Chấp tay lạy người

________________

Tôn Thất Tuệ _ 2014

tình mẹ con,
tranh Vũ Cao Đàm 1963

Chị tôi sinh 1930, Canh Ngọ vừa qua đời trước Tết con rồng 2012, một ngày trước khi đưa Ông Táo về châu trời.

Chiến tranh Việt Pháp 1946 đã đưa anh chị em tôi vào tình trạng các bạn cứ tưởng tượng như bỗng dưng con cái ra đường sống cuộc đời homeless. Chị không đi học tiếp mà sống nơi nhà thờ họ ngoại với ông trưởng tộc nghèo, chung nhau tìm cách sống qua ngày. Rồi chị cũng lớn lên sống với nhà chồng gần Đàn Nam Giao. Còn nhớ ông cha chồng có nói với dì tôi: Thưa bà Lãnh (chồng lãnh binh), nếu không có sự đảo lộn thì làm sao tôi có thể đến nhà bà xin cưới dâu.

Hão huyền xã hội ấy không phải là điều tôi muốn ghi lại. Điều chính yếu muốn nói là nhờ những đổi thay xã hội ấy, chị tôi vì nghèo, ít học, đã không làm gì có thể hại ai, mắng chưỡi ai, tống tiền, cho vay cắt cổ, gạt gẫm, kể cả không có dịp làm những sai lầm ngoài ý muốn như phạt tù kẻ vô tội. Chị tôi hay cúi nhìn xuống đất, nghĩa bóng và đen. Chị luôn hất cục đá vô lề, lượm những cành gai, những mẻ chai mẻ sành, đinh… sợ người ta đạp què giò.

Thỉnh thoảng chị gánh xuống chợ Bến Ngự bán những sản phẩm nhà vườn. Nghe ghê quá. Nhưng chỉ có: một trái mít non, một mụt măng tre pheo, vài mụt măng cán dáo, mươi trái vả, vài bó chè xanh, trái thơm non.

Trái thơm là trái thơm non, đem về trộn mắm ăn chon như dừa.

Quan trọng và đầy màu sắc là cái ngãu ớt mọi, ớt tím, ớt chìa vôi, còn xanh còn hườm theo thị hiếu ở Huế. Khi nào trời thưởng, thì có thêm nhúm nấm mối mọc dưới lá tre mục, hoặc vài ba chục tai nấm mèo phơi còn ẩm.

Mấy thứ ấy không nặng bằng một thùng nước nên chị kèm theo năm bảy bó củi. Mấy bó củi nầy đầy tính chất phấn son, tô phết. Bên ngoài là những liếp gỗ mỏng trắng tươi từ thân cây dương liễu; bên trong đủ thứ tầm khào, kể cả nhánh vông gai xốp. Chẳng che dấu lường gạt ai được nhưng cái đẹp cũng câu khách, có giá vậy. Quanh xóm ai cũng nghèo, cho nên không thể mua đi bán lại, có chi bán nấy. Tường trình đầu tiên khi ở chợ về chỉ có hai chữ hoặc “gạo hơn” hoặc “gạo thua”. Đến nay tôi chưa hiểu vì đâu có hai thuật ngữ ấy, gạo hơn là giá hạ, gạo thua là giá cao; tạm hiểu cùng một số tiền, thua là bớt gạo; hơn thì thêm một chút.

Nhưng gạo đã làm chị bận tâm một cách khác vào tuổi đôi tám (1945). Hơn mười năm trước, tôi có về Huế lo dời mô mã tổ tiên bị giải tỏa khu núi Ngự Bình. Tôi chẳng đi đâu, ngoài công việc chính yếu trên. Tôi lẩn quẩn trong vườn và tìm gặp những thứ chị mang đi bán như nói trên. Cây chè đã lão hóa, thân hình cổ quái như bonsai. Mấy cây mít chỉ có trái lèo tèo như quả bưởi, nằm trên cao, chúng có cái tên không đẹp nhưng rất thông dụng ở Huế là mít đọt. Mấy bụi thơm có trái chín như hồi nhỏ người lớn hay đố, mặc áo điều áo đỏ ngồi chỏ hỏ sau nương. Cây vả xưa đã chết, mới trồng cây con.

Chiều hôm trước ngày tôi trở lại Saigon, hai chị em ngồi yên lặng dưới giàn hoa. Bỗng nhiên chị tôi nói: Ba rất kính trọng người ăn mày.

Đến đây các bạn sẽ hiểu vì sao tôi nói chị bận tâm về gạo. 1945 thì chị đã 15, tuổi ta là mười sáu đôi tám là đúng rồi, tuổi đủ để nhớ và biết nhiều. Chị nói vào kỳ đói, gia đình tôi nấu cháo từng nồi lớn, mỗi người đi qua được mời một tô cháo trắng. Chị múc và cha tôi hai tay dâng bát (cái đọi) cháo rồi vái lạy người người ăn. Mỗi người chỉ có một tô, đi quanh đi quất đâu đó trở lui ăn nữa nhưng ăn liền tô thứ hai thì không được. Của ít người nhiều.

Tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh đãi cháo ấy; có lẽ nấu đâu ngoài chợ vì nhà tôi ở trong kiệt. Nhưng tôi nhớ mồn một cha tôi mua nhiều gạo lắm (trẻ con thì thấy gì cũng to cũng nhiều). Tự nhiên cái chái trước thành chỗ cao chỗ thấp cho tôi nhảy lên nhảy xuống. Chị phải lo đem gạo cho bà con tận Cồn Hến, có khi qua đò nước lụt rất ghê sợ.

Năm đó cha tôi đi buôn gạo với bác Thanh, tức là cha của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi còn nhớ bác Thanh có đến nhà tôi một lần. Sau hồi cư tôi có thấy vài lần trên xe vespa trước khi bác chết vì tai nạn xe cộ trên đường từ phi trường Phú Bài về Huế. Tôi không hiểu số gạo để tại nhà để đem cho bà con lối xóm hay nấu cháo có phần của bác Thanh hay không. Tuy vậy tôi luôn nguyện hồi hướng công đức cho bác Trịnh Thanh. Việc nầy tôi nghĩ TCS cũng không biết; cũng như không biết sự quen biết giữa cha tôi và cha của ông. Tôi không quen biết TCS; chỉ có một lần tôi đi cùng với một người bạn vô Bộ Thông Tin yêu cầu Ban Kiểm duyệt thông qua bài Nhìn Những Mùa Thu Đi, lần ấy ông nhạc sĩ cũng đi chung. Nói cho rõ thêm, việc can thiệp nầy là do ông bạn (đã chết Mậu Thân) còn tôi chỉ tình cờ đi theo.

Trước và sau vụ gạo nầy, cha tôi thật sự là homeless, nghĩa là ông chỉ lo đâu đâu ngoài đời. Ông tom góp mọi thứ trong nhà để lo cho tuần lễ đồng, tuần lễ vàng. Mẹ tôi mất sớm nên chị lo cơm nước cho mấy em.

Chị tôi gánh những gánh củi xuống chợ bán, lúc chợ ế phải gánh rong quanh Bến Ngự bán cho những người cùng thời với cha tôi. Sau chiến tranh họ vẫn còn làm chủ tiệm vàng, tiệm xe đạp, quán giải khát (buvette), chủ bàn ping pong, chủ tiệm tạp hóa  v.v…Con cái của họ xưa kia cùng đi học bây giờ áo quần bảnh bao không rách vá như chị. Không ai nhìn. Riêng chỉ có ông bà Viên Lang nhận ra, mời ăn cái bánh và chén nước. Dĩ nhiên những người như mụ Giá quét chợ thì trò chuyện huyên thuyên như ngày xưa vô nhà xúc gạo về ăn.

Nghèo chẳng có gì đáng khen hay đáng trách. Nhưng cái hay của cảnh hàn vi là nó giúp mình không có phương tiện sách hại ai. Đó là trường hợp của chị tôi. Chị tôi dốt, không biết thiền là gì và cũng không biết bát văn cửu vạn (bài bạc) là gì, không biết điều khiển 16 ông tướng qua bốn vùng chiến thuật xanh đỏ trắng vàng; không biết champagne ra làm sao. Chị không biết thập ngưu đồ của thiền học. Chính chị không biết đời mình là một ngưu đồ, suốt đời tận tụy và âm thầm nghiền ngẫm sự việc chung quanh như trâu nhai lại.

Tôi tin tưởng cuộc đời vô cầu, vô tạo, vô lụy đã cho chị tôi một sự ra đi nhẹ nhàng. Vào nhà thương khám bệnh định kỳ, đột nhiên hôn mê và từ giả mười giờ sau. Đây là một ví dụ, một trường hợp cụ thể của triết lý Đông Phương, đến từ hư vô và trở về với hư vô hay nói khác chẳng đến chẳng đi. 82 tuổi đời, mà e chừng đã có gần 70 tuổi đạo, đạo vái lạy kẻ nghèo đói, đạo chấp tay lạy người.-

https://tonthattue.blogspot.com/2022/06/chap-tay-lay-nguoi.html

Định Mệnh Đã An Bài & Nếu Có Kiếp Sau







Định Mệnh Đã An Bài
_____________________
Bằng Phong Đặng văn Âu _ 11/01/2015
Bài số 4435-14-29835vb801115







Trước 1975, tác giả là một phi công chiến đấu. Tại Hoa Kỳ, nhiều bài viết của ông thường được phổ biến trên báo giấy, báo mạng trong sinh hoạt cộng đồng và các hội đoàn cựu quân nhân VNCH. Bài viết ông góp cho Viết Về Nước Mỹ kể về một tình yêu đầu đời ly tan và tái hợp đúng như lời một bà thầy bói đã tiên đoán.

* * *


Tôi ra đời vào năm Canh Thìn, cầm tinh con rồng, cho nên tôi mơ giấc mơ hải hồ, được bay cao bay xa như ông Saint Exurpéry (tác giả cuốn Vol de Nuit và cuốn Le Petit Prince). Sở dĩ tôi thỏa được giấc mộng của mình là vì nhờ Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam, họ cần đào tạo những phi công cho chiến trường. Nếu không, giấc mơ của tôi sẽ không thành hiện thực, vì tôi chẳng thể nào có tiền để được huấn luyện trở thành phi công. Sở phí đào tạo một người có thể lái máy bay tốn kém rất lớn.

