Và tôi không thể ngừng ngạc nhiên thấy rằng tôi không tài nào nghĩ về em thực sự ra sao, hoặc nhớ lại em đã thực sự di chuyển thế nào – nhẹ nhàng, dò hỏi, luôn luôn nhìn chung quanh, Tôi đành phải nhớ em cố định vĩnh viễn trong thời gian, như trong một quyển album. Amilamia ở đằng xa, tại một điểm nơi ngọn đồi bắt đầu thoai thoải từ một hồ nước và cây cỏ ba lá, xuống cánh đồng phẳng nơi tôi đang ngồi quen đọc sách: một điểm chuyển đổi không ngừng của bóng cây và ánh nắng, và một bàn tay vẫy vẫy về phía tôi từ trên đồi cao. Amilamia ngưng đọng đông cứng trong khi bay xuống đồi, váy trắng căng phồng, quần trong vải hoa buộc vào cẳng bằng giải cao su, miệng mở, mắt nhắm ti hí để chống lại luồng không khí, em kêu lên thích thú. Amilamia ngồi dưới cây bạch đàn, giả vờ khóc để tôi phải lại gần. Amilamia nằm sấp tay cầm một bông hoa: những cánh hoa sau này tôi khám phá ra không trồng trong công viên mà tại đâu đó chỗ khác, có lẽ trong vườn nhà Amilamia, vì túi tạp dề xanh lam sọc vuông của em thường đầy những hoa trắng này. Amilamia quan sát tôi đọc, hai tay nắm vào thanh ghế xanh lục, dò hỏi bằng đôi mắt xám: tôi nhớ lại em không bao giờ hỏi tôi đang đọc gì, như thể em có thể thần đoán trong mắt tôi những hình ảnh xuất phát từ trang sách. Amilamia cười thích thú khi tôi nắm eo nhấc bổng em lên xoay quanh đầu tôi; em hình như khám phá ra một phối cảnh mới về thế giới trong khi bay vòng vòng chậm rãi. Amilamia quay lưng lại tôi và vẫy tay tạm biệt, cánh tay giơ cao, các ngón tay ngọ ngoạy phấn khích. Và Amilamia trong cả ngàn dáng điệu em thực hiện chung quanh chiếc ghế tôi ngồi, treo lộn ngược, quần thụng căng phồng, ngồi trên sỏi đá khoanh chân lại và cằm chống trên nắm tay; nằm ngửa trên cỏ, phơi rốn dưới mặt trời; đan dệt các nhánh cây, vẽ hình thú trên bùn bằng một cành cây, liếm những thanh ghế, trốn phía dưới ghế, tước vỏ đã hơi bong ra của thân cây cổ thụ, chăm chú ngó chân trời xa ngoài đồi, ầm ừ mắt nhắm lại, bắt chước tiếng chim, chó, mèo, gà mái, ngựa. Tất cả cho tôi và tuy nhiên không có gì hết. Chính cái cách thức em hiện hữu bên tôi, tất cả những điều này tôi nhớ, nhưng tôi cũng nhớ cả cách em một mình trong công viên. Phải, có lẽ ký ức của tôi về em rời rạc, chắp vá vì đọc sách xen kẽ với ngắm nhìn cô bé má bầu bĩnh, tóc mượt thay đổi trong phản chiếu của ánh sáng: khi thì màu lúa mì, khi thì mầu hạt dẻ nướng. Và chỉ hôm nay tôi mới nhận ra rằng tại thời điểm đó bằng cách nào đó Amilamia đã thiết lập nên một cái điểm khác hỗ trợ cho đời tôi, cái điểm đã tạo nên căng thẳng, giằng co giữa tuổi thơ ngập ngừng bất quyết và thế giới rộng lớn, miền đất hứa đang bắt đầu là của tôi qua đọc sách.
           Hồi đó không. Hồi đó tôi mơ tưởng về những phụ nữ trong sách, về một phụ nữ toàn hảo – chữ này đã làm phiền tôi, không hiểu thực sự nghĩa thế nào – đã cải trang thành Nữ Hoàng để bí mật mua cái vòng cổ, về những nhân vật tưởng tượng của huyền thoại – một nửa người nhận ra được, một nửa như kỳ nhông bụng ướt, ngực trắng – nằm đợi vua chúa trên giuờng. Và như vậy, dần dà không hề nhận ra, tôi đã chuyển từ thờ ơ lãnh đạm với cô bạn nhỏ thiếu thời sang chấp nhận cái duyên dáng và nghiêm túc của em, để rồi từ đó đi tới chối bỏ không ngờ một hiện diện đã trở nên không ích gì cho tôi. Cuối cùng em làm tôi bực mình, tôi 14 tuổi bực mình bởi cô bé 7 tuổi, chuyện này chưa thành ký ức hay hoài niệm, nhưng đúng hơn chỉ là quá khứ và hiện thực của nó. Tôi đã để mình bị lôi đi bởi yếu kém. Chúng tôi đã nắm tay nhau cùng chạy qua cánh đồng. Chúng tôi đã cùng nhau rung lắc những cây thông và nhặt những quả thông mà Amilamia ghen tỵ cất giữ trong túi tạp dề. Chúng tôi đã cùng nhau gấp giấy làm thuyền và vui tươi sung sướng dõi theo chúng tới tận rìa rãnh nuớc. và buổi chiều hôm đó, giữa la hét của hân hoan vui thích, khi chúng tôi cùng nhau ngã xuống đối và lăn tới chân đồi mới ngưng lại. Amilamia nằm trên ngực tôi, tóc em lọt giữa hai môi tôi; nhưng khi tôi cảm thấy em thở hổn hển vào tai tôi và cánh tay dính kẹo ôm quanh cổ tôi thì tôi giận dữ hất cánh tay em ra và để em ngã tiếp. Amilamia khóc, xoa xoa đầu gối và khuỷu tay xây xát, còn tôi trở lại ghế. Rồi Amilamia bỏ đi và hôm sau trở lại, đưa tôi cái thẻ không nói một lời, và ầm ừ, biến mất vào rừng cây. Tôi do dự không biết xé cái thẻ hay kẹp nó vào trang sách quyển: Những Buổi Chiều trên Nông Trại. Ngay cả đọc sách của tôi cũng trở nên trẻ con vì Amilamia. Em đã không trở lại công viên. Vài ngày sau đó tôi rời công viên đi nghỉ mát và khi trở về thì là lúc bận rộn bổn phận của năm đầu trường dự bị. Tôi không bao giờ gặp lại em.




                     II

Và bây giờ hầu như đã từ bỏ cái hình ảnh xa lạ không còn ảo tưởng, nhưng cảm thấy xót xa hơn bởi sao mà nó thực tiễn thế, tôi trở lại cái công viên đã quên, và đứng trước lùm cây thông và bạch đàn tôi nhận ra cái nhỏ hẹp của chu vi đám cây con lởm chởm mà ký ức của tôi khăng khăng vẽ ra thành độ lớn đủ chỗ cho tưởng tượng phình to rộng. Dẫu sao Michel Strogoff và Huckleberry Finn, Milady de Winter và Geneviève de Brabant đã sinh ra, sống và chết tại đây: trong một vườn nhỏ bao quanh bởi những đường ray sắt bám rêu, trồng thưa thớt những cây cổ lỗ bỏ hoang, chẳng tô điểm đẹp thêm bởi một chiếc ghế dài bằng xi măng sơn trông giống gỗ, buộc tôi phải nghĩ rằng cái ghế dài đẹp đẽ thanh sắt xanh lục chẳng bao giờ hiện hữu, hoặc chỉ là một phần của mê sảng hồi tưởng cho có trật tự đâu ra đấy.
Và ngọn đồi…Làm sao có thể tin rằng cái mỏm đất Amilamia lên và xuống khi tới và đi hàng ngày, cái dốc chúng tôi cùng nhau lăn xuống, lại là thế này. Một khu đất hơi cao những bụi cây sẫm mầu không cao hơn và dốc hơn cái mà ký ức tôi đã tạo ra.
           Hãy den gặp tôi tai day nơi tôi vẽ nó. Vậy thì tôi sẽ phải đi qua vườn, bỏ lại đằng sau rừng cây, xuống đồi qua ba bực dốc, xuyên qua khu nhỏ đám cây hạt dẻ – nhất định đây là chỗ em đã thu lượm những cánh hoa trắng – mở cánh cổng công viên kêu cót két và liền ngay đó nhớ lại…biết…thấy mình đang đứng truớc một con đường, nhận ra rằng mỗi chiều của thời niên thiếu, như thể nhờ phép lạ, tôi đã thành công làm ngưng đọng được nhịp thở của thành phố chung quanh, hư vô hóa luồng thủy triều âm thanh của tiếng còi, tiếng chuông, tiếng người, tiếng khóc, tiếng máy, tiếng radio, tiếng chửi thề. Đâu là cái hấp dẫn đích thực, công viên yên tĩnh hay thành phố sôi động?
           Tôi đợi cho đèn đường thay đổi, và băng qua phía bên kia, mắt không rời cái đèn hoa diên vĩ đỏ ngăn lại xe cộ. Tôi xem lại cái thẻ của Amilamia. Dẫu sao cái phác đồ thô sơ này là cái hấp dẫn đích thực của tôi đang sống lúc đó, và chỉ nghĩ đến nó làm tôi băn khuăn áy náy. Sau những buổi chiều mất mát của tuổi 14 tôi đã bắt buộc phải tuân theo kỷ luật; bây giờ tôi thấy mình, ở tuổi 29, được chứng nhận bằng cấp thích đáng đàng hoàng, làm chủ một văn phòng, lợi tức trung bình được bảo đảm, vẫn còn độc thân, không có gia đình để phải trợ cấp, hơi chán ngủ với những thư ký, hiếm khi sốt sắng thỉnh thoảng về quê hay ra biển, bỗng cảm thấy thiếu một cái gì hấp dẫn quan trọng như sách, công viên, và Amilamia đã từng một lần tôi có được. Tôi bước xuống đường của khu ngoại ô xám. Những nhà một tầng, khung cửa tróc sơn, nối tiếp nhau đơn điệu. m thanh yếu ớt của khu vực không phá vỡ tính đồng dạng chung: đây tiếng sè sè của thợ mài dao, kia tiếng gõ búa của người sửa giày. Trẻ em khu vực đang chơi đùa tại những đường cụt. Tiếng nhạc của người quay đàn hộp đi rong lọt vào tai tôi, hòa lẫn với tiếng trẻ ồn ào trong các hiệp chơi. Tôi ngừng một lát để xem chúng, với cảm giác thoáng qua rằng Amilamia hẳn phải trong số những nhóm trẻ này, thiếu ý tứ phô ra cái quần trong vải hoa, treo chỗ đầu gối trên một ban công nào đó, hãy còn thích trò nhào lộn, túi tạp dề đầy những cánh hoa trắng. Tôi mỉm cười và lần đầu tiên tôi có thể tưởng tượng cô thiếu nữ 22 tuổi, ngay nếu cô vẫn còn ở địa chỉ này, sẽ cười nhạo ký ức của tôi, hoặc có lẽ đã quên những buổi chiều ở công viên.
           Căn nhà giống hệt như những căn nhà khác. Cửa vào nặng dầy, hai cửa sổ chấn song với các cánh cửa sổ đóng kín. Một căn nhà một tầng, phía trên có bao lơn xây giả kiểu tân cổ điển có thể che dấu những sự kiện thực tế của sân thượng: quần áo treo trên giây, những thùng nước, chỗ ờ của người làm, lồng gà. Trước khi tôi rung chuông, tôi muốn rũ bỏ bất cứ ảo tưởng nào. Amilamia không còn sống ở đây. Tại sao em lại ở 15 năm trong cùng một căn nhà? Hơn nữa, mặc dù em cô đơn và độc lập sớm, em hình như là một trẻ được nuôi dạy đàng hoàng, có tư cách tốt, và khu vực này thì không còn khang trang; nhất định là cha mẹ Amilamia đã chuyển đi nơi khác. Nhưng người ở mới có lẽ biết họ ở đâu.
           Tôi rung chuông và đợi. Tôi rung lần nữa. Đây là một chuyện bất ngờ khác: không có ai ở nhà. Và tôi có nên cảm thấy cần phải xem lại chuyện tìm cô bạn thiếu thời không? Không. Vì sẽ không xẩy ra lần thứ hai chuyện tôi mở quyển sách thời nhỏ và tìm thấy cái thẻ của Amilimia. Tôi sẽ quay trở lại cái thường ngày của mình, Tôi sẽ quên đi cái khoảnh khắc mà quan trọng của nó nằm ở chỗ là một ngạc nhiên thoáng qua bất ngờ.
           Tôi rung chuông một lần nữa. Tôi áp tai vào cửa và tôi giật mình: tôi có thể nghe tiếng thở không đều, khò khè phía bên kia cửa; âm thanh của thở khó nhọc, kèm theo mùi khó chịu của thuốc lá mốc, lọt qua khe cửa
           “Chào ông. Xin ông làm ơn cho biết…?”
           Khi ông ta nghe tiếng tôi, người đàn ông lùi xa, bước chân nặng nề chập choạng. Tôi lại rung chuông và lần này la to: “Hê! Mở cửa! Chuyện gì vậy? Nghe tôi nói không?”
           Không có trả lời. Tôi tiếp tục rung chuông, nhưng không kết quả. Tôi lùi lại khỏi cửa, vẫn còn ngó chăm chăm vào cái khe cửa bé tí, như thể khoảng cách có thể cho tôi nhìn rõ phối cảnh, hoặc ngay cả xuyên thủng. Chú ý chăm chăm vào cái cửa chết tiệt, tôi đã lùi lại xuống tới lòng đưởng. Một tiếng thét lớn, theo sau là một tiếng còi giận dữ kéo dài đã cứu tôi kịp thời. Choáng váng tôi tìm người đã vừa kêu lên cứu tôi. Tôi chỉ thấy chiếc xe hơi đang chạy xuôi trên đường, và tôi bám vào cái trụ đèn, còn hơn cả an toàn, đã hỗ trợ tôi trong khi máu lạnh cóng chạy ào qua da nóng bừng toát mồ hôi, Tôi nhìn về phía cái nhà đã từng là, đã là, hẳn phải là nhà của Amilamia. Kia, đằng sau cái bao lơn, như tôi đã biết trước sẽ có, quần áo treo phơi khô đang bay phấp phới. Tôi không biết có gì khác treo ở đó – váy, đồ ngủ, áo bờ lu – tôi không biết. Tất cả gì tôi thấy là cái tạp dề nhỏ xanh lam sọc vuông hồ cứng, kẹp bằng mấy cái kẹp áo vào sợi dây dài đong đưa giữa một song sắt và một đinh ở tường trắng của sân thuợng.




III

Trong Phòng Hồ Sơ tôi được bảo chủ tài sản tên là R. Valdivia, người cho mướn căn nhà. Cho ai mướn? Họ không biết. Valdivia là ai? Ông ta khai trên giấy tờ là doanh nhân. Ông hiện sống ở đâu? Anh là ai? người phụ nữ trẻ tò mò cao giọng hỏi tôi. Tôi đã không thể giữ bình tĩnh và tự tin. Giấc ngủ đã không làm giảm mệt mỏi căng thẳng. Valdivia. Khi tôi rời văn phòng, mặt trời làm tôi khó chịu. Tôi liên kết cái ác cảm gây ra bởi mặt trời nóng bốc hơi đang rọi chiếu qua mây – như thế càng làm cho mạnh hơn – với ham muốn trở về cái công viên râm mát, ẩm thấp. Không. Chính chỉ là cái khao khát muốn biết Amilamia có còn sống trong căn nhà đó không và tại sao họ không cho tôi vào. Nhưng tôi phải từ bỏ cái ý tưởng phi lý làm tôi thức suốt đêm. Đã nhìn thấy cái tạp dề phơi trên sân thượng, cái tạp dề em dùng để giữ hoa, tôi bắt đầu tin rằng trong căn nhà đó có sống cô bé 7 tuổi tôi đã biết 14, 15 năm trước..Cô hẳn phải có con gái nhỏ! Phải. Amilamia ở tuổi 22 là mẹ một em bé có lẽ cũng ăn mặc như mẹ, trông giống như mẹ, lập lại các trò chơi như mẹ, và – ai biết đấy – có thể ngay cả cũng tới cùng cái công viên. Chìm trong suy nghĩ, tôi một lần nữa lại đã tới cửa căn nhà. Tôi rung chuông và chờ đợi tiếng thở nặng nhọc bên kia cửa. Tôi đã lầm. Cửa mở ra bởi một phụ nữ, không thể nào quá 50. Nhưng quấn trong một khăn choàng, mặc đồ đen và giày thấp đen, không trang điểm và tóc muối tiêu thắt nút thành búi, bà hình như đã chối bỏ mọi ảo tuởng hay bề ngoài của tuổi trẻ. Bà quan sát tôi bằng cặp mắt lãnh đạm đến độ gần như độc ác.
           “Cậu muốn gì?”
           “Ông Valdivia phái tôi đến.” Tôi ho và tay đưa lên luồn vào tóc. Tôi lẽ ra nên cầm theo cái cặp ở sở. Tôi nhận ra rằng không có nó tôi không thể thủ vai thật giỏi được.
           “Valdivia?” bà ta hỏi không ngạc nhiên, không quan tâm.
           “Phải. Chủ căn nhà này.”
           Một điều rõ ràng. Nguời đàn bà không để lộ gì trên nét mặt. Bà nhìn tôi, hờ hững.
           “Ờ, phải. Chủ căn nhà,”
           “Tôi vào được không?”
           Trong những hài kịch rẻ tiền, tôi nghĩ, người chào hàng rong thường thò một chân vào trong chẹn cửa để thiên hạ không thể đóng cửa vào mặt mình. Tôi cũng làm vậy, nhưng người đàn bà đã bước lui lại và lấy tay ra hiệu mời tôi vào cái có thể là nhà xe. Một cạnh nhà là cánh cửa gắn ô kính, sơn đã nhạt màu. Tôi bước về phía cửa qua lối đi lát ngói vàng và quay về phía người đàn bà đang bước những bước ngắn theo sau, hỏi lại: “Lối này?”
           Tôi chú ý lần đầu tiên, trong bàn tay nhợt nhạt, bà cầm một chuỗi hạt và không ngừng mân mê. Từ hồi nhỏ tôi đã chưa từng thấy một chuỗi hạt cổ lỗ nào như vầy và tôi muốn nói điều này, nhưng thái độ thiếu lịch sự thẳng thừng của bà khi mở cửa làm tôi không muốn cho không, bắt chuyện. Chúng tôi vào một phòng dài hẹp. Người đàn bà mau chóng mở toang các cánh cửa sổ. Nhưng do bốn cái chậu sứ bao kính trồng những cây vạn niên nên căn phòng vẫn chìm trong bóng tối. Đồ vật khác duy nhất trong phòng là một sofa bằng mây với lưng ghế cao và một ghế bập bênh. Nhưng cây trồng và đồ đạc thưa thớt chẳng phải là những thứ tôi chù ý.
           Người đàn bà bảo tôi ngồi xuống sofa rồi bà ngồi vào chiếc ghế bập bênh. Cạnh tôi trên tay ghế mở ngỏ một sách giống như tạp chí.
           “Ông Valdivia gửi lời xin lỗi vì đã không đích thân đến,”
           Nguời đàn bà đong đưa ghế, mắt không chớp. Qua khóe mắt tôi liếc nhìn quyển sách khôi hài.
           “Ông gửi lời thăm hỏi và…”
           Tôi ngừng chờ đợi phản ứng của người phụ nữ. Bà tiếp tục đong đưa ghế.
           Sách tạp chí viết nguệch ngoạc những chữ đỏ.
           “…và bảo tôi tin bà biết rằng ông sẽ phải làm phiền bà trong vài ngày…”
           Mắt tôi nhanh chóng lục lọi căn phòng.
           “…Cần phải lượng giá lại căn nhà để tính thuế. Hình như việc này đã không được làm trong…Bà đã sống ở đây từ…”
           Phải. Đó là một thỏi son ngắn nằm dưới ghế. Nếu người đàn bà mỉm cười thì đó là trong khi tay bà vẫn chậm rãi mân mê chuỗi hạt. Tôi thoáng cảm thấy một ánh diễu cợt không làm hiện chút khó chịu nào trên mặt bà. Bà vẫn không trả lời.
           “…từ ít nhất 15 năm, đúng không?”
           Bà không thừa nhận. Bà không bác bỏ. Và trên cặp môi mỏng nhợt nhạt không có chút son nào.
           “…Bà, chồng bà, và…?”
           Bà ngó chăm chăm tôi, không hề thay đổi nét mặt, hầu như thách thức tôi tiếp tục. Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc, bà mân mê chuỗi hạt, tôi dợm người tới truớc, tay đặt trên đầu gối, đứng dậy.
           “Thôi được, chiều nay tôi sẽ trở lại với các giấy tờ…”
           Người đàn bà gật đầu và lặng lẽ nhặt thỏi son và sách khôi hài, dấu chúng trong khăn choàng..





                     IV

Quang cảnh không thay đổi. Chiều nay trong khi tôi viết những con số giả mạo vào quyển sổ và giả vờ chú ý đến lượng định giá trị cái sàn gỗ xám xịt và chiều dài phòng khách, người đàn bà đong đưa ghế, ba thập niên của chuỗi hạt thì thầm qua những ngón tay bà. Tôi thở phào khi hoàn tất cái giả định là kiểm kê của phòng khách và xin phép xem phần còn lại của căn nhà. Người đàn bà vừa nhỏm dậy vừa tựa cánh tay áo đen dài xuống mặt ghế, sửa lại khăn choàng trên đôi vai nhỏ gầy guộc.
           Bà mở cánh cửa thủy tinh mờ và chúng tôi bước vào phòng ăn có thêm rất ít đồ đạc. Nhưng cái bàn có chân bằng nhôm và bốn ghế dựa bằng nhôm với nhựa, chẳng cho thấy chúng phân biệt gì với đồ đạc phòng khách. Cửa sổ khác, với chấn song sắt và cánh cửa sổ đóng kín, hẳn đôi khi được mở ra làm sáng phòng ăn với các bức tường trống trơn, và không có kệ hoặc tủ bát đĩa. Vật duy nhất trên bàn là một đĩa nhựa đựng trái cây gồm một chùm nho đen, hai quả đào, với đám ruồi vo ve phía trên. Người phụ nữ, khoanh tay, mặt không chút biểu lộ, ngừng lại sau tôi. Tôi mạo hiểm phá vỡ cái trật tự của sự việc: rõ ràng những phòng này sẽ không cho tôi biết điều thực sự tôi muốn biết.
           “Chúng ta có thể lên sân thượng được không?” Tôi hỏi. “Đó có thể là cách tốt nhất để đo lường toàn khu vực.”
           Cặp mắt người đàn bà sáng lên khi bà nhìn tôi, hoặc có lẽ chỉ là do tương phản với tối tăm của phòng ăn,
           “Để làm gì?” sau cùng bà nói. “Ông…Valdivia…biết kích thước rất rõ.”
           Những ngập ngừng này, truớc và sau tên chủ nhà, là chỉ dấu cho thấy có cái gì đó sau củng đã bắt đầu làm phiền bà, buộc bà để tự vệ phải dựa vào một kiểu diễu nhại nào đó.
           “Tôi không biết,” tôi cố cười gượng. “Có lẽ tôi thích đi từ trên xuống dưới và không phải” – nụ cười gỉa tạo của tôi biến mất – “từ dưới lên trên”
           “Cậu sẽ đi theo cách tôi chỉ cậu.” người đàn bà nói, cánh tay khoanh truớc ngực, cây thánh giá bạc đong đưa chỗ áo đen truớc bụng.
           Truớc khi mỉm cười yếu ớt, tôi tự bắt mình phải nhận thức rằng trong bóng tối này, điệu bộ cử chỉ của tôi vô dụng, ngay cả chỉ tượng trưng cũng không. Tôi mở quyển sổ, bìa cứng kêu sột soạt, và tiếp tục ghi chú thật nhanh, không hề ngó lên, viết xuống những con số và lượng giá cho một công việc mà tính hư cấu của nó – má tôi hơi đỏ và lưỡi khô khốc bảo tôi – đang chẳng đánh lừa được ai, Và khi tôi phủ đầy tờ phác đồ với những con số phi lý, những căn bậc hai và công thức đại số, tôi tự hỏi cái gì đã khiến tôi không đi thẳng vào đề, không hỏi về Amilamia và ra khỏi đây với một trả lời thỏa mãn. Không có gì cả. Tuy nhiên tôi chắc chắn, ngay dù tôi có câu trả lời, tôi sẽ không biết được sự thật. Người đồng hành với tôi nhỏ thó, im lặng là người tôi sẽ không nhìn lần thứ hai khi gặp ngoài đường, nhưng trong căn nhà hầu như không ai ở với đồ đạc thưa thớt, bà không còn là một khuôn mặt vô danh trong đám đông và biến thành một nhân vật bí hiểm trong các truyện muôn thuở cũ mèm. Nghịch lý là ở chỗ đó, và nếu ký ức về Amilamia đã có lần được khơi dậy lại bởi ham thích tưởng tượng của tôi, tôi sẽ theo đúng luật chơi. Tôi sẽ đào tận gốc mọi vẻ bên ngoài, và không ngừng nghỉ cho tới khi có được câu trả lời – có lẽ đơn giản và rõ ràng, trực tiếp và hiển nhiên – nằm ngoài những che đậy mà bà có chuỗi hạt bất ngờ đưa ra cản đường. Tôi có ban khống cho người chủ miễn cưỡng một ngạc nhiên lạ lùng nào không? Nếu có, tôi sẽ chỉ thích thú hơn trong những mê cung chính tôi nghĩ ra. Và các con ruồi vẫn đang vo ve trên đĩa trái cây, thỉnh thoảng đậu xuống chỗ bị hao hụt của trái đào, một miếng cắn nhỏ – lấy cớ phải ghi chú tôi nghiêng người gần hơn – chỗ răng nhỏ đã để lại vết cắn trên vỏ mịn và thịt trái đào. Tôi không nhìn về phía bà. Tôi giả vờ đang ghi chú. Trái cây hình như bị cắn, không cần phải cầm lên. Tôi khom người xuống để nhìn rõ hơn, đặt hai tay trên bàn, đưa môi gần hơn như thể muốn tái diễn hành động cắn đào mà không cần phải cầm nó. Tôi nhìn xuống và thấy dấu hiệu khác gần chân tôi: vết xe của hai lốp cao su trông như của xe đạp, vết in của hai lốp kéo dài tới cạnh bàn và rời đi, nhạt dần theo chiều dài căn phòng, về phía bà ….
           Tôi gấp quyển sổ lại
           “Thưa bà, chúng ta tiếp tục.”
           Khi tôi quay về phía bà, tôi thấy bà đứng hai tay chống trên lưng một ghế dựa. Ngồi truớc bà, ho vì khói thuốc lá đen, là một ông to con vai rộng và cặp mắt như bị che dấu mất: cặp mắt này, hầu như không nhìn thấy sau mí mắt phồng to nhăn nhúm, dày và rủ xuống như cổ con rùa lâu đời, tuy nhiên đang theo dõi mọi cử chỉ của tôi. Má cạo không sạch, ngang dọc cả ngàn nếp nhăn xám, trũng xuống từ xương gò má nhô cao, bàn tay hơi xanh lục gấp lại dưới cánh tay. Ông mặc áo sơ mi vải thô xanh lam, mái tóc rối quăn tít trông như đáy con tàu bám đầy sò nhỏ. Ông không cử động, dấu hiệu duy nhất hiện diện của ông là thở khó khăn như rít lên mà tôi đã từng nghe qua khe hở của cửa căn nhà (như thể mỗi hơi thở phải phá vỡ cửa chặn của đờm, khó chịu và lạm dụng thuốc lá).
           Lạ thật, ông lẩm bẩm: “Chào cậu…” và tôi bỗng sẵn sàng quên hết mọi sự: cái bí mật, Amilamia, chuyện lượng giá, dấu vết lốp xe đạp. Xuất hiện của con gấu già hen suyễn này biện minh cho một rút lui nhanh chóng. Tôi đáp lại “Chào ông,” giọng điệu cho thấy tôi đang chào từ giã. Mặt nạ con rùa chuyển thành nụ cười xấu xí: mỗi lỗ chân lông của thịt hình như làm bằng cao su giòn dễ vỡ, bằng vải dầu với sơn đang tróc ra. Cánh tay vươn ra ngăn tôi lại.
           “Valdivia chết cách đây bốn năm,” người đàn ông nói giọng tắc nghẹn, xa vắng phát xuất từ bụng hơn là từ thanh quản: một giọng cao, rít lên yếu ớt.
           Bị nắm chặt mạnh, hầu như đau đớn, tôi tự nhủ giả vờ chẳng ích lợi gì. Nhưng khuôn mặt cao su như sáp đang quan sát tôi không nói gì, và vì thế, mặc dù mọi sự, tôi còn có thể giả vờ một lần nữa, giả vờ như đang tự bảo với mình khi tôi nói: “Amilamia…”
           Phải; không ai phải giả vờ nữa. Nắm tay chụp cánh tay tôi chỉ trong thoáng chốc cho thấy sức mạnh của nó, liền nơi lỏng ngay kìm kẹp, rồi thõng xuống, yếu ớt và run rẩy, truớc khi nhấc lên lại, đưa bàn tay như sáp lên vai ông: người đàn bà, thoạt tiên bối rối, giờ nhìn tôi bằng cặp mắt của con chim bị thuơng và rên lên khô khan, sụt sùi nhưng không làm đổi chút nào vẻ mặt kinh ngạc cứng đờ. Đột nhiên hai người độc ác trong tưởng tượng của tôi lại là hai người già cô đơn, bị bỏ mặc, bị thuơng tổn, hầu như không thể tự an ủi, và cái siết tay rùng mình này đã làm tôi thật xấu hổ. Mơ tưởng quái dị đã đưa tôi tới cái phòng ăn cứng đơ này để xâm phạm riêng tư và bí mật của hai con người lưu đầy khỏi đời sống bởi một cái gì đó tôi không có quyền được chia sẻ. Tôi chưa bao giờ tự khinh mình nhiều như vầy. Chưa bao giờ tôi thấy lời nói của mình lại thất bại vụng về như vầy. Cử chỉ nào của tôi cũng sẽ vô ích: nên chăng tôi lại gần hơn, chạm vào họ, vuốt ve đầu người đàn bà, và xin họ tha thứ cho chuyện xâm nhập của tôi? Tôi nhét quyển sổ vào túi áo jacket, Tôi vứt bỏ vào quên lãng những đầu mối trong câu truyện trinh thám của tôi: sách khôi hài, thỏi son, trái cây bị cắn, những vết lốp xe đạp, cái tạp dề xanh lục sọc vuông…tôi quyết định rời căn nhà không nói gì thêm. Ông già, từ sau cặp mí mắt dày hẳn đã chú ý thấy thế.
           Giọng cao khó thở hỏi: “Cậu đã có biết nó?”
           Thì quá khứ, tự nhiên thôi, quen sử dụng bởi họ hàng ngày, sau cùng đập tan ảo tưởng của tôi. Câu trả lời là đây. Cậu đã có biết nó? Đã bao lâu? Đã bao lâu thế giới sống không có Amilamia, bị ám sát thoạt tiên bởi quên lãng của tôi, và rồi sống lại, hầu như từ hôm qua, bởi một ký ức u buồn, bất lực? Từ khi nào đôi mắt xám nghiêm túc này đã thôi ngạc nhiên bởi hân hoan truớc một vườn luôn luôn hiu quạnh? Từ khi nào đôi môi này đã thôi tru ra hay mím lại trong cái vẻ nghiêm túc kiểu cách mà, bây giờ tôi mới nhận ra, Amilimia hẳn phải đã khám phá và thánh hóa vật dụng và biến chuyển của một cuộc đời mà có lẽ em trực giác là mong manh thoáng qua?
           “Vâng, chúng tôi đã cùng nhau chơi đùa ở công viên. Cách đây lâu lắm rồi.”
           “Khi đó nó mấy tuổi?” ông già nói, giọng còn bị tắc nghẹt hơn truớc.
           “Em hẳn phải 7 tuổi. Không, già hơn thế.”
           Người đàn bà cao giọng khi bà dơ tay lên như thể nài nỉ: “Nó trông thế nào, cậu.? Làm ơn cho chúng tôi biết nó trông thế nào?”
           Tôi nhắm mắt lại. “Amilamia cũng là một ký ức của tôi. Tôi chỉ có thể hình dung em qua những vật em đã chạm vào, những vật em đã mang lại, những gì em đã khám phá trong công viên. Phải. Bây giờ tôi thấy em, đi xuống ngọn đồi. Không. Bảo đó là khu chẳng cao mấy với những gốc cây con lởm chởm là không đúng. Đó là một ngọn đồi, có cỏ, và Amilamia đến và đi đã vạch thành một lối mòn, và em đã vẫy tay chào tôi trên đỉnh đồi truớc khi bắt đầu xuống, kèm theo có nhạc, phải, nhạc tôi đã nhìn thấy, sơn tôi đã ngửi thấy, vị tôi đã nghe thấy, mùi tôi đã sờ thấy…huyễn tưởng của tôi…” Họ có nghe tôi nói không? “Em đi xuống vẫy tay, mặc đồ trắng, trong tạp dề xanh lam sọc vuông…cái tạp dề ông bà đang treo trên sân thượng…”
           Họ nắm cánh tay tôi và tôi vẫn không mở mắt.
           “Nó trông sao, cậu/”
           “Mắt em xám và mầu tóc thay đổi trong phản chiếu của mặt trời và bóng cây…”
           Họ nhẹ nhàng dắt tôi đi, cả hai người. Tôi nghe tiếng thở nặng nhọc của người đàn ông, và tiếng va chạm của cây thánh giá chuỗi hạt vào thân người đàn bà.
           “Làm ơn cho chúng tôi biết…”
           “Không khí đã làm em chảy nước mắt khi em chạy; lúc em tới ghế tôi ngồi, má em long lanh bạc những giọt lệ vui sướng…”
           Tôi vẫn không mở mắt. Bây giờ chúng tôi đang đi lên cầu thang. Hai, năm, tám, chín, mười hai bậc. Bốn bàn tay dẫn dắt người tôi.
           “Nó trông sao, nó trông sao?”
           “Em đã ngồi dưới cây bạch đàn, và bện cành cây thành vòng hoa lá, và giả vờ khóc khiến tôi phải ngừng đọc để tới em…”
           Bản lề cửa kêu cọt kẹt. Mùi tỏa ra đánh bạt mọi thứ: nó làm tán loạn các giác quan khác, nó ngự trị như người Mông Cổ da vàng trên ngôi báu trong huyễn tưởng của tôi; nặng nề như quan tài, luồn lách như trơn trượt của lụa rủ, tô điểm chạm trổ như cây trượng Thổ Nhĩ Kỳ, tối mờ như mạch quặng sâu hun hút, chói sáng như ngôi sao chết. Mấy bàn tay không còn giữ tôi. Hơn cả sụt sùi, đó là run rẩy của người già đang bao phủ quanh tôi.
           Từ từ tôi mở mắt: truớc hết còn choáng váng qua giác mạc ươn ướt, rối qua mạng mi mắt, nhìn thấy căn phòng ngộp thở trong trận chiến khổng lồ giữa các hương thơm, nồng nặc và mờ đục, những cánh hoa hầu như giống da thịt; hiện diện của hoa mạnh đến nỗi ở đây chúng hình như mang tính chất của da thịt sống – ngọt ngào của hoa nhài, nôn nao của hoa huệ trắng, hoa loa kèn của huyệt mộ, hoa dành dành của đền đài. Chiếu sáng qua môi sáp sáng chói của những ngon nến to cháy xèo xèo, phòng ngủ nhỏ không cửa sổ với hào quang của sáp và hoa ẩm thấp, tấn công vào ngay trung tâm mạng lưới thần kinh của tôi và từ đó, chỉ ở đan điền, trung tâm thần kinh của cuộc sống, tôi mới có thể tỉnh trí lại và nhận biết ngoài các cây nến, giữa những hoa rải rác, là cơ man đồ chơi cũ: các vòng đủ mầu sắc và những quả bóng nhăn nhúm thiếu hơi, anh đào khô trong, ngựa gỗ bờm trông thô không đều, xe máy, búp bê mù không tóc, gấu nhồi lòi cả mạt cưa, vịt bằng vải dầu bị chọc thủng, chó bị mối mọt, dây nhảy mòn bung cả sợi, lọ thủy tinh đựng kẹo khô khốc, giầy cũ mòn sờn, xe ba bánh (có ba bánh? không, hai, và không phải là bánh của xe đạp hai bánh – cặp bánh song song phía dưới), giầy nhỏ bằng da với len; và, đối diện tôi, trong tầm tay, cái quan tài nhỏ đặt trên những thùng xanh lam trang trí với hoa giấy, lần này hoa của đời sống, cẩm chướng và hướng dương, anh túc và tu líp, nhưng giống như những hoa khác, hoa của sự chết, tất cả gom thành một sưu tập góp nhặt tạo bởi bầu khí của cái nhà quàn nóng nực trong đó, an nghỉ giữa quan tài bằng bạc, giữa những tấm lụa đen, trên gối satin trắng, khuôn mặt bất động điềm tĩnh được viền quanh bởi đăng ten, nổi bật nhờ các sắc mầu hồng, lông mày kẻ bằng bút chì lợt nét, mi mắt khép, lông mi thật, dày, hắt bóng mảnh mai trên đôi má khỏe mạnh như ngày nào ở công viên. Đôi môi đỏ nghiêm túc, tạc dưới dạng hầu như trề ra giận dữ mà Amilamia giả vờ để cho tôi phải đến chơi. Tay khoanh vào nhau truớc ngực, Một chuỗi hạt, giống của mẹ em, quấn quanh cổ bằng sáp. Vải liệm trắng nhỏ phủ trên thân hình dễ thuơng, sạch sẽ, của tuổi truớc dậy thì.
           Hai người già đang quỳ gối sụt sùi.
           Tôi vươn tay ra và lướt ngón tay trên khuôn mặt bằng gốm của cô bạn nhỏ. Tôi cảm thấy cái lạnh của những nét sơn phết này, cái lạnh của nữ hoàng búp bê chủ trì cái phù hoa hoành tráng của phòng chết hoàng gia. Gốm, sáp, vải. Amilamia xẽ khôn quên ban tốt của mìn – hãy den gặp tôi tai day nơi tôi vẽ nó.
           Tôi rút ngón tay khỏi cái xác giả mạo. Dấu vết của vân tay lưu lại chỗ tôi sờ vào da búp bê.
           Và một nôn nao bò vào dạ dày nơi khói nến và mùi hơi khó ngửi của hoa huệ trắng trong căn phòng đóng kín đã đến tụ ở đó. Tôi quay lưng về phía mộ Amilamia. Tay người phụ nữ nắm cánh tay tôi. Cặp mắt chăm chăm ngây dại không có vẻ gì liên hệ với giọng đều đều bình tĩnh nói khẽ.
           “Đừng trở lại, cậu. Nếu cậu thực yêu nó, đừng trở lại nữa,”
           Tôi cầm tay mẹ Amilamia. Tôi nhìn qua đôi mắt choáng váng, thấy đầu ông già đang chôn giữa hai đầu gối, và tôi ra khỏi phòng, tới cầu thang, tới phòng khách, tới sân trong, tới ngoài đường.