Có hôm tôi hỏi Mẹ tôi, tại sao con tuổi Thìn mà trên giấy khai sinh của con lại ghi năm 1942? Mẹ tôi đáp: “Thời buổi chiến tranh, giấy tờ thất lạc, lại chạy tản cư liên miên, Mẹ phải làm tờ “thế vì khai sinh” và khai trụt tuổi cho con thì nhà trường mới nhận con vào học”. À ra thế! Thảo nào số quân của tôi là 62/600356, lẽ ra phải bắt đầu số 60 để chỉ những lớp người sinh năm 1940. Căn cứ trên tờ “thế vì khai sinh”, chánh quán của tôi là làng Nho Lâm, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán là làng Phổ Tây, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

Thầy (Bố) tôi là bác sĩ, được đổi đi công tác nhiều tỉnh khác nhau, nên tôi có thể bắt chước người giúp việc trong nhà để nói các giọng Bắc, Nam, Trung.

Năm 1945, Thầy tôi qua đời vì căn bệnh ruột dư (Appendicitis) được bác sĩ giáo sư Huard của trường Đại Học Y Khoa Hà Nội – một danh y thời bấy giờ – giải phẫu. Không may Thầy tôi bị nhiễm trùng mà không có thuốc trụ sinh vì cuộc chiến tranh giữa Đồng Minh và Quân đội Nhật hoàng xảy ra. Mẹ tôi lúc bấy giờ mới 38 tuổi, khá đẹp, mà nhất quyết ở vậy thờ chồng nuôi con, chứ không chịu bước thêm một bước nữa, mặc dầu có nhiều đàn ông xứng đáng đến ngỏ lời cầu hôn bà.

Tôi là đứa bé khá ngờ nghệch, được Mẹ cho đi học thì cắp sách đến trường; chứ không hề biết học để làm gì? Tôi chưa từng có ý niệm rằng học để trở nên người hữu dụng cho tương lai xứ sở. Do đó, cuối niên khóa được lên lớp là do sự may mắn, hơn là do sự cố gắng bản thân. Khi lên lớp Đệ Lục, tôi nghe Mẹ tôi nói một câu làm tôi tỉnh ngộ: “Gắng học đi con để sau này ấm vào thân. Nếu cứ lười biếng thì sau này chỉ có nước đứng đường thôi con ạ!” Đứng đường tức là làm người ăn mày lạy ông đi qua, lạy bà đi lại; chứ không phải là làm thầy đội Cảnh sát đứng đường điều khiển cho xe cộ lưu thông!

Từ đó, tôi tỉnh ngộ và bắt đầu thời điểm đó, tôi chăm chỉ học, nên cuối niên học nào tôi cũng đều được lĩnh phần thưởng về các môn Toán, Lý Hóa, Anh, Pháp văn, Việt văn. À, cũng xin nói thêm, trước kia, làm cho xong một bài luận quốc văn là một cực hình đối với tôi. Nhưng nhờ học thêm Pháp văn với thầy Trần văn Thông, gần nhà thờ Phủ Cam – Huế, được thầy dạy pháp cú “analyse logique, analyse grammaticale” khiến cho tôi viết câu văn tiếng Việt sáng sủa hơn với đầy đủ chủ từ, động từ và túc từ. Ông bà mình nói không sai: “Không thầy, đố mày làm nên!”. Mỗi khi viết một bài văn nào, tôi đều nhớ ơn thầy Trần văn Thông.

Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại một việc: Mẹ tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi về chữ Hán và chữ Pháp. Câu Hán văn và Pháp văn mà Mẹ tôi muốn xây dựng con người tôi như sau: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu không tham, nghèo không hèn, mạnh không sợ) và “Gravez les bienfaits sur le marble; les malfaits sur le sable” (Khắc ghi những nghĩa cử trên đá cẩm thạch; những điều bội bạc trên cát). Suốt đời tôi cố gắng thể hiện cung cách ứng xử trong cuộc sống như lời Mẹ dạy.

Kết quả thi Trung học Phổ thông, Tú tài I hay Tú Tài II, tôi đều đậu bình, một phần do may mắn! Nghiệm ra, tôi không đến nỗi đần, mà chỉ phải tội chậm trí khôn. Vào trường đời, tôi cũng thuộc loại chậm trí khôn, vì không biết cách làm đẹp lòng thượng cấp, mặc dầu chưa bao giờ kiếm cớ thoái thác một phi vụ nào do căn bệnh… lạnh cẳng.