                     V

Nếu không phải một năm thì chín hay mười tháng đã trôi qua. Hồi ức về cái sùng bái ngẫu tượng đó không còn làm tôi sợ. Tôi đã quên mùi hoa và hình ảnh của búp bê hóa thạch. Amilamia người thật đã trở lại trong ký ức tôi và tôi cảm thấy, nếu không phải là hài lòng, lành mạnh trở lại: công viên, cô bé sinh động, những giờ đọc sách thời niên thiếu, đã thắng những ám ảnh của một sùng bái bệnh hoạn. hình ảnh cuộc sống có sức mạnh hơn. Tôi tự nhủ sẽ sống mãi với Amilamia đích thực của tôi, kẻ chiến thắng cái hoạt kê của sự chết. Và một hôm tôi dám ngó lại cái quyển sổ ghi chú với tờ phác đồ, trên đó tôi viết những dữ kiện của một lượng giá giả mạo. Và từ những trang này, lần nữa, thẻ của Amilamia lại rơi ra, với chữ viết nguệch ngoạc trẻ con kinh khủng, và cái phác đồ từ công viên đến nhà em. Tôi mỉm cười khi nhặt nó lên. Tôi cắn một cạnh thẻ, nghĩ rằng, mặc dù mọi chuyện, hai người già tội nghiệp có thể chấp nhận món quà này.
           Tôi vừa huýt sáo vừa mặc jacket và vuốt thẳng cà vạt. Tại sao không tới gặp họ và tặng cái thẻ này có chữ viết của chính cô bé?
           Khi tới gần căn nhà một tầng tôi hầu như chạy. Mưa bắt đầu rơi lác đác nặng hột, đem khỏi mặt đất, bằng huyền diệu tức thì, cái mùi của mưa ướt phúc lành, khuấy động đất mùn và làm tăng nhanh mọi sức sống có gốc rễ trong bụi đất.
           Tôi rung chuông. Mưa trở nên nặng hơn và tôi cũng nôn nóng sốt ruột rung tiếp. Một giọng chát chúa vang lên: “Tôi ra đây!” và tôi chờ đợi bà mẹ với chuỗi hạt muôn thuở mở cửa cho tôi. Tôi lật cao cổ áo jacket. Quần áo, nguời tôi ngửi cũng khác trong mưa nữa. Cửa mở.
           “Anh cần chi? Anh đã đến, thật tuyệt vời!”
           Cô gái dị dạng ngồi trong xe lăn đặt một tay trên núm cửa và mỉm cười với tôi gượng gạo, không thể hiểu ý nghĩa là thế nào. Cái bướu trên ngực cô khiến cho cái váy biến thành miếng vải trùm lên người, tuy nhiên là một miếng vải trắng tạo một vẻ làm dáng đối với cái tạp dề xanh lam sọc vuông. Cô thiếu nữ nhỏ nhắn lấy một gói thuốc lá từ túi tạp dề và nhanh chóng mồi một điếu, môi sơn mầu vàng cam để lại vết trên đầu điếu thuốc. Cô sửa lại mái tóc lúc nào cũng quăn mầu lúa mì vàng như đồng, và trong suốt thời khắc đó không ngừng chăm chăm nhìn tôi với vẻ hi vọng, dò hỏi, đau buồn – đồng thời pha lẫn sợ hãi.
           “Đừng, Carlos. Đi đi. Đừng trở lại.”
           Và từ trong nhà, ngay lúc đó, tôi nghe tiếng thở lớn khó nhọc của ông già, đang tới gần.
           “Mày đâu? Mày há chẳng biết rằng mày không được trả lời gọi cửa? Vào ngay! Đồ quỷ cái! Tao lại phải đập mày nữa sao?”
           Mưa nhỏ giọt xuống trán tôi, má tôi và vào miệng tôi; và hai bàn tay nhỏ bé sợ sệt đánh rơi sách khôi hài xuống vỉa hè đá sỏi ướt mưa.

Phạm đức Thân dịch

Hoa Chúc

Kashoku
tác giả Funahashi Seiichi – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Tiệc cưới của hai họ Sumoto và Hitotsubashi đã đến món tráng miệng. Tiến sĩ H, vị chủ hôn trong buổi tiệc cưới đứng lên đọc một bài chúc tụng khách sáo thường lệ của người chủ hôn. Tiếp theo là những lời chúc mừng cô dâu chú rể của những vị khách như ông B, ông O, ông K. Thế rồi, một người có vẻ như là người xếp trông coi đám bồi bàn của nhà hàng đến sau ghế của tôi, vỗ nhẹ vào vai tôi bảo ” Xin mời “. Tôi bèn để khăn ăn xuống ghế, đứng dậy.



Kính thưa quý vị, tôi là Higuma, vừa hân hạnh được phép đứng lên chúc mừng cô dâu chú rể. Giữa hàng quý khách đông đủ các vị thân hào nhân sĩ ngày hôm nay, một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi mà cũng dám đứng lên thưa chuyện trước quý vị thì quả là không biết thân phận mình. Nhưng cũng xin quý vị lượng thứ, vì tôi được người dẫn chương trình tiệc cưới hôm nay bảo lên chúc mấy câu, chẳng lẽ tiệc vui mà từ chối thì bất tiện, nên tôi mới dám vô phép thế này. Một lần nữa xin quý vị lượng tình tha thứ.

Ờ hèm ( khẽ hắng giọng ).

Sau khi nghe vị chủ hôn giới thiệu, tôi tin chắc rằng đây quả thực là một mối lương duyên có một không hai. Thế nhưng chẳng dấu diếm gì quý vị, tôi xin thưa rằng người biết rõ nhất về cô dâu chú rể chính là tôi, ngoài tôi chẳng còn ai khác. Tôi nói thế này có thể làm phật ý quý vị, nhưng trong quý vị ở đây, bên nhà trai thì cho dù có biết chú rể, mà chẳng biết gì về cô dâu, còn những vị nào biết cô dâu thì lại hoàn toàn chẳng biết gì về chú rể. Như vậy chẳng phải là quý vị chỉ biết có một chiều thôi sao?

Ngài chủ hôn đã giới thiệu về hai họ và cô dâu chú rể để quý vị quen biết nhau, thì phải chăng cũng nhờ biết rõ cả đằng trai lẫn đằng gái, nên tôi mới được phép đứng lên thưa chuyện với quý vị trong tiệc cưới đêm nay, mới hân hạnh được có vinh dự này. Nếu không thì chuyện đã rõ như ban ngày, là đời nào mà tôi lại được lên chúc tụng cô dâu chú rể, trong một bữa tiệc cưới linh đình trọng thể như thế này.

Ờ hèm ! ( Lại hắng giọng )

Chú rể Sumoto Namio là bạn học cùng trường với tôi, đúng ra phải nói là chỗ thâm giao từ lâu. Như quý vị đã thấy, anh quả là một trang thanh niên khôi ngô tuấn tú, lại là người trực tính, lòng dạ thẳng như đốt tre, không cả nể, ghét thói nịnh bợ, nghĩ sao làm vậy. Có lẽ chính cái tính tình cương trực của chú rể đã là nguyên nhân chính giúp anh ta chiếm được cô dâu xinh đẹp mỹ miều này. Xin lỗi quý vị là tôi nói có vẻ hơi lạc đề, nhưng xin quý vị hãy chịu khó nghe thêm chút nữa.

(Ở cuối phòng tiệc , có ai đó nói vọng lên ” Nói cho đàng hoàng xem nào ! ” )

Anh Sumoto tính tình thì như thế, nên tôi xin làm chứng, cam đoan với quý vị rằng anh ta không hề có chuyện lăng nhăng với phụ nữ. Thậm chí, có khi phải nói rằng anh ta ghét phụ nữ nữa mới đúng. Tôi cũng xin được thưa thêm với quý vị rằng, tôi cũng ghét phụ nữ đấy ạ.

(Ở dãy cuối lại có người la lớn “Đừng có láo toét ! “. Tiệc đang nồng, áng chừng đã có người say , rượu vào lời ra , có ý châm chọc..)

Thế là giữa hai đấng nam nhi cùng ghét nữ nhi đã nẩy nở một tình bằng hữu. Bấy giờ trong đám bạn học có nhiều anh hay la cà đến các chốn thanh lâu ở Shinjuku hay Susaki, hoặc lui tới xóm ca kỹ ở Gotanda hay Otsuka. Nhưng anh Sumoto thì cương quyết phản đối điều này, anh đã cùng tôi giao hẹn, thề quyết giữ mình đồng trinh trong sạch. Trong bữa tiệc cưới hôm nay, nhớ lại tình bạn trong sáng ngày nào, lòng tôi không khỏi bùi ngùi cảm khái vô hạn.

( Phòng tiệc bỗng lặng như tờ ..)

Thuở ấy hai chúng tôi thường hay rủ nhau đi du ngoạn. Anh Sumoto được trời ban cho có tài vẽ, đi đến đâu cũng giỏi lấy giấy ra phác hoạ cảnh núi sông cây cỏ, nét vẽ thật tài hoa khác hẳn người thường. Còn tôi thì bình sinh là đứa tầm thường, chẳng có tài cán gì, chẳng khác nào như thằng tiểu đồng đi theo anh mà thôi. Những nơi chúng tôi thường đến nhất là vùng Shinshu, Joshu, rồi Izu, nhất là quanh vùng núi Asama, chúng tôi cứ mải mê đi mãi đến quên cả thời gian. Chúng tôi chọn cả những vùng có suối nước nóng như Yamada, Manza, Hoshi, Hoppo, Kuma no yu ..Dần dà còn băng qua đường ranh Joshinetsu, phiêu du đến tận vùng Echigo. Đi lang bạt nhiều nơi như thế, nhưng anh Sumoto vẫn thuỷ chung giữ nguyên cái tính ghét nữ giới, tấm lòng thật trong sạch không chút bợn nhơ. Về phần tôi, dĩ nhiên, cũng quyết không thua bạn. Vì vậy tự nhiên tôi và anh Sumoto có cái thú muốn biết trong hai chúng tôi rồi đây ai sẽ là người phá rào trước.

Ờ hèm !

Thưa quý vị, thế còn về cô dâu Hitotsubashi Sueko, hôm nay đã chọn được ngày Hoàng đạo để cử hành hôn lễ thật long trọng ở đền thần, nên có lẽ bây giờ tôi phải gọi cô là cô Sumoto Sueko. Toàn thể quý vị ở đây chắc cũng phải nhìn nhận vẻ đẹp chim sa cá lặn của cô. Hôm nay quả là ngày hôn lễ vui mừng của một cặp giai nhân tài tử. Tôi đã quen cô Sueko nửa năm trước khi cô và anh Sumoto quen nhau. Đó là vào một lần ở Shinshu, sau khi tôi vừa chia tay với Sumoto để anh ấy về Tokyo. Trên con đường lớn sắp đến chỗ rẽ, cô Sueko phóng xe đạp từ phía sau tới, sắp đâm sầm vào tôi. Cô vừa bấm chuông vừa bẻ ghi đông tránh sang bên phải, nhưng không may là tôi cũng tránh sang cùng bên, nên bánh xe của cô đâm vào chân tôi, rồi cứ thế cả hai chúng tôi cùng ngã lăn xuống ruộng.

Dường như cô Sueko bị đụng phải chỗ hiểm nên cô ngất đi, đầu bị húc vào ruộng trồng đậu, chân thì bị xe đạp đè lên. Ống quần của tôi cũng bị rách toạc. Tôi vẫn còn nhớ mãi, lúc đó cô mặc một chiếc áo len cài khuy màu xám nhạt và chiếc váy màu đỏ thẫm, chân trần không đi vớ. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một như đang thấy trước mắt cảnh tượng lúc cô bị ngã, sợi dây đeo ở cổ tay cô tuồng như bị đứt, những hạt cườm bằng đá chạm văng ra tung toé bên đường. Tôi đứng dậy lê một chân hơi khập khiễng, dựng chiếc xe đạp đang đè trên người cô lên, lúc đó tôi mới thấy ơ kìa ống chân trắng ngần không đi vớ của cô đang chảy máu là gì … Tôi nghĩ bụng: nguy to, bèn dẹp chiếc xe đạp sang bên kia đường, và đang định nâng cô Sueko dậy, thì cô còn đang bị ngất, bỗng mở bừng đôi mắt tuyệt đẹp mà nói : ” Tôi xin lỗi anh “. Tôi chưa bao giờ được trông thấy một đôi mắt nào thánh thiện và trong suốt đến thế. Người đời thường trân trọng các thứ ngọc bằng đá hay ngọc trai mà họ cho là đẹp, nhưng chẳng qua đó là những vật không hồn, làm sao có thể đem so sánh với đôi mắt của một người con gái đẹp. Chẳng qua vì họ chưa biết đến vẻ đẹp trong đôi mắt của người con gái nên họ mới đem lòng yêu thích kim cương hay ngọc trai. Trên thân thể của người đã có một thứ tuyệt đẹp đến thế, thì kim cương hay châu ngọc phỏng còn có giá trị gì để chúng ta bàn đến nữa.

( Bỗng có người tỏ vẻ sốt ruột )

Cũng vì chuyện này tôi liền viết thư lên Tokyo cho anh Sumoto. Tôi đã viết bức thư ấy trong căn nhà nghỉ mát ở Karuizawa. Nhà làm bằng gỗ, có một chiếc đèn đứng với chân đèn bằng gỗ. Ngay phía trước cửa sổ có một cây hạt dẻ thật cao. Chao đèn phản chiếu hình những bông hoa hạt dẻ trắng như màu tuyết. Tôi đã viết bức thư cho anh Sumoto bên ánh đèn, mở đầu như sau:

” Sumoto à, tôi muốn cho anh xem cái này.

Tôi viết như vậy, có lẽ anh cũng chẳng hiểu đó là gì. Nhưng tôi rất muốn biết, một khi trông thấy rồi anh sẽ nghĩ thế nào. Anh có biết đó là cái gì không? Anh lanh trí lắm, nên tôi có cảm tưởng anh đã đi guốc vào bụng tôi. Đó là sự xuất hiện của một người con gái đẹp. Tôi tưởng chừng như đang thấy nét mặt cau có của anh. Nhưng mà rất đáng để cho anh xem lắm, thật đấy.

Thú thật là từ khi gặp người con gái ấy, tôi đã đổi ý. Một khi đã trông thấy đôi mắt đẹp của người con gái ấy thì tôi không thể nào không thay đổi tôn chỉ của mình bấy lâu. Anh đã biết, lâu nay tôi vẫn nghĩ rằng vẻ đẹp của phụ nữ chỉ là một thứ tà đạo, thân nam nhi mà để bị loạn tâm loạn trí vì thế thì chỉ là hạng người kém hiểu biết, nên tôi vẫn cương quyết làm chủ lòng mình. Thế nhưng nào ngờ hôm nay tôi đã đắm đuối say mê người con gái tình cờ mới gặp. Tôi chưa muốn nói là tôi đã yêu nàng. Nhưng vẻ đẹp của nàng đã làm tâm hồn tôi xao xuyến mất rồi. Tôi đã sinh ra nghi ngờ tự hỏi, tại sao trên đời có đôi mắt đẹp như thế này mà người đời lại quý hoá những thứ không hồn như kim cương hay ngọc trai.

Sumoto ơi, anh hãy tha thứ cho tôi. Lúc này tôi không thể không chế nhạo mình, vì lâu nay đã ngu xuẩn tự giao cho mình cái nhiệm vụ ghét phụ nữ. Có một lần, hôm anh và tôi đi xem tuồng kabuki “Narukami “, lúc đó anh đã chỉ người con gái trên sân khấu mà nói rằng: phụ nữ ai cũng chỉ là hoá thân của loài yêu ma như nàng Kumo no Taema Hime kia. Đàn ông dù cẩn thận thế nào chăng nữa rốt cuộc rồi cũng thành ngu xuẩn. Anh đã bảo anh không muốn trở thành hoà thượng Narukami. Viết đến đây, tôi lại nhớ lại cảnh trên sân khấu lúc bấy giờ. Liệu rồi nàng có phải là nàng Kumo no Taema Hime hay không. Tôi muốn anh nhận xét thử xem sao .

Mong anh mau tới, sớm chừng nào hay chừng ấy ! “



Tôi đã viết một bức thư như thế.
( Tôi vừa nói đến đó, người xếp bồi đã tiến đến đưa cho tôi mảnh giấy giục đã hết giờ, hãy kết thúc nhanh giùm bài chúc mừng cô dâu chú rể .)

Ờ hèm !

Thưa quý vị, người dẫn chương trình của buổi tiệc cưới vừa đưa cho tôi mảnh giấy giục đã hết giờ, đừng dài dòng nữa, hãy đi vào vấn đề chính. Nhưng để quý vị hiểu đích xác đầu đuôi câu chuyện mà tôi không mào đầu như thế này thì e rằng cũng khó trình bày được chân ý.

( Cũng có người la to ” Cứ kể tiếp đi ! “) .

Tôi đã nhận được lá thư hồi âm của anh Sumoto, mà từ đầu đến cuối bức thư đầy ắp từng giòng từng chữ toàn những lời công kích gắt gao, coi việc tôi từ bỏ tôn chỉ ghét phụ nữ là một sự phản bội khó lòng tha thứ. Trong căn nhà nghỉ bằng gỗ ở Karuizawa, tôi đã đọc đi đọc lại bức thư ấy không biết bao lần trong ngấn lệ, lòng tràn ngập niềm biết ơn bạn, nhưng đồng thời không phải là tôi không biết rằng đã đến lúc phải giã từ tình bạn.

( Bấy giờ ngưòi xếp bồi lại đến, nắm lấy vai tôi toan lôi tôi đi . Phòng tiệc có vẻ đang xôn xao, nhưng tôi cứ nói tiếp )

Tôi lại viết thư trả lời Sumoto.

” Quan niệm của anh, coi tất cả phụ nữ trên đời hết thẩy đều là yêu ma quỷ quái như nàng Kumo no Taema Hime, chẳng qua chỉ là một thành kiến lệch lạc mà thôi. Trong đôi mắt nàng tuyệt nhiên không hề gợn một chút vẩn đục nào của loài yêu quái ấy. Mà cho dù nàng có phải là nàng Kumo no Taema Hime chăng nữa, thì hoà thượng Narukami, người đã cảm thông với nàng, say đắm nàng, đến nỗi phải phá giới sa đoạ vì nàng, chẳng phải là một người đàn ông hạnh phúc trên đời này hay sao.”



( Đột nhiên có người quát gọi đem đồ nhắm tới, phòng tiệc nhốn nháo cả lên, tiến sĩ H chừng như giận đã sôi gan, bèn bỏ về, nhưng tôi lại càng cao giọng nói tiếp ).

Kính thưa tất cả quý ông quý bà trong phòng tiệc, xin quý vị hãy yên lặng mà nghe tôi nói tiếp. Bài chúc của tôi bây giờ mới đến đoạn hay nhất.

( Vì sĩ diện , tôi cứ đứng quay lưng về phía khách dự tiệc cưới mà không buồn quay lại, rồi tiếp tục hùng hồn cao giọng )

Thưa quý vị !

Hoà thượng Narukami đã nhìn thấu được chân tướng của nàng Kumo no Taema Hime, đã biết nàng là yêu quái từ lâu. Nếu cho rằng hoà thượng vì không hay biết nên mới bị nàng quyến rũ mà sa bẫy, thì đó chỉ là một cách nhìn hời hợt. Lẽ nào hoà thượng lại không linh cảm được rằng đó là một con yêu nữ. Tôi cho rằng ngài đã biết nhưng vẫn không tránh được. Thói thường, con nguời ta tuy biết mình sắp gặp nguy, nhưng mà lại hay cứ cắm đầu cắm cổ đâm đầu vào chỗ chết. Hoà thượng thừa biết mình đang bị bùa phép của nàng Kumo no Taema Hime, nhưng ngài vẫn không thắng nổi sức quyến rũ của nàng, cứ đến gần nàng để rồi vương luỵ vì nàng.

Trên sân khấu kabuki, có khi nàng Kumo no Taema Hime cuốn tà áo lên ngay trước mắt hoà thượng, để lộ dưới gấu áo màu đỏ ống chân trần trắng nuốt, có khi nàng lên cơn động kinh ngay trước mặt hoà thượng để ngài phải đỡ nàng,phải xoa từ nhũ hoa cho xuống đến dưới rốn cho nàng. Cho dù là một vị hoà thượng rất đạo hạnh đến đâu đi nữa , trong lúc chạm vào vú, vào rốn và cả hạ bộ của người nữ, lòng trần ắt sẽ nổi dậy, có sa ngã cũng là chuyện thường tình. Người nào vẫn có thể dửng dưng cho dù gặp phải tình huống ấy, quả là đức Phật sống trên đời này. Nếu chỉ là một người bình thường ở đời, thì cho dù đó là một vị hoà thượng hay là ai chăng nữa, nhất định là sẽ không dằn được lòng ham muốn.

Ờ hèm !

Quý vị có mặt ở đây, dù là quý ông hay quý bà, có lẽ đã biết một màn kịch kyogen cũng có tựa đề Narukami, với nhân vật Narukami là một người nữ, ni cô Narukami. Màn kịch mô tả ni cô đã vương vào tục luỵ vì một người đàn ông đẹp trai tên Kumo no Taema no Suke. Có nghĩa là, tôi xin phép thưa không chút khách sáo rằng, cho dù quý vị là hiền nhân quân tử hay thục nữ đoan trang, khó ai tránh khỏi luỵ vì tình. Riêng tôi, từ lúc đã trông thấy giòng máu đỏ trên ống chân trắng trẻo của cô Hitotsubashi Sueko, thật chẳng khác gì nàng Kumo no Taema Hime, tôi không khỏi nghĩ rằng mình đã được thấy một vẻ đẹp tưởng chừng không thể có trên đời.

( Người xếp bồi lại đến , túm lấy vai tôi như muốn tống cổ tôi ra khỏi chỗ ấy. Nhưng tôi cũng gan lỳ, tôi đẩy hắn ra.)

Thư từ qua lại được vài tháng sau, tôi đã đi gặp anh Sumoto để kể cho anh nghe rõ đầu đuôi sự tình. Khác hẳn với thái độ trong thư, bấy giờ anh Sumoto lại ra chiều chăm chú nghe câu chuyện của tôi. Nghe được nửa chừng câu chuyện, tôi thấy anh đã có vẻ nao núng dần.

Ờ hèm ! Ờ hèm !

– Bộ cô ta đẹp đến thế sao ?

– Đẹp thật mà. Chắc anh chỉ gặp cô ta một lần là anh cũng phải lòng ngay.

– Làm gì có chuyện vớ vẩn thế! Đàn bà được khen là đẹp chẳng qua vì họ trang điểm. Cứ bỏ son phấn đi mà xem, thử hỏi trông họ có còn ra gì không ?

– Thôi, chúng ta cứ lời qua tiếng lại thế này cũng chẳng đi đến đâu. Anh cứ gặp cô ta một lần thử xem. Tôi chắc chắn là anh cũng sẽ phải đồng ý với tôi rằng nàng ” đẹp thật “, anh sẽ phải trố mắt ra mà nhìn đấy. Tôi muốn anh phải thú nhận rằng anh đã đầu hàng. .

– Cần gì phải gặp, tôi cũng biết đại khái là anh thích kiểu người đẹp như thế nào rồi !

– Dù thích kiểu nào cũng phải công nhận rằng cô ấy đẹp.

– Anh đã nói thế thì .. tôi gặp cô ta cũng được thôi. Nhưng trước hết tôi muốn hỏi anh một điều.

– Điều gì ?

– Theo như thư đầu anh viết cho tôi, thì anh vẫn chưa phải lòng cô ta. Nhưng anh có viết rằng, anh đã phải ngơ ngẩn trước vẻ đẹp của cô ta, có đúng không ?

– Đúng thế.

– Nếu cô ta đã thành người yêu của anh, tôi có gặp rồi khen chê thế nào cũng là vô ích. Nhưng nếu anh cũng chỉ như tôi, và chỉ là vấn đề khách quan, muốn chúng ta cùng xem thử cô ta có đẹp hay không, thì tôi thử gặp cũng được thôi.

– Như vậy cũng được.

Tôi lúng túng đáp. Thế là, anh Sumoto chịu đi gặp cô Sueko.

( Ba người đàn ông lực lưỡng toan điệu tôi ra khỏi phòng tiệc cưới. Nhưng tôi đâu có chịu thua. Đã nói đến đây, thì tôi phải kết thúc câu chuyện chứ, nếu không thì bài chúc của tôi không ra một bài chúc có đóng có mở đàng hoàng.) .

Ờ hèm !


Thế là anh Sumoto đã gặp cô Sueko lần đầu vào khoảng nửa năm sau khi có vụ đụng xe đạp giữa tôi và cô ấy. Đó là vào một ngày mùa đông, nói cho chính xác thì đó là vào tối trước đêm Giáng sinh, trong một buổi hội chợ ở trường cũ của cô Sueko, trường nữ Shida. Ngày hôm ấy, mặc dù trời lạnh cô Sueko vẫn mặc phong phanh, ai lại đúng cái áo len cài khuy màu xám nhạt với chiếc váy hồng, cũng đeo dây chuyền và đeo vòng ở cổ tay, giống hệt như hôm cô phóng chiếc xe đạp bóng loáng, về chỗ có ngã rẽ trên con đường lớn, có cây thông rụng lá và hoa huệ ngày nào . Hôm ấy cô phụ trách kỹ thuật ở hậu trường sân khấu giúp vui cho ngày hội chợ.

Tôi cứ tưởng là hôm ấy cô sẽ mặc một bộ quần áo sang trọng hơn nhiều, nên vừa trông thấy cô tôi đã nghĩ bụng ” Hỏng kiểu rồi !”. Thế này thì làm sao mà anh Sumoto trầm trồ khen ngợi được. Tiếng là không thèm để ý đến đàn bà con gái, nhưng thực sự anh ta lại kén chọn ra phết đấy. Không đóng bộ cho thật lộng lẫy vào, thì khó mà ăn điểm với anh chàng. Nhưng nào ngờ cô Sueko lại chỉ mặc mỗi một chiếc áo len cài khuy màu xám nhạt, giống như hôm ở Karuizawa. Cô còn đang giúp việc trong hậu trường sân khấu, có vẻ như mặt mày còn dính bụi lem luốc nữa. Tuồng như cô cũng chẳng son phấn gì, lại còn đầu bù tóc rối.

Tôi chỉ vào hậu trường nói:

– Kìa, cô ấy đấy!

Anh Sumoto chỉ nói có mỗi một câu:

– Đấy sao? .

Rồi anh chẳng nói chẳng rằng, tuy rằng cũng có vẻ như đang chăm chú nhìn thật kỹ. Đoạn anh cùng tôi ngồi xuống, ngả lưng vào thành ghế xem văn nghệ, miệng nói:

– Cũng thường thôi.

làm tôi chẳng biết phải trả lời thế nào, trong bụng cứ hối tiếc vì đã để cho anh ta trông thấy cô Sueko không đúng lúc.

Tôi hỏi anh :

– Không chấm được sao?

Anh liền hỏi lại tôi :

– Thế anh chú ý cô ta ở điểm nào mới được chứ?

– Điểm nào thì tôi không nói được. Tôi chỉ nghĩ rằng người như cô ấy thì mình có thể yêu được.

– Nếu nói yêu, thì yêu ai mà chả được. Tất cả các cô gái trong ngày hội chợ này ai cũng đáng yêu. Không có ai là không đáng yêu cả.

Sumoto nói tiếp ra vẻ ta đây:

– Tôi không nói chuyện đáng yêu hay không đáng yêu, mà chỉ muốn nói một cách khách quan về giá trị của người phụ nữ. Hầu như không có người con gái nào đáng gọi là phi phàm cả.

Ờ hèm !

Sau ngày hội chợ được ít lâu, thỉnh thoảng ba chúng tôi lại gặp nhau. Có khi hai thanh niên chúng tôi đến phòng của cô Sueko, cũng có khi cô đến chỗ tôi rồi cùng tôi đến nhà anh Sumoto, lại có những lần cả ba chúng tôi hẹn gặp nhau ngoài phố như Ginza hay Shinjuku.

( Nói tới đây , trước mắt tôi cô dâu chú rể đã biến dạng tự bao giờ. Không những thế, mà tôi còn kinh hoàng nhận thấy tất cả những bông hoa tươi thắm đẹp đẽ trang hoàng trước mặt cô dâu chú rể đều gục đầu rũ xuống. Nhìn những bông hoa héo rũ rượi mà tôi giật mình. Phải chăng bài chúc mừng của tôi đã có ám khí khiến cho cả đến những bông hoa tươi cũng phải héo úa ? Không ! Không đời nào như thế! Trong buổi tiệc mừng hôm nay, tôi chỉ thành thực cố tường thuật lại một cách trung thực, không dám đơm đặt điều gì về con đường tình sử mà cô dâu chú rể đã qua , để nói lên ý nghĩa của cuộc hôn nhân này ) .

Ờ hèm !


Mùa hè năm sau đó, ba chúng tôi lại cùng đi Karuizawa. Chúng tôi bắt đầu cuộc sống chung trong một chiếc chòi gỗ nơi nghỉ mát do tôi đứng tên thuê ở giữa rừng cây xanh, cách con đường nhỏ có sân quần vợt một quãng đường. Thưa các vị quý khách trong buổi tiệc rất đông người hôm nay, quý vị nghĩ sao về cuộc sống đó ? Nói vô phép các ngài, tôi chắc rằng trong các ngài không phải là không có người liền tưởng tượng rằng chúng tôi là những kẻ lập dị, đã sống theo kiểu quan hệ tay ba, hai ông một bà. Một người nữ với hai người nam, trong chữ Hán nếu viết hai chữ nam ở hai bên và một chữ nữ ở giữa, thì đó là chữ “điểu” có nghĩa là đùa bỡn, ỡm ờ. Một người con gái ỡm ờ với hai ngưòi con trai ..là đồ nỡm. Mà hai nguời con trai đùa bỡn với một người con gái thì thật là tội nghiệp cho cô ta. Viết ” đùa chết người”, với chữ đùa là chữ ” điểu ” này, là để trỏ việc hai người con trai xúm lại mà làm hại đời một người con gái cho đến chết .

Thế nhưng xin quý vị đừng lo. Ở Karuizawa, ba chúng tôi đã không làm điều gì để quỷ thần phải quở trách. Chúng tôi theo nguyên tắc phân công, mỗi người một việc. Tầng một là phòng khách vách gỗ kiểu tây phương. Các phòng lát chiếu kiểu Nhật ở tầng hai, gồm một phòng sáu chiếu và một phòng ba chiếu. Còn có thêm một phòng làm việc có thể dùng thành phòng ngủ. Phải nói đó là một diện tích quá rộng rãi cho cuộc sống chung của ba chúng tôi. Chúng tôi ai ở phòng nấy, khi ăn xuống phòng khách, theo kiểu góp gạo thổi cơm chung. Ngoài ra đến giờ đọc sách thì tôi làm thầy giáo, còn cô dâu chú rể trong tiệc cưới hôm nay làm học trò, học với tôi các môn như tiếng Pháp chẳng hạn. Giữa tôi với anh Sumoto, nếu bảo ai là người săn sóc cô Sueko nhiều hơn, thì thật là khó nói, vì cách đối xử ân cần với phụ nữ của tôi và của anh mỗi người một khác.

Một hôm cô Sueko bị sốt nặng. Việc săn sóc cô lúc đó mới là gay go, vì hai chúng tôi chẳng phải là anh hay em trai cô. Lúc ấy giữ việc thay túi nước đá trườm cho cô là anh Sumoto, nhưng tôi lại phải lo đập nước đá cho vụn để bỏ vào túi trườm. Ra phố mua nước đá cũng là bổn phận của tôi. Vì không có bình trườm nước nóng, nên hai chúng tôi phải thay phiên nhau hơ tay trên than hồng cho ấm, rồi ấp tay vào hai gót chân nhỏ bé của cô Sueko. Suốt đời tôi không bao giờ quên được cái cảm giác khi ôm gót chân và cổ chân mềm mại của cô lúc đó.

Tối hôm đó, sau khi uống thuốc át xpi rin, cô Sueko bỗng ra mồ hôi ướt đầm khắp người. Tất nhiên là không thể để mặc như thế, mà phải lau mồ hôi và thay áo ngủ cho cô. Một trong hai chúng tôi sẽ nhận nhiệm vụ này, thật là một vấn đề tế nhị và có tính cách quyết định, mà cô Sueko thì lại không chịu để cho cả hai chúng tôi cùng làm. Mà cũng dĩ nhiên là thế.

Ờ hèm !

Tôi và anh Sumoto bèn lấy bộ bài ra để bốc thăm. Ai rút được con ách cơ sẽ được phép lau người cho cô Sueko. Chồng cỗ bài được đặt trên bàn. Trước hết phải định xem ai là người được giở bài trước. Tôi được đi trước. Tôi giở trúng con bích số 6. Đi trước mà lại rủi ro. Đến lượt anh Sumoto giở bài. Anh được con rô số 9. Tiếp đó là tôi được con cơ số 2. Tim tôi đập thình thịch. Rồi anh Sumoto được con cơ số 5. Rồi đến lượt tôi được con đầm chuồn. Anh Sumoto được con rô già, tôi con chuồn 8 … Rút mãi mà chưa thấy mặt con ách cơ .. Mãi đến lượt thứ 42, khi vừa thấy mặt con ách cơ, thì bấy giờ mồ hôi đã vã ra khắp người tôi, còn anh Sumoto cũng mồ hôi mồ kê nhễ nhại. 42 là số chẵn, vì thế đương nhiên thắng lợi về phía Sumoto. Hai mắt anh như đang bốc lửa và long lên, anh nhìn tôi mà hét lớn :

– Đi ra ngoài !

Tôi thất thểu bước ra ngoài. Tôi đã khóc, khóc vật vã. Làm sao mà không khóc được. Cánh cửa phòng đã khép chặt. Sau đó tất cả đều im phăng phắc, chẳng còn nghe thấy động tĩnh gì cả.

Có lẽ bây giờ cô Sueko đã cởi trần, được cởi bộ áo ngủ ướt đẫm mồ hôi, và anh Sumoto đang được cầm chiếc khăn khô lau tấm lưng và bộ ngực đẹp đẽ của cô. Đã cởi áo rồi thì chắc là cũng phải cởi luôn cả quần, cởi quần lót, cởi cóc xê … Cô đổ mồ hôi là vì uống thuốc át xpi rin chứ có phải là làm điều gì để thần thánh phải quở phạt đâu. Cô bị trần truồng, cho dù có bị lộ những chỗ kín đáo, cũng không phải là điều bậy bạ. Thế nhưng liệu lúc đó anh Sumoto có đủ bình tĩnh mà cầm lòng được không nhỉ? Hay là anh cũng động lòng như hoà thượng Narukami mà rơi từ trên bệ thờ xuống đất. Phải chăng đúng như điều tiên đoán ngày nào, cô Sueko quả là một nàng Kumo no Taema no Hime.

Trời ! Phải chi mà tôi đổi được vị trí của con ách cơ ấy, thì cái trọng trách tuyệt vời ấy đã về phần tôi, và sự thể sẽ khác hẳn như sáng với tối. Nếu là tôi, tôi sẽ chỉ cởi quần áo để lau mồ hôi cho cô mà không có một ý nghĩ vẩn đục nào. Tôi sẽ rất tỉnh táo. Trước hết là cởi áo để lau bán thân trên, không thể không lau đôi nhũ hoa và dưới nách cho cô. Rồi sẽ từ từ lau xuống dưới, từ ngực xuống dưới bụng và quanh rốn. Rồi cởi quần, lau thật kỹ hạ bộ. Lòng tôi không gợn một mảy may nào ham muốn xác thịt, mà chỉ nghĩ đến chuyện lo lau sạch mồ hôi cho cô mà thôi. Như thế đã đủ để tôi mãn nguyện, không còn gì phải hối tiếc trên đời này nữa. Càng nghĩ tôi càng oán hận con ách cơ. Phải chăng, cũng vì ngày hôm ấy mà viên ngọc quý đang ở trong tay, đã tuột ra khỏi lòng bàn tay tôi mà lăn sang tay anh Sumoto.

Thế nhưng, một lát sau cánh cửa mở, anh Sumoto bước ra, nét mặt hiền hoà hơn cả mọi ngày. Thực tình, giữa hai người dường như không có chuyện gì xảy ra cả, họ đã mời tôi vào phòng, rồi bấy giờ đến lượt giở bài để xem ai sẽ phải đem quần áo dính mồ hôi đi giặt .

Lần này anh Sumoto lại ra hẹn là lá bài J- thằng diễu- . Tôi thận trọng giở từng lá bài, bụng bảo dạ, lần này thì nhất định không để bị thua. Tôi đã nhường cho bạn Sumoto được lau mồ hôi cho cô Sueko, không lẽ lại chịu thua luôn cả cái khoản giặt quần áo cho cô sao. May mắn là đến lá bài thứ 15 thì tôi đựợc. Thế là tôi liền vơ bộ quần áo ướt mèm của cô cho vào giỏ, vội đem ra vò ở sân sau nhà. Đúng lúc ấy, gió thổi lùa vào tàng cây hạt dẻ làm con chim lạ giật mình kêu lên một tiếng và bay vụt đi. Tôi xăn tay áo lên, bắt đầu giặt. Thật là mới thảm thiết, não nùng ai oán làm sao ! Tôi thấy rõ nước mắt mình đang rỏ xuống bộ quần áo ngủ màu trắng của cô Sueko. Tôi đoán là từ hôm hội chợ, anh Sumoto đã đem lòng yêu cô Sueko, và dần dần cô cũng đã phải lòng anh. Tấm tình của hai người đã sâu đậm từ lâu, đến độ không thể dứt ra được nữa, thế nhưng vì tình nghĩa với tôi nên họ vẫn phải dối lòng.