Nhớ có lần tôi đã phạm vào một điều dại dột trong cuộc họp hành quân. Đó là lúc tôi đứng lên phản đối cấp trên lấy tên chiến dịch Cầu Không Vận là “Kỳ Duyên Mai” (phương danh của đương kim Tư Lệnh, con và vợ). Theo tôi, đáng lý ra phải lấy tên của một vị anh hùng trong lịch sử dân tộc đặt tên cho chiến dịch thì mới đúng! Do “sự cố” ấy, tôi được bạn hữu trong đơn vị đặt cho cái hỗn danh “Đặng văn Ẩu” vì dám công khai “chống” lại thượng cấp. Thật tình, tôi chưa hề làm “ẩu” điều gì để phạm vào quân phong quân kỷ! Tôi lên tiếng vì lợi ích chung. Chẳng qua, nghĩ mình cứ hành xử như lời Mẹ dạy mà thôi.

Tôi có một người Mẹ tuyệt vời, hết lòng thương con, nhưng tôi đã phạm vào ba trọng tội mà tôi nghĩ rằng mình là đứa con bất hiếu. Lòng tôi cứ dằn vặt, ăn năn, hối hận, ray rứt khôn nguôi. Đó là:

Thứ nhất, Mẹ tôi muốn tôi theo học ngành y khoa để nối nghiệp thân phụ tôi. Theo bà, nghề bác sĩ giúp con bà cứu nhân độ thế để hưởng phước. Tôi đã gia nhập vào Không Quân, trái với ước nguyện của Mẹ hiền.

Thứ hai, Mẹ tôi đã thể theo lời xin của tôi để dạm hỏi cô nữ sinh học trò của tôi cho tôi, nhưng cuối cùng tôi đã phản bội nàng để kết hôn với người khác. Tôi đã làm cho Mẹ tôi trở thành kẻ bội ước với thông gia.

Thứ ba, cuối tháng Tư năm 1975, tôi đã không ép Mẹ tôi bằng cách “cưỡng bức” bà lên xe để thoát ra khỏi nước, chỉ vì bà nói bà không muốn bỏ nắm xương nơi quê người. Mẹ tôi đã qua đời trong đói lạnh, cô đơn ở quê nhà. Tôi đã khóc òa như một đứa bé khi hay tin Mẹ mình khuất núi.

Hơn 37 năm sống ở quê người, tôi ao ước có dịp về nước, đến trước mộ phần của Mẹ để nói lời tạ tội. Nhưng bởi lo ngại an ninh bản thân, tôi cứ chần chừ vì đã viết nhiều bài đăng trên mạng lên án gắt gao chống lại chính sách cai trị tàn ác của chế độ hiện hành. Tháng 8 năm 2011, có lẽ cuộc nhân duyên giữa vợ chồng chúng tôi đã dứt, tôi liều mình về quê nhà để thể hiện sự sám hối của mình trước vong linh Mẹ.

Khi về đến phi trường Nội Bài, Hà Nội, tôi “được” hai cán bộ an ninh văn hóa “trao đổi” hơn 90 phút và ba ngày sau tại khách sạn cũng “được” nhân viên an ninh chiếu cố hơn 4 giờ đồng hồ. Tôi sẽ tường trình nội vụ này vào một dịp khác. Từ Hà Nội, tôi gọi điện thoại cho một người bạn học từ thời tiểu học báo tin tôi đang ở Hà Nội. Bạn tôi ban đầu không tin, vì nghĩ rằng tôi không dám về.

Đúng thế! Từ lâu tôi không về nước vì vợ tôi ngăn cản. Nàng sợ nhỡ tôi bị bắt giam thì nàng sẽ phải tốn tiền để chuộc tôi ra. Nay, duyên nợ giữa nhau đã dứt. Nàng không còn trách nhiệm gì với bản thân tôi, nếu tôi về để bày tỏ sự hối hận với vong linh Mẹ mà bị bắt giữ thì tôi cũng cam lòng.

Bạn tôi biết đích xác tôi đang ở Hà Nội, sau khi nhìn vào “caller ID” hiện ra trên điện thoại của anh. Bạn tôi nói (xin lặp lại nguyên văn ngôn ngữ địa phương Huế): “Mi có về Huế thăm mộ O (tức Mẹ tôi) thì nhớ gọi cho hắn nghe!”. Chữ “hắn” trong câu nói của bạn tôi là vị hôn thê mà tôi đã bội tình thưở trước. Anh bạn cho tôi số điện thoại của nàng. Có số điện thoại được bạn cho, tôi vẫn không dám gọi nàng, vì tự hỏi: “Gọi để nói gì bây giờ? Nhỡ khi nghe mình xưng tên, nàng sẽ thốt lên những lời xỉ mắng vì sự bội bạc của mình hoặc nàng cúp máy không thèm nói chuyện thì bẽ bàng vô cùng”.

Hai ngày sau, bạn tôi gọi và hỏi: “Mi đã gọi cho hắn chưa?”. Tôi đáp: “Chưa!” Bạn tôi có vẻ nôn nả: “Tại răng mi không gọi cho hắn?”. Tôi nói về lý do sự ngại ngùng do dự của tôi, bạn tôi cười: “Mi còn nhớ đến chuyện hai đứa bây đi xem bà thầy bói Bụi không?”. Tôi đáp: “Chừ mi nhắc thì tau mới nhớ, nhưng có liên quan gì trong việc tau gọi điện thoại cho hắn?”. Bạn tôi trả lời một cách quả quyết: “Hắn còn yêu mi và chờ mi về đó. Tính đến nay đã là 38 năm kể từ ngày hắn ly dị chồng hắn. Tau đã giới thiệu mấy thằng bạn giáo sư đồng nghiệp của tau cho hắn mà hắn không bằng lòng đứa nào hết. Hắn nhất quyết đợi ngày mi trở về đó. Mi hãy mau mau mà gọi cho hắn đi”. Nói xong một hơi dài, bạn tôi cúp máy điện thoại.

Hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Năm 1963, chúng tôi sửa soạn làm đám cưới. Hôn thê của tôi kéo tôi đi xem bói bà thầy bói Bụi, vì bà nổi tiếng bói rất đúng. Chiều lòng người yêu, tôi cũng đi, nhưng tôi chẳng bao giờ tin nhảm. Sau khi hỏi tuổi tác chúng tôi, bà thầy gieo quẻ, rồi đoán: “Cuộc hôn nhân của hai anh chị sẽ không thành!”. Nghe bà thầy nói thế, gương mặt người yêu tôi tái đi, còn tôi tỏ ra giận dữ: “Bà thầy nói bậy, chúng tôi yêu nhau, cha mẹ hai bên đều đồng ý. Lý do nào mà bà nói không thành? Tôi đập mu rùa của bà bây giờ!”. Bà thầy bình thản trả lời: “Chừng nào cuộc hôn nhân của hai anh chị thành thì anh trở lại đây đập mu rùa của tôi cũng chưa muộn!”. Trước sự quả quyết của bà thầy bói, vị hôn thê của tôi khóc nức nở. Tôi xoa lưng nàng và trấn an: “Bói toán nhảm nhí, em tin làm gì?”. Có lẽ cảm động vì những giọt nước mắt của người yêu tôi, bà thầy nói: “Tình duyên của hai anh chị phải trải qua một đoạn đường dài chia ly rồi mới thành tựu. Anh này có đi cùng vành non nước đi nữa thì sau tứ tuần hoa giáp, anh cũng sẽ trở về với chị thôi!”. Đang bực tức vì lời tiên đoán của bà thầy làm người yêu tôi khóc, tôi hỏi: “Tôi không rành chữ Nho. Bà nói tứ tuần hoa giáp là nghĩa lý gì?”. Bà thầy lại bình thản giải thích: “Hoa giáp là 12 năm, tứ tuần hoa giáp là 48 năm. Tôi quả quyết rằng 48 năm sau anh sẽ về tác hợp tình duyên với cô này”.

Tôi vẫn cho rằng bà thầy bói nói nhảm. Nhất định không tin. Chẳng ngờ cuộc hôn nhân giữa hai chúng tôi bất thành. Vì tuổi trẻ thiếu bản lĩnh, tôi đã phạm vào một trọng tội mà thâm tâm tôi không bao giờ dụng ý phản bội ý trung nhân của tôi. Khi tôi thú nhận với vị hôn thê của tôi rằng tôi trót rơi vào một tình trạng khó xử, nàng nói trong nước mắt: “Số trời đã định vậy, em chấp nhận hy sinh”. Tôi quá hổ thẹn trước tấm lòng quảng đại, vị tha của người yêu. Tôi quá xót xa cho nàng, nhưng chẳng biết làm sao hơn.

Tuân theo lời khuyên của bạn, tôi bấm số điện thoại gọi cho nàng và hy vọng không bị nàng buông những lời nói phũ phàng hay gác máy không thèm tiếp. Khi tôi nói tôi là ai qua máy điện thoại thì đầu dây phía bên kia có tiếng cười thật tươi reo lên: “Anh đó à? Anh về rồi đó à? Em đây! Đúng 48 năm rồi đó anh hí!”.

Năm 1963 tôi chia tay nàng. Năm 2011 tôi lần đầu tiên gọi điện thoại cho nàng từ Hà Nội đúng 48 năm sau. Không còn do dự gì nữa, khi về Huế lạy tạ lỗi vong linh Mẹ, tôi sẽ tìm gặp người yêu xưa. Nếu định mệnh dun dủi, tôi có cơ duyên sẽ tiếp nối cuộc sống còn lại với người vợ (sắp cưới) đầu đời thì cũng là ý trời. Tôi nghĩ thế! Bốn mươi tám năm trước tôi thú tội với người yêu, nàng không một lời trách móc, giận hờn. Bốn mươi tám năm sau gọi điện thoại thăm người yêu xưa, nàng đã không buông lời giận hờn trách móc mà còn reo lên một cách sung sướng giống như người thiếu phụ chờ chồng sau cuộc vạn lý trường chinh.

Gặp người yêu xưa, tôi đã quỳ xuống xin lỗi nàng và xin nàng rộng lòng tha thứ. Nàng vội cầm lấy hai tay tôi và nâng tôi đứng dậy, rồi ôm tôi một cách âu yếm nồng nàn. Xưa nay, tôi chưa bao giờ được nàng ôm chặt đến như thế. Trong giờ phút ấy, trước mắt tôi, nàng là hiện thân của Phật Bà Quan Âm hay Đức Bà Maria. Vì chỉ có con người bao dung thánh thiện mới tha thứ cho tôi một cách dễ dàng như thế!