Ô hô … ( khóc )

Thế nhưng làm sao người ta có thể dối lòng chỉ vì tình nghĩa. Cũng như hoà thượng Narukami dù có phép thần thông đến đâu, cũng không dứt bỏ được tấm tình của ngài với nàng Kumo no Taema Hime. Cái sự nể nang vì tôi đã quen cô Sueko trước, gặp phải ngọn lửa tình nóng bỏng của họ, đã bị thiêu rụi thành tro và bay đi mất giữa khoảng trời cao rộng.

Trời ơi, vẻ đẹp trong đôi mắt của người con gái còn hơn cả thần thánh nữa đấy trời ạ.

Ờ hèm !

Đến đây tôi xin được kết thúc bài chúc vụng về và dài dòng trong buổi tiệc cưới hôm nay, để mừng cho cô dâu chú rể đã tìm được một tình yêu thiêng liêng cao quý. Và tình yêu của họ đã may mắn thành tựu, để có được ngày hôm nay, ngày giao ước sẽ trọn đời bên nhau đến bách niên giai lão, đồng tịch đồng sàng đồng quan đồng quách. Thành thật xin tất cả quý vị trong tiệc cưới hôm nay tha lỗi cho tôi, đã bắt quý vị phải bận tai lắng nghe một bài chúc dài dòng văn tự.

( Tôi nói đến đây, không kịp lau mồ hôi đang vã ra, ngồi xuống. Nhưng nhìn quanh phòng tiệc tối om chẳng thấy một ai. Còn chùm đèn sáng choang như đèn hoa chúc trong ngày cưới lúc nãy, thì đã tắt ngấm tự bao giờ) .




DTTM (Quỳnh Chi)
dịch truyện “Kashoku” của Funahashi Seiichi,
trong tuyển tập Truyện ngắn Nhật Bản (Nihon no Tanpen), 1989, Bungeshunju xuất bản.


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd050.htm

Đàn bà

Onna
tác giả Akutagawa Ryunosuke – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Nhện cái đang nằm yên tắm ánh nắng hè dưới đáy bông hoa hồng kép màu đỏ, trầm ngâm nghĩ ngợi. Tức thì lúc bấy giờ trên không có tiếng đập cánh, rồi chẳng mấy chốc có một con ong mật lao đầu sà xuống đoá hoa hồng. Nhanh như chớp nhện ngước mắt nhìn lên. Bầu không khí tĩnh mịch của buổi trưa như vẫn còn sót lại gợn sóng dư âm tiếng đập cánh của ong mật.

Không biết tự lúc nào, từ đáy hoa hồng, nhện cái đã bắt đầu âm thầm lặng lẽ cựa mình. Đúng lúc ấy ong cũng đang thò vòi vào hút mật ẩn dấu phía dưới nhụy hoa, mình dính đầy phấn hoa

Vài giây im lặng đến tàn nhẫn trôi qua.

Từ trong cánh hoa hồng đỏ bỗng nhô lên bóng dáng của nhện cái đang quờ quạng theo sau ong đang say mật. Nhưng mới đó nhện đã nhanh như cắt, chồm lên vồ lấy đầu ong. Ong ra sức rung cánh, hai ba bận toan dùng vòi chích lại kẻ thù. Phấn hoa bị đôi cánh của ong quạt bay tung lên, từng hạt phấn như đang nhẩy múa trong ánh nắng. Nhưng nhện cái nhất định không đời nào chịu nhả cái miệng đã ngoạm được mồi ra.

Cuộc đọ sức thật là chóng vánh.

Chẳng mấy chốc ong không còn rung cánh được nữa. Thế rồi chân bắt đầu bị tê. Cuối cùng chiếc vòi vươn dài quơ vào khoảng không vài cái như thể đang bị co giật. Đó là những phút cuối thật bi thảm. Một hồi kết cuộc bi thảm, tàn nhẫn và bạc bẽo chẳng khác gì cái chết của con người.——-Chỉ một lát sau, ong đã nằm sóng soài dưới đáy của hoa hồng kép, vòi ngay đơ không còn co lại được nữa, chân và cánh vẫn còn dính đầy phấn hoa thơm phức…

Nhện cái nằm im ru, bắt đầu từ tốn hút máu ong mật.

Ánh mặt trời không hề biết ngượng ngùng đã xé rách sự tĩnh lặng của buổi trưa đang trở lại với hoa hồng, lại soi trên bóng dáng ngạo nghễ đắc thắng của nhện sau cuộc tranh giành cưỡng đoạt đầy sắt máu. Cái bụng giống hệt như vải sa tanh màu tro, hai mắt làm ta liên tưởng đến hai viên bi, và rồi những cái chân xấu xí khòng khoèo như mắc phong hủi, nhện hầu như là hiện thân của cái ác, cứ chễm trệ ở trên xác ong một cách ghê rợn không biết đến bao giờ.

Cái màn kịch tàn ác này sau đó vẫn còn lập đi lập lại mãi. Thế mà hoa hồng đỏ tươi đẹp vẫn nở rộ mỗi ngày trong cái nắng và nóng ngột ngạt.

Thế rồi có một buổi trưa, làm như chợt nghĩ ra điều gì, nhện cái bèn chui mình giữa kẽ lá hoa hồng, bò lên cành cây ở phía trên. Đầu cành có một nụ hồng bị héo vì hơi đất bốc lên hừng hực, cánh hoa bị hấp hơi nóng toả ra một mùi thơm nhẹ. Nhện cái bò lên đến tận đó rồi thì bây giờ tới lượt cứ đi đi lại lại mãi không ngừng nghỉ giữa nụ hoa và cành cây. Cũng cùng lúc ấy, vô số những sợi tơ trắng ngần, óng ánh, một đầu mắc vào nụ hoa héo úa, và dần dần giăng khắp đầu cành .

Một lát sau, ở đó đã có một cái túi bằng lụa hình ống màu trắng sáng loà đến chói mắt phản chiếu lại ánh nắng giữa ban trưa.

Nhện giăng tơ xong, đã đẻ vô số trứng dưới đáy của cái túi mỏng mảnh ấy. Thế rồi nhện lại đan một miếng đệm bằng sợi thật dầy ở miệng túi, rồi chính mình vừa chiếm chỗ ở trên cái đệm ấy, vừa giăng thêm một cái trần nhà mỏng như vải the. Tấm mạng như thể một mái vòm chỉ chừa lại có mỗi một cái cửa sổ, đã ngăn con nhện màu tro dũng mãnh như một con thú dữ này với bầu trời xanh giữa buổi trưa. Tuy vậy, nhện – nhện cái sau khi sinh- gầy gò ốm yếu vẫn nằm yên trong căn phòng trắng nuốt ấy, một mình đơn chiếc đắm chìm vào giòng suy tưởng, dường như đã quên hẳn hoa hồng, mặt trời và cả tiếng đập cánh của ong mật.

Một vài tuần lễ như thế trôi qua.

Trong thời gian đó, trong cái túi của nhện, những sự sống mới say ngủ trong vô số trứng đã mở mắt chào đời. Nhận ra điều ấy trước tiên, trước bất cứ một ai, chính là nhện mẹ, nay đã già và kiệt sức, nằm yên bỏ cả ăn, trong căn phòng màu trắng ấy. Nhện mẹ đã nhận ra được dưới tấm nệm bằng tơ những sinh mệnh mới đã cựa mình không biết từ bao giờ, bèn lê những cái chân đã yếu dần quờ quạng xé rách trần nhà che trên túi ngăn cách mẹ với con. Vô số nhện con lục tục từ đó tràn ra khắp phòng. Hay nói dúng ra là chính cái đệm đã tự phân tán ra thành hàng trăm vi phân tử nhỏ li ti cùng chuyển động một lúc thì mới đúng.

Nhện con liền chui ra ngoài cửa sổ trên mái vòm, qua nắng và gió, tràn ra cành hoa hồng. Cả một lũ chúng nó chen chúc nhau trên những lá cây hồng nặng trĩu vì hứng cái nóng như lửa. Và cả lũ lại hiếu kỳ chui vào giữa hoa hồng nơi có ủ không biết bao nhiêu tầng mật ngọt. Thế rồi cả lũ lại còn nhanh nhẹn bắt đầu chăng những sợi tơ mỏng đến nỗi mắt thường không trông thấy, giữa những cành hoa hồng ngang dọc đang xé nát cả khoảng trời xanh. Nếu chúng có thể thốt lên lời, thì chắc hẳn là bông hoa hồng giữa ngày nắng hạ đã lên tiếng gọi chiếc đàn viôlông mắc trên ngọn cây hãy cất tiếng ca cùng gió.

Thế nhưng trước khung cửa sổ trên chiếc mái vòm, nhện mẹ gầy gò chỉ còn như cái bóng vẫn buồn rầu cuộn mình ủ rũ. Chẳng những thế, cứ như thế mãi, nhện có vẻ như chẳng buồn động đậy nữa, cho dù là một cái cẳng chân. Ở nơi vừa để sinh con vừa là mộ địa, dưới bức màn mỏng như the buông trên trần nhà, trong tĩnh lặng của căn phòng trắng nuốt, và hương thơm của nụ hồng đã héo, nhện mẹ – con nhện đã sinh ra vô số nhện con – đang nằm tận hưởng niềm vui vô hạn của người mẹ đã làm xong thiên chức và một lúc nào đó sẽ về tới cõi chết — Đó là một người đàn bà hầu như là hiện thân của cái ác, từng ăn sống nuốt tươi ong mật, đã sống cùng thiên nhiên vào giữa một mùa hè.


DTTM (Quỳnh Chi)
dịch theo nguyên tác Onna trong Akutagawa Ryunosuke toàn tập, nhà xuất bản Iwanami Shoten,1934.
(Tokyo, tháng 4 năm Taisho thứ 9, 3/2005)


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd056.htm

Cành hoa trong đêm tối

Yamizakura
tác giả Higuchi Ichiyo – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Có hai nhà nọ là Nakamura và Sonoda, ở cách nhau chỉ một bức tường rào chùa Kenninji. Mối giao tình thâm sâu như mạch nước giếng trong vườn, họ đã cùng đón xuân sang dưới cây hoa mơ nở trước hiên nhà, cùng chia nhau cả mùi hương.

Ông Sonoda đã qua đời một năm trước, để lại người con nối dõi là một chàng trai trẻ tên Ryo no suke, năm nay hai mươi hai tuổi, còn là sinh viên đang theo học tại một trường nọ.

Bên nhà Nakamura chỉ có mỗi một cô con gái. Họ cũng đã sinh hạ một mụn con trai nhưng chẳng may vắn số, sau mới được mỗi cô con gái này, nên thương lắm, nâng niu như viên ngọc quý trên tay, chỉ cầu sao cho được như cành hoa trên chiếc trâm cài tóc đừng bị gió thổi bay đi. Tên đặt là Chiyo (Thiên Đại) thì đủ biết lòng cha mẹ mong sao con mình được sống lâu như loài chim hạc.

Người ta vẫn bảo “Xoan thơm từ thuở hai mầm lá non”, mà quả thực từ lúc Chiyo mới lên ba lên bốn, tinh anh đã phát tiết ra ngoài, khiến mọi người phải trầm trồ bảo bây giờ đã thế nữa là về sau. Như nụ hoa khi mới hé nở trên núi lúc tháng tư , khiến mặt trăng vằng vặc sau chòm lá trên những cành thông cũng muốn dòm xuống nhìn.

Vẻ yêu kiều tuổi đôi tám lộ ra dưới mái tóc vấn lên cao kiểu Taka-Shimada, xinh như màu áo hồng nhuộm hoa văn lấm tấm Tamako-Shibori. Sắc hồng ở giữa vườn cây xanh biếc thì làm sao mà giấu được. Ngay cả đến những người không quen biết cô tiểu thư nhà Nakamura cũng đồn đãi về cô. Người đẹp có khi cũng phiền đấy.

Thói quen kể cũng lạ thật. Tuy Ryo no Suke biết rằng cánh diều thả ngày gió bắc, bị vướng phải cột điện, chỉ là chuyện ngày xưa còn bé, thế nhưng mỗi khi gặp Chiyo chàng vẫn như khi hai đứa còn chơi đồ hàng, chẳng để ý gì đến dáng dấp đã ra vẻ người lớn của Chiyo. Họ vẫn hồn nhiên gọi nhau một cách thân mật là Ryo và Chi, rồi cuối cùng còn cãi vã:

-Từ nay đừng có qua bên đây nữa nghe!

-Ai thèm qua bên đó làm chi ! Bên đó cũng đừng có qua bên đây nữa nghe!

Xong hờn lẫy không nhìn mặt nhau chỉ được chừng hai hôm, Chiyo đã lại hồn nhiên xin lỗi như khi còn bé:

-Hôm trước Chi hư quá, thôi từ nay Chi không nói thế nữa đâu. Anh đừng giận Chi nữa nghe.

Và thế là bao nhiêu giận hờn cũng tan biến như thể băng tan khi mùa xuân đến, Ryo no Suke liền đáp :

-Đâu có, không phải tại Chi đâu, tại anh cũng bậy đó mà.

Ryo no Suke không biết em gái thì như thế nào, nhưng chàng nghĩ nếu mình có em gái thì chắc cũng dễ thương như thế này.

Chiyo nhí nhảnh trong tà áo yukata, vừa đè lên tay áo của Ryo no Suke vừa nói:

-Anh Ryo này, đêm qua Chi nằm mơ vui lắm, thấy anh học xong rồi ra làm quan, chức gì không biết, mà đội mũ cao, đi xe ngựa sơn đen bóng, ra vào tòa nhà xây kiểu Tây phương.

-Người ta bảo mộng một đằng, thực một nẻo. Vậy là điềm dữ rồi. Không chừng sẽ bị ngã ngựa đó.

Ryo no Suke cả cười nói vậy, thì Chiyo khẽ nhíu đôi mày ngài mà rằng:

-Anh chỉ nói gở! Hôm nay chủ nhật nhưng anh phải ở nhà, không được đi đâu đó nghe.

Chiyo nói nghe có vẻ mê tín dị đoan, không hợp với người theo tây học như Ryo no Suke, nhưng sự chân thật của Chiyo khiến chàng thấy lại đáng yêu.

Bên này đã thân thiết gần gũi, bên kia cũng chẳng chút ngại ngùng. Đời nhiều chuyện buồn phiền, nhưng giữa họ chưa hề có một mảy may nào âu lo, dù chỉ như giọt sương đọng nơi chót lá. Vào giữa tháng hai, khi mùa xuân còn tràn ngập tiếng cười và gió còn rơi rớt lạnh, họ rủ nhau đi xem hoa mơ chùa Tokudaiji, nhằm ngày chợ phiên Marishiten họp trong sân chùa. Tay cầm tay trong ống tay áo ấm áp, Chiyo giao hẹn:

-Anh Ryo, anh mà quên đã hứa gì là Chi giận đó nghe.

-Yên tâm đi, anh không quên mà. Để coi nào…À.. Mà cái gì ..nhỉ ?

-Thấy chưa !?Khi ra khỏi nhà Chi đã dặn đi dặn lại rồi, mà anh vẫn còn quên !

-Đúng rồi ! Anh nhớ ra rồi ! Chi muốn đi xem đồng hồ lên dây cót, có búp bê Ô Sichi biết cử động, phải không ?

-Dễ ghét ! Anh chỉ nói bừa..

-Hay là Chi muốn anh đi bắt sống con gấu dữ ở xứ Tanba về cho Chi ?

-Sao cũng được ! Thôi Chi về đây !

-Thôi, anh xin lỗi. Nẫy giờ anh nói đùa đó mà. Có khi nào tiểu thư Chiyo nhà Nakamura lại nhờ Ryo no Suke này mấy chuyện đó. Đúng ra là tiểu thư đã nhờ mua..mua…

-Thôi, Chi không cần thứ gì nữa hết !

-Đừng hờn lẫy, người ta biết làm sao bây giờ ? À, mà ..vừa đi đường vừa cãi nhau, thiên hạ họ cười chết!

-Chứ không phải tại anh cứ đùa giỡn…

-Thì anh đã xin lỗi Chi rồi. Chà, mải nói nẫy giờ mà đi qua hàng xén lúc nào không hay.

-Làm sao giờ .. Ở phía trước không biết có còn chỗ nào bán nữa ?

-Không biết. Mà này ! Chớ không phải là ai đó vừa mới nói “Không cần thứ gì nữa hết” đó sao ?

-Chi giao hẹn, không nói vậy nữa đó nghe!.

Hai người cứ chuyện trò như thế suốt dọc đường. Ryo no Suke bảo :

-Phía bên phố buôn có trồng nhiều cây, mình sang bên đó nghe.

Thế là Chiyo liền chạy theo, tiếng guốc rộn rã khua vang.

Người đàn bà mù gẩy đàn tì bà với bài hát xẩm ” Đời như bông hoa sớm nở tối tàn, như giọt sương ban mai tan trong khoảnh khắc ” nghe thật ai oán. Cạnh hàng bán kẹo mạch nha vừa ngọt vừa dẻo, với tiếng mời khách dẻo quẹo ” Ăn kẹo mạch nha hạt dẻ hôn…”, là quày hàng bán bánh đa xem-bê cứng còng mới nướng vừa nóng hổi vừa dòn tan, kể cũng vui.

-Chi xem kìa, cái thứ hai, phía bên trái.

-A, bông hoa màu đỏ phải không anh.

Chiyo đang mải nhìn, thì từ đằng sau có người vỗ vào lưng cô, gọi:

-Nakamura !

Chiyo giật mình quay lại, thấy một đám con gái, không biết nẫy giờ đã nhìn gì, mà họ bảo:

-Tình tứ quá há !

Một câu nói sỗ sàng không biết là từ cặp môi hoa nào vừa thốt, tiếp theo là một chuỗi tiếng cười dòn của mấy cô thiếu nữ. Rồi bọn họ bỏ đi, để lại cơn gió lạnh chiều hôm. Ryo no Suke nhìn theo, ngao ngán bảo:

-Ai vậy hả Chi ? Mấy bạn học ở trường à ? Nghịch dữ a !

Còn Chiyo thì cúi gầm, mặt đỏ au.




*
* *

Tìm đâu lại sự bình thản trong tâm hồn ngày qua, khi trái tim đã bắt đầu biết rung động để rồi xao xuyến mãi không thôi. Lời tròng ghẹo lửng lơ của mấy cô bạn hôm trước như đã in sâu vào tâm khảm, khiến hoang mang chẳng biết là sao nữa, nhưng hễ nhớ đến lại xao xuyến đến run rẩy cả châu thân. Từ khi đem lòng tưởng nhớ người ta thì hay ngượng ngùng, e sợ đủ điều. Sợ nói thế này người ta cười cho, sợ làm thế kia không biết người ta có ghét mình hay không. Thậm chí người ta chỉ hỏi thăm có vài câu, cũng ấp úng không đáp lại được. Chỉ những nghĩ quanh nghĩ quẩn điều kia nỗi nọ, cứ như người tối ngày lo lật chiếu rũ bụi. Mới hôm trước còn hồn nhiên “Gặp nhau nghe”, ” Cho xem nào “, tâm hồn lúc ấy còn hời hợt giản dị biết bao. Bây giờ không còn dám gọi người ta là “Anh bên đó ” hay “Anh Ryo” nữa. Mà không được nhắc đến người ta thì lại buồn. Nếu không giòng lệ tuôn rơi, làm sao dập tắt lòng ai lửa nồng. Suốt đêm chẳng chợp mắt được, nhớ đến nẫu cả người, rồi mơ màng thấy bóng người chập chờn mông lung. Người ấy dịu dàng đặt tay lên lưng hỏi:

-Chi đang nghĩ gì thế?

Đã toan muốn nói:

-Chỉ tại anh thôi.

Nhưng lại cúi mặt làm thinh. Người ấy lại bảo:

-Có chuyện gì mà giấu anh như thể người dưng vậy?

Nhìn bộ dạng thì chắc là ai mà chẳng biết nên người ấy hỏi:

-Chi đã thương ai rồi phải không? Ai mà có phước được Chi thương vậy ?

Làm mặt thản nhiên mà trách người ta thế, dễ ghét chưa kìa.

-Nếu mà cũng như người khác, thì đâu đến nỗi vóc hạc xương mai thế này. Anh xem đây.

Người ấy ấn nhẹ vào cánh tay chìa ra, rồi ôn tồn hỏi:

-Vậy chớ Chi thương ai ?

Lần này đã toan đáp lại, thì bỗng có tiếng chuông ban mai vang lên bên gối, mở mắt ra mới biết đó chỉ là giấc mộng.

Tiếng chim buổi sáng não nùng, chia tay giấc mộng tao phùng đêm qua. Tình chung buồn nỗi chia xa, tình riêng nuối tiếc xót xa một mình.

Mẹ nhìn mặt hỏi:

-Sáng nay con làm sao thế ? Sao sắc mặt ủ ê làm vậy ?

Dù mẹ làm sao biết được những gì trong mộng đêm qua, nhưng nghe mẹ hỏi, phải cố giấu sắc mặt đang đỏ ửng .

Ban ngày tay cầm kim thêu may mà lòng dạ rối bời, chỉ những muốn khâu kín lại cõi lòng đang ngổn ngang trăm mối. Lúc này thôi đừng thương nhớ nữa. Biết rồi có thành hay không mà nhớ với thương. Lỡ nói ra mà bị người ta hắt hủi thì xấu hổ chết, còn mặt mũi nào nhìn nhau nữa. Bởi coi như em gái, nên người ta mới cho gần cận, nuông chiều. Nếu là bạn đời, hẳn là người ta mơ một người con gái như thế nào kia chứ. Ngay cả đến mình cũng còn nghĩ rằng người được gọi là vợ anh hẳn phải là một trang giai nhân tuyệt sắc, văn chương tài nghệ, đàn địch giỏi giang, mới xứng đôi vừa lứa; huống hồ chính anh, chắc hẳn cũng nghĩ thế. Hở môi nói ra chi chuyện viển vông làm cho mối thâm tình bấy lâu hóa ra nhạt nhẽo cách xa, lúc ấy biết làm sao. Đừng mơ chi chuyện lứa đôi, cứ qua lại như tình anh em lâu nay, thì người ta chẳng nỡ ghét bỏ, còn được nghe lời nói dịu dàng, dù chỉ là người dưng. Đã nhủ lòng dứt mối tơ vương, mà lòng nào có chịu nghe cho, lệ lòng cứ chảy dài trên má, tơ lòng cố gỡ lại rối bời.

Cũng tại người ta quá dịu dàng. Phải chi người ta hờ hững lạnh lùng thì mình đã dứt tình được rồi. Nhưng không dứt được, là tại mình hay tại người nhỉ? Càng thương lại càng giận. Không còn muốn nghe tiếng nói, không còn muốn nhìn thấy dáng hình, bởi hễ nghe tiếng thấy hình thì lại càng thêm thương nhớ, nỗi nhớ thương nung nấu cả tâm can.

Phải chi người ta chẳng đoái hoài, rẻ rúng, hẳn là đã chẳng buồn chẳng khổ. Dù có phải đau lòng, nhưng chẳng thà hai bên như nước với lửa kị nhau, thế mà lòng trí lại thảnh thơi. Được rồi ! Kể từ hôm nay sẽ không gặp, không nói chuyện nữa. Nếu vì thế mà người ta sinh ra phật ý thì đúng là cầu được ước thấy còn gì. Lòng đã quyết như thế rồi, mà chỉ mới vừa nghe có tiếng bên nhà bên vọng sang, đã lại xiêu lòng ngày, lại nhớ thương và nôn nao mong gặp.

Nhưng nhớ và thương cũng chỉ một mình mình biết, ai nào có hay. Người ta vẫn còn nhìn đời bằng ánh mắt vô tư, lòng không chút tơ vương, đâu biết trên đời này có người yêu mình. Người ta không biết nên không thể hiểu được nỗi lòng u uẩn của ai đó. Đàn ông vô tâm cười nói vui vẻ như thế thì biết nói gì đây, cứ nghĩ tới ngày sau mà buồn duyên tủi phận, mùa xuân đâu rồi để hoa xuân không nở, chỉ có vạt cỏ non mới mọc vươn qua hàng rào.




*
* *

-Hôm nay Chi có thấy khỏe hơn chút nào không ?

Ryo no Suke đẩy chiếc bình phong có hai cánh sang một bên, bước vào ngồi xuống bên gối, khiến Chiyo e thẹn vì mái tóc rối bỏ xõa chưa chải, chống tay toan ngồi dậy, để lộ cánh tay gầy guộc.

-Chi phải nằm nghỉ mới được. Khi đau ốm thì phải nằm chứ có chi đâu mà ngại. Còn nếu Chi muốn ngồi dậy một chút thì hãy dựa vào người anh cho khỏi mệt.

Ryo no Suke vừa nói vừa nâng Chiyo ngồi lên.

-Anh Ryo, bây giờ đang mùa thi, phải không ạ?

-Ờ, đúng rồi.

-Đang mùa thi mà anh sang thăm Chi, có sao không?

-Chi lo gì chuyện đó. Đang đau mà lo nghĩ làm chi cho mệt.

-Sợ làm phiền anh.

-Có gì mà phiền với hà ! Chi không phải lo chuyện gì hết, hãy ráng cho mau lành bệnh.

-Cảm ơn anh đã lo cho Chi. Nhưng bệnh của Chi không khỏi đâu.

-Lại nói bậy nà ! Nghĩ quẩn thế thì bệnh còn dây dưa, làm sao khỏi được, cha mẹ lo biết chừng nào. Chi là đứa con hiếu thảo mà nói vậy là không được đó nghe.

-Nhưng bệnh của Chi không thể nào khỏi được mà.

Chiyo nói một cách tuyệt vọng, đôi mắt đăm đăm nhìn Ryo no Suke mà long lanh ngấn lệ. Tuy ngoài miệng Ryo no Suke bảo Chiyo là ” Chỉ nói gở !”, nhưng chàng cũng nghĩ như mọi người rằng bệnh của Chiyo khó mà lành được. Mỗi ngày Chiyo lại gầy xọp hẳn đi. Đôi má lúm đồng tiền xinh xắn giờ đã lõm sâu xuống, làn da trắng nõn mọi ngày nay nhợt nhạt xanh xao. Mái tóc đen nhánh như có xoa dầu không còn óng ả nữa. Ai trông thấy hình dáng tiều tụy ấy mà không xót xa, huống hồ Ryo no Suke thì còn đau lòng hơn nữa.

Chiyo mặc một chiếc áo đã nhàu có in những bông hoa nhỏ, thắt lưng màu hồng nhạt buộc lại thành chiếc nơ trước bụng. Ryo no Suke không biết chàng còn được trông thấy hình dáng ấy được bao ngày nữa.

Bao nhiêu năm tháng thân cận bên nhau nửa bước chẳng rời, mà sao ta không hiểu được thấu đáy lòng nàng. Tối qua mới nghe cô giúp việc Ô Fuku vừa khóc vừa kể lại rằng trong lúc mê sảng Chiyo đã không ngớt gọi tên mình. “Cũng tại cậu mà cô Chiyo bị ốm”, bị nói thế cũng là đáng lắm. Giận cho mình sao không hay biết gì cả, mà cũng giận ai kia đã chôn chặt nỗi niềm riêng.

Sáng nay khi Ryo no Suke sang thăm, Chiyo đã tháo chiếc nhẫn bị lỏng ra trên ngón tay gầy guộc, đưa cho Ryo no Suke, khẽ cười buồn mà rằng:

-Anh giữ cái này làm kỷ niệm của Chi.

Phải chi Ryo no Suke sớm hiểu được tấm tình của nàng thì Chiyo đâu đến nỗi tiều tụy đến như thế. Chàng thấy mình thật nặng tội, ánh mắt nhìn như muốn bảo bọc che chở cho Chiyo, thì nàng lại thều thào hỏi:

-Anh Ryo, anh đã đeo chiếc nhẫn Chi đưa anh sáng nay chưa ?

Ryo no Suke thấy nghèn nghẹn nơi ngực, không nói được lời nào, cứ lặng thinh mà đưa bàn tay trái ra. Chiyo kéo bàn tay ấy lại gần mình, đăm đăm nhìn.

-Anh hãy xem cái nhẫn này như chính em.

Dường như Chiyo muốn nói thế nhưng vẫn không nói lời nào, nước mắt đoanh tròng rồi cứ thế úp mặt xuống gối,

-Chi mệt lắm phải không? Ô Fuku đâu, lấy thuốc cho cô uống nào. Chi làm sao vậy ? Sắc mặt sao xanh quá. Bác ơi, bác lại xem, Chi làm sao rồi ạ !

Ryo no Suke hoảng hốt gọi. Me Chiyo đang tụng kinh cầu nguyện ở phòng bên cạnh và Ô Fuku đang đi lấy nước để lên bàn thờ, cũng hớt hơ hớt hải chạy lại bên gối. Chiyo mở đôi mắt đang nhắm nghiền ra hỏi:

-Anh Ryo …

-Anh Ryo đang ở bên gối con, ở bên phải con kia kìa.

-Mẹ ơi, mẹ bảo anh Ryo về đi nhé.

-Sao vậy hả Chi ? Anh ở đây có phiền gì cho Chi sao ? anh ở đây cũng có sao đâu.

Nhưng Chiyo vẫn bảo:

-Ô Fuku thưa với cậu dùm cô, xin cậu hãy về đi.

-Sao cô lại nói vậy ? Nãy giờ cậu Ryo vẫn ở bên cạnh cô. Nếu cô thấy mệt thì để con lấy thuốc cho cô uống. Cô gọi bà à ? Bà đang ở sau lưng cậu Ryo đó ạ..

-Mẹ đang ở đây con ạ. Mẹ đây, con nhận ra không ? Mẹ cũng đã cho người gọi cha về với con rồi. Con hãy gắng uống một ngụm thuốc này đi.. Sao thế ? Con thấy tức ngực à ? Phải vậy không ? Trời ơi, mồ hôi ra đầm đìa..Ô Fuku ! Chạy đi mời ông lang tới nhanh lên nào ! Ông ơi, ông đừng đứng đó mà lại đây, làm sao dùm tôi đi ông. Cháu Ryo ! Cháu đưa dùm cho bác cái khăn kia..Con muốn nói gì hả con? Bảo cậu Ryo vui lòng ra về đừng ở lại đây nữa, hả ? Được rồi, để mẹ bảo. Cháu Ryo à, Chiyo nó nói như vậy đó.

Người mẹ đau khổ cuống quýt theo hơi thở dốc mỗi lúc một dồn dập của con gái, trong phút chốc sắc mặt Chiyo nhợt hẳn.

Chắc là không qua khỏi đêm nay. Ryo no Suke không đành lòng ra về lúc này, nhưng nghĩ thương cho Chiyo đến lúc sắp lìa đời vẫn còn giữ gìn ý tứ, nên chàng bèn bước vài bước ra phía ngoài tấm bình phong. Tức thì có tiếng Chiyo, mong manh như tơ trời, vọng ra từ phía sau tấm bình phong:

-Anh Ryo …

-Gì hả Chi ?

-Mai này Chi sẽ xin tạ lỗi cùng anh.

Trời không gió mà từng cánh hoa anh đào nhẹ rơi ngoài đầu hiên, và có tiếng chuông vang lên trong bầu trời đêm.




DTTM (Quỳnh Chi)
dịch theo nguyên tác Yamizakura (23/3/1892 ) của Higuchi Ichiyo.
(04/2010)


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhch … ongdem.htm

Mẩu giấy vụn

Shihen
tác giả Hoshi Shinichi – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

______________________________________________________________

Trời về chiều, cảnh vật chung quanh mỗi lúc một chìm vào bóng chiều đang mờ tối dần. Viên cảnh sát chợt cảm thấy nơi người đàn ông đang đi trên con đường vắng vẻ thưa thớt bóng người kia có một vẻ gì bất thường, bèn lên tiếng gọi:

-Này ..này..

Tức thì, người đàn ông ấy quay lại, nhưng không hiểu vì sao anh ta lại xanh mặt, ra chiều hết sức hoảng hốt, rồi bỏ chạy.

-Tên này khả nghi thật ! Đứng lại nào!

Viên cảnh sát đuổi theo mãi mới bắt kịp người đàn ông. Anh ta vùng vẫy kháng cự .

-Cái gì mới được chứ ! Tôi có làm gì đâu nào mà sao lại bị đuổi theo ?

-Là vì mi bỗng dưng bỏ chạy. Nghe cảnh sát gọi mà bỏ chạy ắt là phải có lý do gì !

– Không có lý do gì cả. Vì tưởng là bọn trấn lột nên tôi mới bỏ chạy.

-Nếu bỏ chạy mà không dám quay đầu lại thì nói thế nghe còn được. Đằng này biết là cảnh sát rồi mà vẫn bỏ chạy đấy là gì. Vào đồn cảnh sát một chút coi nào, ta không làm mất nhiều thì giờ của anh đâu.

Người đàn ông lầu bầu nói gì đó, nhưng viên cảnh sát cứ thế điệu anh ta về đồn rồi bắt đầu tra hỏi. Người đàn ông trả lời cho biết địa chỉ và tên tuổi.

-Tôi không làm điều gì gian dối cả. Tôi là một công dân lương thiện.

-Nếu thế, tại sao lại hoảng hốt. Hà hà. Xem nào, chắc là có đem theo vũ khí đây. Lấy hết những thứ đem theo trong người ra đây xem nào !

-Tôi không đem theo thứ gì là vũ khí cả !

Người đàn ông lấy hết các thứ trong túi ra bầy trên bàn. Bút máy, khăn mùi xoa, thuốc lá, ví tiền..Không có thứ gì khả nghi. Thế nhưng, bằng kinh nghiệm lâu năm trong nghề, viên cảnh sát đã nhận ra hơi hướm đặc biệt của kẻ phạm pháp toát ra từ gã đàn ông này. Viên cảnh sát ngoẹo đầu ra dáng hồ nghi, bất giác cầm chiếc ví tiền lên mở ra xem. Trong ấy còn có một mẩu giấy. Mở ra thì thấy có hình như là bản đồ vẽ một góc phố bằng nét bút chì nguệch ngoạc. Hình vẽ một góc phố có thể có ở bất cứ nơi nào như có thùng thư bưu điện, các cửa hiệu như hiệu bán mỹ phẩm, hiệu trái cây. Nhưng trong dẫy phố ấy có một căn nhà đánh dấu X có vẻ đặc biệt lắm.

-Anh kia, bản đồ gì thế này ?

Được chìa cho xem hình vẽ, người đàn ông lại có vẻ hớt hơ hớt hải

-À, à ..Không có gì đâu ạ.

Giọng điệu ấp úng ấy càng khơi thêm nỗi nghi hoặc nơi viên cảnh sát.

-Thì anh hãy giải thích đi nào. Chỉ cần giải thích cho rõ cái này xong là anh được về. Bản đồ vẽ nơi nào, để dùng vào việc gì, hả ?

-À, à..đây là

-Anh hãy khai ra. Nếu là chuyện đàn bà hay chuyện gì không thể nói với ai được, chúng tôi sẽ tuyệt đối giữ kín không để lọt ra ngoài cho anh. Nhưng anh hãy giúp chúng tôi làm việc.

-À à …Tôi quên mất rồi.

-Cái này đâu có cũ đến nỗi đã quên được. Anh cũng đâu có vẻ bị bệnh quên. Có chuyện gì mà anh không thể khai được, hả ?

-Vâng, tôi không khai được.

Viên cảnh sát đành bó tay, bèn thử bàn với các đồng nghiệp. Mọi người nói:

-Không chừng có dính líu đến giết người hay đốt nhà gì đây. Dĩ nhiên đó chỉ là giả thiết những trường hợp tồi tệ nhất. Nếu thủ phạm nhắm vào căn nhà đó, thì cho dù có bị giam bao nhiêu ngày, chắc chắn là hắn cũng không chịu khai ra đâu.

-Cũng có thể là như thế lắm. Cố tình vẽ thật nguệch ngoạc có lẽ là để giấu cho không bị lộ bút tích đấy.

-Tóm lại dù thế nào cũng phải tìm ngay ra căn nhà trong bàn đồ. Hễ chùng chình thì dám xảy ra án mạng kế tiếp lắm! Hoặc là sau khi chúng đã đặt xong bom nổ chậm rồi thì …

Để đề phòng sự thể có khả năng muôn một ấy có thể xảy ra, lệnh được truyền đi ngay tức khắc cho các ty cảnh sát là phải tìm cho được khu phố đã được vẽ trong bản đồ này. Bản đồ đã được sao chụp lại và phân phát cho các nơi.

Có nhiều khu phố có nào là thùng thư bưu điện, nào là hiệu trái cây, đại loại các hàng quán như thế này lắm, thế nhưng tìm mãi vẫn chẳng thấy ở đâu một dẫy phố với các hàng quán ở cạnh nhau giống hệt như trong bản đồ này. Ty cảnh sát nào cũng chia người lo tìm, và đối chiếu với bản đồ chi tiết khu phố mà họ có phận sự canh gác.

Thế rồi họ cũng tìm ta một khu phố giống hệt như thế. Viên cảnh sát hối hả tìm tới căn nhà trên bản đồ có đánh dấu x. Tới nơi thì thấy đó chỉ là một hiệu bánh bình thường.

– Ngôi nhà vẽ trong bản đồ này là hiệu bánh của ông đây phải không ạ ?

Nghe viên cảnh sát hỏi, chủ hiệu bánh vừa nhìn vào bản đồ vừa ngoẹo cổ ra chiều ngờ vực

-Hình như là thế. Nhưng bản đồ này là như thế nào ạ??

-À, đây là của một người đàn ông khả nghi, mà hỏi thì hắn nhất định không khai. Ông thử nhớ lại xem có bị ai thù oán gì không ?

-Không có ai thù hằn gì tôi hết. Tôi cũng muốn thử bị ai thù một lần cho biết nữa là khác đây ạ !

Nét mặt chủ hiệu bánh lộ vẻ nghi hoặc. Còn viên cảnh sát thì không biết phải làm sao nữa.

Vừa đúng lúc ấy, có một đứa bé bước vào hiệu hỏi mua:

-Cho cháu một cái kem.

Nhưng ông chủ hiệu và viên cảnh sát vẫn lặng thinh vì đang mải nhìn nhau, nên thằng bé mới hỏi:

-Ông cảnh sát ơi, có chuyện gì thế ạ ?

Rồi nó nhìn vào mảnh giấy và bỗng kêu lên ” Ơ, cái bản đồ này của cháu vẽ ! “

-Ủa, cháu vẽ bản đồ này à. Cháu vẽ để làm gì thế ?