Tôi kể cho nàng nghe chuyện tôi và vợ tôi đang trong tiến trình ly dị. Người yêu tôi nhẹ nhàng khuyên: “Anh hãy cố gắng về hòa giải với chị. Cả hai đã ở tuổi ngoài 70, chẳng còn sống được bao lăm! Em thui thủi một mình gần 40 năm nên quen rồi! Chỉ khi nào sự cố gắng hòa giải của anh bất thành, anh bị ruồng rẫy, hất hủi, gục ngã thì em sẽ vực anh đứng dậy! Chưa lúc nào em giận anh vì em tin cái số em như thế! Chưa lúc nào em thôi yêu anh!”

Sau cuộc chia tay giữa hai chúng tôi, nàng ngày ngày đi dạy học, nuôi Mẹ già và đứa em bị bệnh tâm thần. Nàng quyết sẽ không kết hôn với bất cứ ai. Nhưng cuối cùng nàng phải vâng lời yêu cầu của Mẹ vì nàng là người con chí hiếu. Nàng đành kết hôn với một người mà nàng không hề yêu. Tiếc thay! Người đàn ông ấy mắc chứng bệnh ghen tuông một cách kỳ lạ. Anh ta nhiều lần bạo hành với vợ một cách tàn nhẫn vì nghĩ rằng nàng còn ngoại tình trong tư tưởng, nghĩa là còn yêu tôi. Riêng tôi, tôi không hề liên lạc với nàng bằng dưới mọi hình thức nào để nàng yên thân bên chồng, bên con.

Không thể chịu đựng nổi người chồng vũ phu, nàng về sống với Mẹ và ly hôn chồng. Tin tưởng vào lời tiên đoán của bà thầy bói, nàng cương quyết chờ tôi. Chưa lúc nào tôi tin vào thuyết định mạng hay duyên nghiệp như thế, sau khi gặp gỡ nàng. Giả sử chồng nàng biết cách xử sự như một người có văn hóa đối với vợ thì dù không yêu chồng, nàng cũng không ly hôn vì cổ tục hoặc lễ giáo Huế không bao giờ chấp nhận người đàn bà ly dị chồng. Giả sử vợ chồng tôi có chuyện bất hòa dù nặng nề đến đâu, tôi cũng không thể bỏ vợ. Chẳng qua bị vợ xua đuổi, sỉ nhục mà tôi không thể chấp nhận là do số trời đã định đoạt để cho tôi trở về quê nhà và được biết người yêu xưa vẫn chờ mình. Bốn mươi tám năm sau tôi trở về quê để bái lạy hương hồn Mẹ tha thứ, tôi lại được người yêu xưa tha thứ. Biết đâu Ơn Trên đã dẫn đưa hai anh em chúng tôi về lại với nhau như bà thầy bói năm xưa đã dự đoán? Tôi rất ao ước được sống phần đời còn lại bên người yêu xưa. Chúng tôi không phải là hai kẻ bỏ vợ bỏ chồng để lấy nhau ở tuổi xế chiều. Chúng tôi trở về với nhau do sự an bài của định mệnh hay duyên nghiệp, tùy theo tín ngưỡng của mỗi người.

Tôi không ghi xuống đây chức vụ của mình từng đảm nhiệm trong quân ngũ, vì tôi nhớ đến Đặng Trần Thường, kẻ phò Nguyễn Ánh đắc thắng, đã hành xử thiếu quân tử đối với kẻ ngã ngựa vì mối thù trước kia. Thường ra câu đối buộc kẻ bại trận phải đáp:

“Ai công hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai?”. Ngô Thời Nhậm, kẻ phò vua Quang Trung trả lời:

“Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế!”

Đặng Trần Thường có cái vẻ vênh váo của kẻ chiến thắng với cái chức vị công hầu khanh tướng của mình. Trái lại, Ngô Thời Nhậm không tỏ ra hèn vì thua trận. mà phải khúm núm xin tha tội. Chẳng qua cái thời cái thế xoay vần xui nên đấy thôi!

Cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đã khiến cho chúng tôi đánh mất nhau. Rồi cũng chính cái thời, cái thế, cái định mệnh, cái duyên nghiệp đưa chúng tôi về lại với nhau. Tôi quỳ xuống xin lỗi người yêu xưa của tôi không phải tại vì tôi hèn, mà tại vì tôi sám hối và tôi ngưỡng mộ tấm lòng bao dung, cao cả, vị tha của nàng đã tha thứ cho tôi.