-Sáng nay cháu vẽ để đưa cho bố. Cháu đã dặn bố là nhớ mua kem đem về cho cháu. Nhưng mãi không thấy bố đem về nên cháu đành phải đi mua đây ạ !

-Tưởng gì ! Chỉ có thế sao !

Cánh cảnh sát đang hăm hở điều tra có vẻ hơi thất vọng vì sự thực bất ngờ này. Nhưng dù sao thì cũng còn một điều an ủi, là họ đã tóm được tên móc túi.



DTTM (Quỳnh Chi)
dịch theo nguyên tác Shihen của Hoshi Shinichi.
(24/5/2009)


http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychn090.htm

Cây đàn Chiyomaru

Chiyomaru
tác giả Miyao Tomiko – dịch giả DTTM Quỳnh Chi

____________________________________________

Dưới bầu trời đầy sao lấp lánh như những mảnh băng vụn vỡ rải trên nền trời, trong cái lạnh thấu xương về khuya, Etsuko vẫn đứng trầm ngâm giờ lâu trên chiếc cầu bắc ngang sông Kuma.

Chung quanh đồng không mông quạnh. Chiếc hộp da xách nơi tay là hộp đựng cây đàn shamisen đặc biệt gồm ba phần được nối lại. Vừa nẫy Etsuko đã đem đến hiệu cầm đồ ở bên kia sông, khẽ đẩy cánh cửa chấn song sang một bên bước vào dưới ánh đèn tù mù đến tức tưởi, lặng lẽ chìa cái hộp đàn ấy cho bà chủ hiệu mái tóc lơ thơ, dù đã gặp mặt vài lần xong vẫn không ưa nổi, bị bà ném cho một cái nhìn soi mói, đoạn thò tay nhấc đàn lên xem, bảo:

-Ối giời ơi! Cái này bị gẫy mà!

Rồi bà gạt đi, bảo:

-Thế mà cũng cầm với cố hả? Dù chỉ một nghìn yên, đây cũng không bỏ ra đâu!

Cái giọng đanh đá thì hàng ngày vẫn vậy, xong bà ta còn bồi thêm:

-Đây là chỗ làm ăn chứ không phải chuyện đùa. Làm ơn biết nghĩ cho người ta nhờ với!

Ý bà ta muốn bảo Etsuko rằng nếu có muốn mượn tiền, thì phải đem cầm món gì còn có giá trị cho bà ta còn làm ăn được.

Thật ra, nào phải là đàn bị gẫy, vì đó là loại đàn shamisen gấp lại được, nên chỉ cần lắp lại là thành chiếc đàn nguyên vẹn hẳn hoi. Nếu Etsuko giải thích cho bà chủ hiểu rằng đấy là chiếc đàn đã một thời nổi tiếng là đàn quý trong xóm geisha, thì có lẽ bà ta đã nghĩ lại, thế nhưng Etsuko không nói một lời, lại cất đàn vào hộp.

Etsuko không biết làm gì ra tiền cả, mà cách tiêu pha thì vẫn như xưa. Với cuộc sống như thế, thì không có cách nào hơn là cứ bán dần bán mòn hết hết thứ này đến thứ khác trong nhà để sống qua ngày. Cho đến nay, Etsuko đã đem không biết bao nhiêu thứ đến cầm ở hiệu cầm đồ của bà chủ này. Etsuko còn nhớ lần đầu tiên, bà tiếp Etsuko rất lễ độ.

-Xem ra thì cô đây là chỗ cao sang, chẳng may sa sút ra nông nỗi này phải không ạ?

Và bà đã trả cho đến mấy tờ bạc, làm Etsuko sung sướng quá, hết sức biết ơn bà như thể thấy có ánh hào quang phát ra từ người bà.

Sau đó, Etsuko đã dành một phần trong số tiền cầm được món đồ ấy đem mua bánh, rồi ăn mặc chỉnh tề đem đến biếu bà chủ hiệu cầm đồ để tạ ơn. Bà ta ngớ người ra chòng chọc nhìn Etsuko mà lẩm bẩm:

-Tôi làm nghề cầm đồ đã ba mươi năm nay, chưa gặp người khách nào như thế này cả.

Xong cũng vì qua đó đoán biết được Etsuko khờ khạo, không phải là người lõi đời, nên về sau dần dà bà ta trở mặt hống hách với Etsuko.

Tuy vậy Etsuko cũng chẳng biết trông cậy vào đâu, chỉ biết đành đem các thứ đến cầm ở hiệu của bà ta. Ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc mà trong túi không còn một đồng một chữ, nợ như chúa chổm, đêm hôm khuya khoắt phải trốn nợ, chạy ra đến chiếc cầu trên sông Kuma này.

Cái cảnh cầm cố không mong chuộc lại được ấy bắt đầu từ những vật nho nhỏ như chiếc nhẫn, cái đồng hồ, dần dà thôi thì bất cứ cái gì kể cả những đồ đạc tối thiểu cần dùng trong nhà cũng khuân đi hết, cuối cùng đến máy điều hòa không khí cũng lấy dao gỡ ống thông hơi khuân đi nốt, trong nhà gần như là rỗng tuếch chẳng còn gì, chẳng thấy còn có cái gì còn đem đi cầm được nữa. Đứng giữa căn nhà trống trải đưa mắt nhìn quanh, tất cả mọi thứ lọt vào mắt đều đã lần lượt ra đi để đổi lấy tiền, cuối cùng chỉ còn lại mỗi một thứ, là chiếc đàn shamisen này.

Những bức liễn, những một món đồ trang hoàng đặt trên nền nhà đều đã bị đem đi hết cả, chỉ còn độc một chiếc đàn shamisen như được giấu kín, để khuất trong góc nhà. Biết bao lần Etsuko đã nhìn chiếc đàn với ánh mắt trần tục thèm thuồng. Mỗi lần như thế, Etsuko phải cố dằn lại, giằng co trong cơn tuyệt vọng, để lấy lại tinh thần rằng” Vẫn còn có nó”, vì đến cả cái này mà cũng bán đi nốt thì thế là hết.

Tết năm nay, cái tết Etsuko vừa được tứ tuần, gắng gượng lắm cũng chỉ được đến hết ngày mồng năm. Sáng hôm ấy, Etsuko đành phải dứt lòng mặc cho lương tâm cắn rứt, cầm cây đàn shamisen lên.

Vào hôm cuối năm, cuối cùng Etsuko đã định bụng sẽ trả nhà, để từ ngày mồng sáu tết sẽ lẳng lặng ra đi không cho ai biết. Và đã ra nông nỗi này, thì đành phải thu xếp chuyện cây đàn cho ra đâu vào đấy.

Hộp đàn bên trong lót nhung màu xanh lục thật chu đáo, Etsuko lấy cần đàn trong hộp ra lắp vào thùng đàn, cài chốt lại, đoạn lấy lụa đỏ cẩn thận lau đàn. Cần đàn bằng gỗ sưa đỏ, phấn đầu cần đàn bằng ngà voi, thùng đàn bằng gỗ gụ, là một tuyệt phẩm công phu, càng được lau chùi, những đường vân gỗ chìm sâu càng hiện ra rõ rệt. Phủ miếng gấm lên thùng đàn một đầu bịt da, lấy ba sợi dây đàn cất trong hộp ra mắc vào, thế là chiếc đàn shamisen hiện nguyên hình là chiếc đàn quý đã từng một thời oanh liệt, đã từng được biết bao người ngưỡng mộ. Những kỷ niệm về cây đàn lại hiện lên. Etsuko đặt đàn lên đùi, lấy móng tay gẩy thử mấy tiếng. Tiếng đàn vang lên trong trẻo, và vẫn còn mạnh không ngờ dù chiếc đàn đã bị cất trong hộp bấy lâu.

Cha Etsuko là chủ hiệu Matsuzaki chuyên nghề môi giới dẫn geisha cho khách, trong nhà lúc nào cũng có treo ba chiếc đàn shamisen trên giá gỗ khoét hình đàn shamisen, trong thùng đàn lúc nào cũng nhồi vải bông chirimen hút ẩm, từ khi còn bé Etsuko đã biết trong đó có một chiếc có biệt hiệu là Chiyomaru. Cửa hiệu là nơi thương thảo, gặp gỡ giữa các cô geisha của hiệu và chủ các tửu lầu muốn thuê họ, những người này sẽ xem tài sắc của geisha mà định giá tiền. Người ta đồn rằng lúc ấy cô geisha nào mà mượn đàn Chiyomaru để gẩy thì tiếng đàn nghe rất hay, làm người chủ tửu lầu say sưa theo tiếng đàn rồi thế nào cũng trả giá rất cao. Tiếng tăm của Chiyomaru nổi như cồn, nên các geisha xin vào hiệu Matsuzaki rất đông.

Có người dù không xin vào hiệu Matsuzaki, nhưng nghe đồn Chiyomaru là chiếc đàn shamisen rất hay thì muốn được đàn thử, cứ sắp tới buổi phô diễn tài năng của các geisha, thì tìm tới mà rằng

-Làm ơn cho tôi mượn Chiyomaru một tí có được không?

Các cô geisha tìm tới hiệu Matsuzaki không ngớt, khiến cho những bác trai làm công trong hiệu ra oai cao giọng bảo:

-Đàn shamisen cũng giống như vợ nhà người ta. Ông chủ đã dùng lâu năm mới thành chiếc đàn hay, có ai lại đem cho người khác mượn, hả? Thôi, đi đi!

Mà đuổi họ đi. Nếu đúng như lời họ, thì Chiyomaru là chiếc đàn dành riêng cho cha mình, thảo nào bốn cô học nghề geisha trong nhà cũng không được đụng đến, quả là chỉ khi nào dùng để đàn cho khách nghe mới được lấy xuống.

Vả lại thông thường thì sáo hay trống mới được đặt tên, chứ đàn shamisen mà được có tên riêng như Chiyomaru thì quả là chưa nghe nói bao giờ. Hơn nữa, tên gọi Chiyomaru khiến ta nghĩ tới nghệ danh của kỹ nữ, biết đâu do duyên cớ nào đấy mà đó là kỷ vật của một danh cầm thủ shamisen đã khuất, với cha mình.

Thông thường tiếng đàn shamisen hay hay không là do người đàn chứ không phải là do người làm ra chiếc đàn, cho dù đó chỉ là chiếc đàn xoàng xĩnh chỉ dùng để tập đàn, nhưng nếu yêu đàn ngày ngày đem ra tập không nghỉ hôm nào, thì tiếng đàn còn hay hơn cả là tiếng đàn quý mà chẳng mấy khi được đem ra gảy.

Vào cái dạo Etsuko còn đang học lớp ba lớp nhì tiểu học, theo tục lệ vào tối hôm trước ngày rằm tháng giêng âm lịch có người hóa trang làm thần đến các nhà xin bánh dầy về nấu cháo, tất cả các cô học nghề geisha ở trong hiệu cùng với các bác làm công, các cô giúp việc, và cả những người hay ra vào hiệu Matsuzaki, đều quây quần lại ăn chè, với cơm sushi của thần ban phát cho, và mải mê chơi bài, chơi súc sắc, Etsuko chợt cao hứng bảo

-Cho em mượn cái đàn shamisen một tí.

thì liền được trao cho cây đàn của một cô học nghề geisha ở trong hiệu đang dùng để tập đàn.

Dạo ấy, Etsuko đang mải mê tập đàn piano, nên có ngó ngàng gì đến đàn shamisen đâu. Xong Etsuko cũng bắt chước bộ điệu đặt đàn shamisen lên đùi, miệng ngập ngừng hát một làn điệu đã từng nghe, tay lần gẩy đàn.

Từ non cao đến vực sâu
Dưa cà đều nở hoa màu tốt tươi

Lạ thay, đây là lần đầu tiên Etsuko đặt tay lên đàn shamisen, ấy thế mà tiếng đàn phát ra nghe cũng ra trò hẳn hoi.

Mọi người xung quanh xôn xao cả lên, khen lấy khen để, bảo “Bé Etsuko chưa hề tập đàn shamisen bao giờ mà lại gẩy được bài Núi cao”.

Thấy thế, cha Etsuko bèn đứng dậy lấy đàn Chiyomaru xuống, đưa cho Etsuko, mà bảo rằng

-Con đàn thử xem nào.

Etsuko chỉ định đàn chơi, như thể chơi búp bê hay chơi nấu đồ hàng, không ngờ mà lại bấm đúng nốt cao thấp hẳn hoi, làm cô thích quá lại muốn thử tiếp, bèn đặt Chiyomaru lên đùi, tay phải cầm chiếc móng gỗ lên để gẩy đàn.

Tức thì các điệu hát mà các cô geisha vẫn tập đàn hàng ngày mà Etsuko vẫn nghe tai này bỏ tai kia chẳng buồn để ý hay thuộc làm gì, bỗng tuôn ra trong đầu, trong đó có bài “Tinh Tinh” * rất dài khó gấp mấy lần bài “Núi cao”, nhưng tuy là phải mò mẫm, vấp lên vấp xuống, nhịp thì không nói làm gì, thế mà rồi cũng gẩy được đúng điệu.

Nghĩ cho cùng, tai nghe tiếng đàn shamisen vang lên hầu như suốt ngày trong nhà, Etsuko đã thuộc lòng lúc nào không biết cũng là chuyện đương nhiên, lại thêm hàng ngày tập đàn piano, nên tuy mới lần đầu cầm đàn shamisen đã đàn được thì cũng không phải là lạ lắm, nhưng mọi người xung quanh trầm trồ tán thưởng, làm Etsuko xiêu lòng, từ đấy trở đi đâm ra thích đàn shamisen hơn bất kỳ loại nhạc cụ nào. Tuy thế Etsuko cũng không theo học với thầy dậy đàn, mà chỉ nghe tiếng đàn cho đến khi thuộc lòng, rồi tập lấy một mình, chẳng bao lâu đã thuộc hầu hết những bản nhạc mà bốn cô học nghề geisha ở trong hiệu vẫn đàn.

Những lúc một mình tập đàn như thế, tuy còn là trẻ con và chẳng biết gì về âm nhạc, xong Etsuko cũng cảm nhận được rõ ràng rằng gẩy chiếc đàn shamisen bình thường chỉ để tập đàn, với gẩy đàn Chiyomaru, khác nhau nhiều lắm.

Gẩy đàn shamisen bình thường phải vừa nhớ làn điệu vừa lần từng nốt nhạc, còn gẩy đàn Chiyomaru thì cứ như đang trên chiếc thuyền bềnh bồng trôi theo sóng êm biển lặng, tiếng đàn như thể cứ tự rung lên không hề lạc điệu. Chiếc đàn, dù chỉ lập đi lập lại một âm thanh đơn điệu, nếu không khiến người gẩy đàn trong lòng thấy thích thú thì người ấy sẽ không nghĩ rằng mình giỏi, nhưng đàn Chiyomaru thì hễ cầm lên gảy là Etsuko cảm thấy say mê quên hết mọi chuyện, đến nỗi nhiều lần bị cha bắt gặp, vì cha vẫn cấm, nếu không được phép thì không được sờ vào Chiyomaru. Đôi khi Etsuko cũng ngẫm nghĩ tự hỏi tại sao mình lại thích Chiyomaru đến vậy, rồi hiểu ra rằng tóm lại tuy cũng đàn như thế thôi nhưng Chiyomaru phát ra tiếng đàn hay, không một chiếc đàn shamisen nào sánh bằng, và tiếng đàn hay có nghĩa là người đàn giỏi, có sức lôi cuốn làm cho người đàn say sưa tự mãn.

Tuy vậy, vì là học lỏm nên Etsuko đàn chỉ để tiêu khiển một mình, chứ chưa đến mức có thể đàn cho ai nghe được. Các cô học nghề geisha ở trong hiệu học xong bậc tiểu học thì lần lượt trở thành geisha và rời khỏi nhà. Thế rồi chiến tranh ngày càng trở nên khốc liệt, đó là thời kỳ các chủ tửu lầu và các cô geisha bỏ bớt lệ phải gặp mặt nhau, việc môi giới dựa vào tin cậy chỉ cần ảnh và tờ lý lịch, trong hiệu vắng bặt tiếng đàn shamisen. Etsuko cũng ngày càng lớn, càng có ý hổ thẹn vì cái nghề dẫn mối geisha của gia đình, cho nên cũng chẳng ngó ngàng đến những thứ đàn địch để gẩy những bài hát dưới ngọn đèn hồng trong giới làng chơi như thế, và đã xa lánh hẳn Chiyomaru.

Từ cuối cuộc chiến Thái Bình Dương cho đến khi chiến tranh kết thúc, Etsuko cũng bước vào cuộc đời đầy sóng gió, lấy chồng, sinh con, sang Mãn Châu, rồi sống trong trại tị nạn, khi chiến tranh kết thúc suýt chết mới về được đến Nhật, nương náu nơi gia đình nhà chồng vốn làm nghề nông chỉ còn mẹ chồng một tay vun xới ruộng vườn.

Cái ăn cái uống thiếu thốn, lại không quen việc nhà nông, nên Etsuko bị bệnh ho lao cũng là điều đương nhiên. Etsuko vẫn còn nhớ rõ mồn một cái cảm giác tuyệt vọng tối tăm cũng như buồng phổi bị nám đen ngòm của mình, vào ngày được nghe báo cho biết tên bệnh tại một phòng mạch nhỏ trong phố. Thời ấy chưa có thuốc hay, nghe bảo rằng cách duy nhất để bình phục là tuân thủ ba nguyên tắc hít thở không khí, tẩm bổ và nghỉ ngơi, còn thì cầu xin Trời Phật phù hộ. Etsuko thấy nuối tiếc cho mình đã chịu đựng cam khổ trong trại tị nạn rồi may mắn tìm đường về được đến Nhật mà nay sẽ phải tuyệt mệnh vì bệnh tật.

Chữa bệnh thì tháng tháng một lần tay dắt đứa con gái đầu lỏng mới lên ba ra phòng mạch ngoài phố, được tiêm cho một mũi thuốc calcium, mà hễ vừa tiêm xong là khắp người cho đến cả mồm miệng cũng nóng bừng lên. Còn thì ngày ngày hết ngủ lại thức dậy trên gác nhà kho, để thấy cái chết dù muốn dù không cứ lừng lững tiến đến trước mặt mình từng giây khắc một. Không thuốc men, không có gì tẩm bổ, cũng chẳng được an dưỡng, không lúc nào không khắc khoải với ý nghĩ số phận mình là phải đối diện với cái chết, khiến Etsuko hết sức đau lòng. Những ngày cứ hâm hẩm sốt liên miên Etsuko lại cầu Trời khấn Phật xin cho được chết phứt đi cho rảnh, nhưng bình tâm nghĩ lại thấy thương con gái sẽ mồ côi mẹ, Etsuko lại thành kẻ ham sống dù chỉ thêm một ngày, lòng phiền muộn rối bời ngổn ngang trăm mối.

Trong những ngày tháng ấy, một hôm ở phòng mạch về, Etsuko đến thăm cha vẫn sống trong căn nhà nhỏ trên núi từ thời loạn lạc phải sơ tán đến đây. Etsuko đang kể lể bệnh tình cho cha nghe, bỗng đưa mắt nhìn vào góc phòng, thấy có một cái hộp hình thù hơi lạ, bèn hỏi thăm, thì hóa ra đó là chiếc hộp đựng đàn Chiyomaru.