Nghĩ cho cùng, công hầu hay khanh tướng như Đặng Trần Thường tỏ ra kiêu hãnh, đối với tôi cũng chỉ là trò bãi biển nương dâu, chỉ là phù vân gió cuốn mây trôi. Tôi cho rằng cách ứng xử độ lượng giữa người với người với nhau mới là vĩ đại. Tôi rời Houston, Texas để về định cư tại Quận Cam của California. Bạn bè, bà con giúp đỡ tôi rất nhiều nên chỉ trong một thời gian rất ngắn tôi đã thu xếp cuộc sống tạm gọi là ổn định với đầy đủ tiện nghi. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của tôi đến tất cả bà con, bạn bè. Xin xác nhận rằng câu nói “Ở hiền gặp lành” của tiền nhân rất chính xác. Tôi đã được bà con, bạn bè giúp đỡ tận tình. Mỗi ngày tôi đều đọc Kinh Chú Đại Bi và đọc sách Phật để thấm nhuần lẽ vô thường của Tạo Hóa. Bài kinh sám hối đọc từ thưở còn là đồng niên Phật tử Gia đình Chơn Tuệ tôi vẫn nhớ:

“Đệ tử kính lạy Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận, kiêu căng, si mê, lầm lạc. Ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành… Ngửa trông ơn Phật, từ bi gia hộ, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, ngày ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu để mau ra khỏi luân hồi…”

Thiết nghĩ, chỉ có tình yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính vị tha, tình lân tuất thương yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên đời, vì nó giúp ta quên được cái “NGÔ vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh phúc trong đời.

Thưa tất cả bằng hữu,

Tôi đang hành trì đạo Từ Bi của Đức Phật. Xin các bạn cầu nguyện cho tôi có ý chí bền bỉ. Xin cảm ơn tất cả. Xin cầu nguyện gia quyến của mọi người đều được an vui, hạnh phúc.



Bằng Phong Đặng văn Âu

https://vvnm.vietbao.com/a232172/dinh-menh-da-an-bai




____________________________________________

















Nếu Có Kiếp Sau
_____________________
Nguyễn Thị Hồng _ 12/01/2015
Bài số 4436-14-29836vb201215





Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp thủ khoa khoá 2 Sư Phạm Qui Nhơn. Sau đổi đời 1975, bà là cô giáo trường cấp 2 Thuận An. Bà cũng chinh là nhân vật mà trong bài viết “Định mệnh đã an bài,” tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu gọi là ““người yêu đầu đời và cũng là người vợ hiện thời của tôi.” Hai ông bà hiện là cư dân Westminster, CA. Sau đây là bài viết của bà.

* * *

Tháng 8 năm 1963, tôi xách chiếc va li nhỏ vào trường Sư phạm Quy Nhơn trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng lứa: “Con Hồng mà học Sư phạm Quy Nhơn ni à?”.

Vâng, các bạn tôi không ngạc nhiên sao được, khi con bé Hồng tuy nhà quê, nhưng khi vào trường nữ trung học Đồng Khánh, từ Đệ thất đến Đệ nhị luôn giành ngôi vị đứng nhất lớp; chỉ khi qua Đệ nhất Quốc học mới chịu đứng thứ hai, (nên dỗi không đi lãnh phần thưởng thật là trẻ con!).

Thành tích học ấy là niềm mơ ước của các phụ huynh khá giả hồi đó để mong đưa con vào trường Dược, trường Y. Và chính tôi cũng từng ôm mộng như thế, nên khi vào lớp Đệ tam tôi đã không chọn ban Văn chương (ban C) dù tôi rất thích và khá giỏi hai môn Anh và Pháp ngữ, mà ghi vào ban Vạn vật (ban A), vì ông anh Cả ở Sài Gòn ra thăm bố mẹ tôi, biết thành tích học của tôi, nên hứa sẽ “nuôi” cho tôi học Dược ở Sài Gòn. Thế là tôi chúi đầu vào “gạo” Vạn vật và Lý Hóa để chuẩn bị được cầm cái bằng Tú tài II, hầu bước vào Đại học. Tôi vui mừng bay ngay vào Sài Gòn (với tấm vé mà cha tôi phải mượn tiền để mua). Nhưng oái ăm thay, ông anh Cả tôi đã quên lời hứa, kèm lời phán của bà chị Dâu: “O Hồng con gái học chi cho lắm, chỉ ích lợi mai sau chồng nhờ, thôi để tiền nuôi chú T (em trai tôi)…” Và khi tôi trở lại Huế thì đã quá muộn để ghi tên vào phân khoa Đại học, chỉ còn Sư phạm Quy Nhơn nhận đơn, tôi ghi danh thi và đậu ngay.

Các bạn ơi! Giờ đây tôi kể dông dài như trên không phải là nhằm mục đích khoe mẻ thành tích của người về già còn tiếc nuối cái quá khứ học giỏi của mình (để làm gì cơ chứ?!), mà chỉ để các bạn biết cho lòng tôi miễn cưỡng thế nào khi vào Sư phạm Quy Nhơn buồn tủi vì cha mẹ nghèo không đủ tiền cho con học cao, lại tự ái và sỉ diện hão với bạn bè cùng lớp tôi đã từng ray rứt với ý muốn bỏ trường bỏ bạn, rời xứ dừa sau mỗi biến cố của đời tôi. Nhưng ân tình sâu đậm của Thầy, của bạn mà tôi sắp kể dưới đây đã gắn số phận tôi với trường Sư phạm, với nghề giáo thân thương mà đến nay tôi rất đỗi tự hào.