Cha kể rằng sau khi Etsuko sang Tàu, thành phố Kochi đã bị oanh tạc, hiệu Matsuzaki cũng bị cháy rụi, chỉ còn mỗi cây đàn này là thoát nạn, nhờ đã được cho vào hộp đem cất trong chiếc chòi trên núi này. Trong những năm tháng Etsuko sang Mãn Châu sống xa nước Nhật, Etsuko thấy nhớ mọi kỷ niệm thân thương ngày trước, nên quên bẵng là đã có thời mình rất ghét đàn shamisen, liền mở nắp hộp ra, nâng chiếc đàn lên xem, thì tuy đã được tháo ra thành ba đoạn, nhưng quả đúng là chiếc Chiyomaru ngày xưa vẫn được gác trên giá để đàn shamisen.

Etsuko đưa bàn tay gầy gò bệnh hoạn run run lắp chiếc đàn trở lại nguyên hình dáng cũ, và gảy thử vài tiếng, thì quả đúng là Chiyomaru, tiếng đàn vẫn tuyệt vời đến phải vỗ tay khen thưởng. Nghe tiếng đàn ấy, Estsuko không muốn rời xa nó nữa. bèn hỏi cha:

-Thưa cha, cha cho con xin Chiyomaru được không ạ?

Cha Etsuko gật đầu “Ờ” một tiếng rồi im lặng hồi lâu.

Etsuko nhận ra là tóc cha đã bạc đi nhiều, lòng hơi hối hận vì mình vòi vĩnh làm phiền lòng cha, thì ông khẽ đằng hắng, bảo:

-Khi nghe tin con bị bệnh, cha đã nghĩ bụng hay là đem Chiyomaru đi thăm con để con đàn cho khuây khỏa thì còn gì bằng, nhưng rồi nghĩ kỹ lại, cha thấy nhà chồng con làm nông, chẳng lẽ mẹ chồng ngày ngày ra ruộng làm cả phần con dâu, mà con dâu ốm nằm ở nhà lại ngồi gẩy đàn, thì khó coi biết nhường nào. Lại còn hàng xóm láng giềng người ta trông vào nữa.

Thôi con ạ, cứ để Chiyomaru lại đây, con đem về không tiện đâu.

Cha Etsuko chậm rãi nói như cân nhắc từng lời, Etsuko ngồi nghe, gục đầu ủ rũ.

Thời chiến, chỉ có hai cha con mà kẻ ở Mãn Châu người thì trong nước, mỗi người một phương, cả năm trời biệt vô âm tín chẳng biết sống chết ra sao, mãi mới gặp được nhau thì con gái bị ho lao chẳng mong có ngày bình phục. Là cha, cho đứa con gái ngày xưa lần đầu tiên cầm đàn Chiyomaru đã gẩy bài Tinh Tinh nay bị bệnh, cha muốn tặng chiếc đàn đã thoát được binh lửa cho con giải khuây trong lúc chống chỏi với bệnh tật lắm chứ, nhưng nghĩ đến cảnh ngộ của con lúc này, tránh đem vào nhà chồng món đồ tiêu khiển của giới làng chơi thì mới là phải đạo.

Nghe nói phải ngại mẹ chồng, thân là người bệnh phải nhu thuận một bề, nên Etsuko thấy cũng phải, cha bảo sao thì nghe vậy, lại cất Chiyomaru vào hộp rồi cáo từ. Sau đó bệnh tình Etsuko vẫn không khá lên được chút nào, những ngày dài phiền muộn và mệt mỏi, không tài nào chịu đựng nổi, Etsuko luôn nhớ đến Chiyomaru, nhớ đến những lúc mải mê thích thú với cây đàn đến quên cả chính mình, nhớ tiếng đàn êm ái ấy. Etsuko cứ nghĩ phải chi được gẩy đàn Chiyomaru để quên được trong chốc lát cái chết khủng khiếp, nhưng không dám mở miệng hỏi xin cha. Chuỗi ngày phiền muộn lê thê ấy đã sắp được một năm kể từ ngày phát bệnh, cho đến một buổi chiều thu lộng gió.

Mỗi cơn gió thổi làm bụi bám vào xà ngang trên mái không có ván lát trần của nhà kho rơi lả tả là điều đại kị với người bị lao phổi, Etsuko bèn trùm chiếc khăn tay rồi quay sang nằm nghiêng, vừa trông chừng đứa con gái đang chơi ở đầu giường, thì bỗng có tiếng gọi

-Etsuko.

Etsuko ngoảnh lại thì thấy cha đã đứng ngay sau lưng.

Nhìn lại Etsuko thấy người cha già tay xách hộp đàn shamisen, không hiểu vì sao từ trên núi lặn lội đi xe đò xuống đây. Etsuko còn ngơ ngác chưa rõ nguồn cơn, thì cha đã dịu dàng ngồi xuống cạnh chỗ nằm của Etsuko, nói như dỗ dành.

-Con bị bệnh đã lâu rồi, cha nghĩ không chừng có lời cha xin thì mẹ chồng con cũng bằng lòng cho phép chăng, nên cha đem cái này đến đây. Người làng này ai cũng tốt bụng nhỉ, cha vừa từ trên xe bước xuống đã có người mách cho biết là mẹ chồng con đang chăm thửa ruộng lúa mì trên bãi sông. Cha liền đi đến và trình bày mọi sự.

Mẹ chồng con vui vẻ bảo con cứ làm theo ý thích của con. Vậy con phải nhớ cảm ơn mẹ chồng con cho thật cẩn thận đấy. Nhưng mà Etsuko này.

Cha lấy lại giọng, nói:

– Tuyệt đối con không được đàn lúc ban ngày. Ban ngày cả làng người ta đi làm cả. Nếu người ta nghe được tiếng đàn shamisen từ nhà này vọng ra, thì mẹ chồng con sẽ không còn mặt mũi nào với làng nước. Nhớ nghe con, nhớ là phải chờ đến tối, lúc mọi người xong việc cả rồi, và đàn nho nhỏ bằng móng tay thôi.

Cha Etsuko dặn đi dặn lại mãi rồi mới đưa cây đàn shamisen ra.

Lúc ấy Etsuko nghĩ bụng, tuy đấy là chiếc đàn Chiyomaru vẫn mơ ước bấy lâu, đến giờ mới có được, xong liệu là mình còn đủ sức mà đàn như ngày bé hay không. Và có thể vì người bệnh thường hay nghĩ quẩn, nên Etsuko còn đoán già đoán non rằng biết đâu vì thấy mình không qua khỏi, sắp chết đến nơi, nên vốn là người trọng đạo lý, cũng chẳng mấy khi đến nhà chồng của con gái, mà nay cha phải tìm tới để đem cây đàn này đến cho mình. Tuy vui vì có được cây đàn Chiyomaru mơ ước bấy lâu, Etsuko không biết mình còn đàn được bao nhiêu hôm nữa, thấy buồn đến nghẹn lòng vì số kiếp mong manh, khi nhận chiếc đàn từ cha, đã vô ý để rơi một giọt lệ trên thân đàn.

Thế nhưng, chiếc đàn Chiyomaru như có phép mầu, từ khi để nó ở đầu giường, Etsuko từ từ sung sức trở lại, chính mình cũng cảm thấy hai bờ mi u tối bắt đầu hé mở, dù chỉ dần dần từng tí một. Etsuko suốt ngày nằm bệt trên gác hai nhà kho, ngại ngùng e dè với mẹ chồng, và phập phồng lo sợ bước chân ghê rợn của tử thần đang tiến dần đến gần, thế mà chỉ chợt nghĩ đến tối sẽ được cầm đàn shamisen lên gẩy, thì bóng dáng tử thần bỗng chợt lùi xa, và ban ngày Etsuko đã ra sức cố nhớ cho bằng được những điệu đàn năm xưa, miệng khẽ hát thầm. Cái cảm giác lâu ngày mới đặt chiếc đàn Chiyomaru lên đùi, là cảm thấy cây đàn nặng chịch như đè lên tấm thân gầy còm, ban đầu hì hà hì hục bê đàn, thế mà ngày một ngày hai chiếc đàn cứ nhẹ bẫng dần, chỉ ít lâu sau nó đã nằm gọn trong vòng tay Etsuko. Tối tối, mỗi khi được nhấc đàn lên, Etsuko cảm thấy như đó là một lần hạnh ngộ. Dần dà, không biết có phải nhờ thần thánh phù hộ hay không mà bệnh tình của Etsuko vốn không còn được thầy thuốc đoái hoài nữa, thì nay lại dần có dấu hiệu hồi phục. Hai năm sau khi phát bệnh, những lỗ hổng ở hai đầu hai buồng phổi trống rỗng đã cứng lại thành vôi. Etsuko không còn thấy tức thở nữa, những cơn sốt âm ỉ lui hẳn. Etsuko không bao giờ quên được niềm vui khi được bác sĩ bảo đảm là đã hoàn toàn bình phục, tuy là vẫn phải chú ý theo dõi. Etsuko có cảm tưởng như đang từ mộ địa sống lại, mọi vật trước mắt đều hiện ra mới mẻ, tươi vui, rực rỡ.

Dù không thể nói hẳn ra rằng Etsuko bình phục như một phép lạ như thế là nhờ Chiyomaru, nhưng ít nhất thì cũng chẳng phải là nhờ bên mình đã có một thứ trong khoảnh khắc đưa mình đến cảnh giới vô ngã, và tạo cho mình niềm hy vọng mong đợi một ngày mai tươi sáng đó sao? Lẽ ra, nếu có kính cẩn đặt Chiyomaru lên kệ ở chỗ trang trọng nhất trong phòng cũng đáng. Nhưng thói đời thường vẫn thế, hễ khỏe mạnh ra thì lại suốt ngày bận rộn công kia việc nọ, nên rốt cuộc đa phần là Chiyomaru lại bị bỏ vào hộp cất vào một chỗ, chẳng được ngó ngàng đến.

Chẳng phải là Etsuko không thích Chiyomaru nữa, nhưng vốn là người có sở thích chơi các nhạc cụ, nay lại có thêm nhiều sở thích mới khác nữa, nên chẳng còn thì giờ ngó ngàng đến Chiyomaru.

Tuy vậy, thỉnh thoảng để chăm sóc lau chùi, vào những ngày đẹp trời, Etsuko lại lấy đàn ra khỏi hộp, và gẩy một vài làn điệu còn nhớ lõm bõm, tuy đã trải bao năm tháng, tiếng đàn vẫn không hề sai lạc, suy xuyển, và khi nào cũng giải khuây cho Etsuko.

Sau khi khỏe mạnh trở lại, cuộc đời Etsuko lại gặp sóng gió, và một năm trước đây, tình nghĩa vợ chồng suốt hai mươi năm cũng đứt đoạn, cả đến đứa con gái cũng phải để lại nhà chồng, một thân một mình trở về nhà cha mẹ đẻ. Mới một năm trước, cha Etsuko cũng qua đời, Etsuko phải bán tất cả đồ đạc còn lại trong nhà để sống những ngày vô vọng, thế nhưng Etsuko cố tránh không than vãn hay oán trách số phận hẩm hiu của mình. Dù sinh ra dưới một ngôi sao nào, con đường đi tới khi nào cũng chuyển hướng không ngờ, bị sóng dập gió vùi, đến khi chợt nhận ra rằng đến tuổi tứ tuần thông tỏ sự đời thì lại phải sống cô độc một minh trong căn nhà trống trải như có ánh lửa ma quái chập chờn. Etsuko đành chấp nhận rằng, dù có chống trả, số mệnh cũng không biến chuyển tốt đẹp hơn, chẳng còn cách nào hơn là phó mặc cho dòng đời trôi chảy, đến đâu hay đến đấy, chẳng nghĩ được điều gì, lòng đau như cắt vì đến nhà ở cũng sắp phải trao qua tay người. Nếu mà nghĩ gì thì có khi đã tự vận rồi cũng nên, nhưng vì chẳng nghĩ gì được nên mới ra nông nỗi trôi sông lạc chợ thế này.

Etsuko đã phải đem cầm từ bộ cần câu cha vẫn ưa dùng, những món đồ chạm trổ tinh xảo có được qua giao dịch với người Tầu, chiếc ghế sơn mài và cái kệ chống tay cha vẫn dùng từ khi ngã bệnh, cặp kính gọng đồi mồi, tất cả những món đồ ấy còn mang hơi hướm của người cha, Etsuko cũng lần lượt gói vào chiếc khăn dùng làm tay nải và vì không biết đem đi đâu thì bán được tiền, nên đành đưa cả cho bà chủ hiệu cầm đồ, chẳng dám nói ra miệng rằng muốn bà ta trả cho bao nhiêu, khi ra về với món tiền tùy hỉ bà ta trả cho, Etsuko không hề để rơi giọt lệ.

Chẳng phải là Etsuko lòng sắt dạ đá cứng cỏi gì cho cam, mà đó là chỉ sợ một khi đã để cho nước mắt trào ra, thì sẽ chìm vào nỗi bi thương, oán hận, than vãn mà rủa xả mọi thứ, để rồi sẽ rơi xuống địa ngục của tâm hồn.

Trong những lúc như thế, Etsuko vẫn tự nhủ nhất định sẽ không rời Chiyomaru, thế nhưng một chiếc đàn shamisen không thể nói là cần cho cuộc sống, còn thân mình chỉ còn một túi xách trên tay, nay mai không biết sẽ trôi dạt về đâu, Etsuko cũng không dám đoan chắc rằng chiếc đàn sẽ được bình yên. Cả một ngày trời ngồi ngắm Chiyomaru và suy nghĩ vẩn vơ chẳng biết tính sao, tối đến, Etsuko đã ôm chiếc đàn vào lòng rời nhà ra đi. Đêm hôm khuya khoắt mà cầm món đồ ra đi như thế thì chỉ có là co ro đến trước cái quầy dưới ánh đèn tù mù quen thuộc mọi ngày.

Thực tình mà nói thì lúc ấy, Etsuko chìa chiếc đàn ra mà chẳng có ý định gì rõ rệt, xong khi vừa nghe bà chủ hiệu cầm đồ chê là đàn hỏng, Etsuko bỗng cảm thấy như có cái gì ngủ quên bấy lâu trong lòng mình bỗng bừng tỉnh dậy. Dường như là câu nói cửa miệng của những người đàn ông làm công trong hiệu “Đàn Chiyomaru mà ông chủ đã mất công uốn nắn lâu ngày”, và ký ức được cứu sống bởi chiếc đàn có biệt hiệu như nghệ danh của cha với người geisha mà ông đã phải lòng, như đã vỗ vào vai Etsuko, đánh thức dậy cái khí khái trong lòng.

Etsuko cũng biết đây là chiếc đàn quý được cha yêu quý vô vàn, thế mà cha đã đem tặng cho đứa con gái đang lâm trọng bệnh. Tấm lòng ấy, hễ nhớ đến là Etsuko lại càng thấy thấm thía tình sâu nghĩa nặng. Lại nghĩ đến nhờ nó mà Etsuko đã từ vực sâu của cõi chết ngoi lên được, thì cho dù có sa sút đến thế nào nhất định là Etsuko không thể để nó rơi vào tay người khác.

Cây đàn vừa mới bị nhiếc là không đáng để đem cầm cố, thế mà lại hay. Etsko cầm hộp đàn quay trở lại con đường cũ, vừa đi vừa nghĩ miên man cách thu xếp thế nào để Chiyomaru được yên nghỉ, không bị lọt vào tay ai. Cách mà Etsuko đã nghĩ đến trước tiên là đem chôn Chiyomaru bên cạnh mộ phần nơi cha yên nghỉ trên núi Godai, như thế ổn thỏa nhất. Thế nhưng trên ngọn núi Godai đen ngòm nằm ngay trước mặt chẳng thấy một ánh đèn, đêm hôm khuya khắt thế này, đàn bà con gái một mình làm sao có can đảm trèo lên tới đó. Etsuko vừa đi vừa nghĩ ngợi thì lên tới cây cầu này, ngước nhìn trời sao, để vừa kịp thấy một ngôi sao băng lớn từ trên đỉnh núi nơi cha yên nghỉ đang rơi thành vệt dài trắng xóa, trước khi biến mất ngay trên đỉnh đầu.

Etsuko nhớ lại ngày bé, nghe nói hễ thấy sao băng rơi vào trong tà áo là sẽ có điều hay, nên cứ đến tối là leo lên sân phơi quần áo đứng ngắm sao, nhưng với tình cảnh Etsuko hiện nay không thể nghĩ là có điều gì may được. Chỉ có điều khi sao băng vụt tắt, cái ý nghĩ nên ném Chiyomaru xuống sông Kuma này bỗng lóe lên trong đầu. Etsuko chạy lúp xúp theo hàng lan can thành cầu bằng gỗ đã mục, tay vịn lên thành cầu mà dòm xuống sông. Sông Kuma đổ ra vịnh Urato, là nơi có nhiều cá, và là chỗ mà cha Etsuko vốn thích câu cá, thường đi câu ở đấy Những ngày mùa thu nhằm vào mùa câu cá bống, cha thường dắt theo mấy bác người làm, hình ảnh cha đi thuyền ra vịnh hưởng thú chèo thuyền dạo chơi trong vịnh hiện lên rõ mồn một trước mắt Etsuko.

Được ném xuống sông Kuma, Chiyomaru sẽ chìm xuống đáy sông, xuôi theo dòng nước sẽ từ từ trôi ra vịnh Urato, rồi chiếm một chỗ nào đó trong đám rong rêu dưới đáy vịnh, hẳn là từ nay mãi mãi sẽ được yên nghỉ ở đấy. Chỉ mường tượng thế, Etsuko cảm thấy đó là cách mai táng thích hợp nhất cho một chiếc đàn quý như Chiyomaru.

Dưới bầu trời sao, nhìn xuống thấy lòng sông Kuma đã cạn phủ đẩy lá khô, chỉ còn lại một giải nước con con trông như đai lưng obi chảy một bên mé sông. Etsuko chạy trên cầu đến ngay phía trên dòng nước ấy để có thể ném Chiyomaru xuống đúng vào giữa dòng nước chảy.

Tay ôm đàn mà Etsuko run lẩy bẩy, như thể chính mình sắp trầm mình tự vẫn. Tuy trong lòng đã quyết, mà hai tay vẫn không tài nào ném được. Etsuko tự nhủ là sẽ đếm tới mười rồi nhất quyết phải ném, bèn cất tiếng chậm rãi đếm. Khi đến số mười, Etsuko chợt nhận ra là mình đã lùi xa cách thành cầu đến bảy tám bước. Nhất dịnh là lần này phải ném, Etsuko tự trách lòng sao vẫn còn lưu luyến, và lại đếm một, hai, ba …đoạn lấy hết sức tung chiếc đàn lên. Chiyomaru bay vụt qua trước mắt Etsuko như một cánh chim đen láy thon thả, dường như rơi xuống lá khô chứ không phải trên mặt nước, phát ra một tiếng trầm đục.

Etsuko tưởng chừng như đó là tiếng rên của Chiyomaru trước khi giẫy chết. Etsuko đứng yên như bất động, mắt dõi tìm theo hướng vừa phát ra tiếng động ấy, nhưng chẳng còn thấy gì nữa.



DTTM (Quỳnh Chi)
dịch theo nguyên tác Chiyomaru của Miyao Tomiko.
(24/5/2009)

* “Con đười ươi”

http://chimvie3.free.fr/87/quynhchi/qyc … ru_087.htm