Hai năm học ở trường Sư phạm Quy Nhơn tôi đã phải gánh chịu hai cái đại tang hai cái tang quá lớn trên đôi vai gầy của một cô gái ngây thơ bé bỏng. Có lẽ linh cảm điều đó không vui cho tương lai của tôi, nên chuyến tàu lửa mang tôi vào xứ dừa thật ảm đạm, tiếng bánh xe sắt của con tàu đều đặn lăn trên đường rầy hòa với tiếng chong chóng quay ầm ào của hai chiếc trực thăng hộ tống vần vũ trên đầu toa xe (đề phòng VC tấn công).

Nhập học tháng 9 thì một chiều tháng 12, tôi được điện tín báo tin cha tôi qua đời vì đột biến. Sóng biển, hàng dương bên trường than khóc cùng tôi suốt đêm. Các bạn nội trú xúm xít an ủi vỗ về tôi. Trong đầu tôi lởn vởn ý tưởng về Huế rồi sẽ không quay trở lại vì mục đích học Sư phạm của tôi là vừa có học bổng, vừa chóng ra trường có tiền để giúp cha già không còn nữa. Nay cha mất rồi thì tôi học tiếp ở đây làm gì? Về Huế sang năm thi vào Đại học Sư phạm hoặc học SPCN để chuẩn bị vào trường Y khoa.

Sáng hôm sau, bạn bè cùng phòng nội trú, cùng lớp và cảm động nhất là thầy Lương, Hiệu trưởng, cùng tiễn tôi tận chân cầu thang lên máy bay. Thầy xoa đầu tôi an ủi thật trìu mến như cha tôi thường làm với tôi. Thầy còn cử anh Võ trị Hà, người trưởng tràng, lại là hàng xóm của tôi tháp tùng theo tôi để đại diện trường phúng điếu cha tôi và giúp đỡ tôi trở về trường. Anh Hà cũng thích vì được dịp về thăm Mạ. Nhìn xuống sân bay tôi thấy mái tóc thầy như bạc thêm, cùng những cánh tay vẩy vẩy của bạn bè mờ đi sau làn nước mắt. Trước ân tình ấy, ý nghĩ sẽ bỏ trường bỏ lớp bỗng tan biến trong đầu. Tôi trở lại trường tìm vui trong tình thương của thầy, của bạn. Tôi lại vô tư gây cười cho các bạn, thường tự xưng mình là Hồng Thất Công (trong Thần Điêu Đại Hiệp) khi ngồi trên lầu hai, lầu ba mà dùng tài đánh hơi của lão “Cái Bang” đoán trúng phóc trưa nay Mệ Huế cho ăn món gì, khiến các bạn phục lăn và cười như “nắc nẻ” khi xuống tới phòng ăn. Tại đây, cả nhóm ăn lại nhỏng nhẻo với Mệ Huế là không ăn được cá ngừ, cà nướng… v…v.. Tội nghiệp Mệ Huế lại trìu mến sai đổi cho thành món chả trứng, cá thu chiên… Thế là các nàng dù là Hoàng Dung xinh đẹp, dù là “Phật tổ” Như Lai, dù là nàng Tôn Nữ Âu Dương Phong e lệ… (biệt hiệu của các bạn cùng phòng nằm cạnh giường tôi) đều ăn ào ào như tằm ăn rỗi, đem soong vào xin thêm cơm. Các chị bếp vui vẻ xới thêm rất tự nhiên để các cô khỏi thẹn, chỉ một nhát xúc của chiếc đũa bếp to như cái “xẻng xúc đất” là đủ đầy soong cơm. “Kílô” của các nàng tăng vùn vụt, vì sáng nào cũng “nhón” sạch hai thúng khoai lang luộc, bánh ú của hai nhóc con bác cai đội lên bán. Khỏi rao, khỏi mời, hai chú đã được các nàng ngóng từ thật xa, rồi đón ở cầu thang và thoáng một chốc chỉ còn hai cái thúng không. Các chú chỉ việc ngồi chờ, một lát sau các nàng đem tiền ra trả đủ. “Này chị hai xâu (khoai)…, này chị hai cặp (bánh ú)…”. Các nhóc chỉ việc đếm tiền, xong đội thúng ra về. Hỉ hả!!! Giành nhau mua vậy, nhưng ai chậm chân không mua được đều có phần chia cho. Vui như hội! Ăn, ngủ, cười và… chờ thư. Chỉ khi nào đọc thư người yêu thì mỗi nàng lui về một thế giới xa xôi với khóc, cười, trăn trở…

Nhưng số phận lại không mỉm cười với tôi vào năm sau, tôi lại chịu cái đại tang thứ hai. Lần này không phải là vành khăn trắng lên mái tóc, mà là mảnh khăn đen vắt qua “con tim vừa vui trở lại” của tôi: Người yêu của tôi, mối tình đầu trong sáng của tôi, vị hôn phu của tôi đã phụ tình tôi. Đời phi công hào hoa, đời lính cận kề bên cái chết, cùng với thái độ tránh né giữ gìn thái quá của người con gái Huế như tôi, cộng thêm không gian xa cách, khiến chàng sa ngã vào ánh sáng phù hoa, vào niềm đam mê vội vã mà nói lời bội ước với tình xưa. Trước lời thú nhận đã lỡ lầm của vị hôn phu, dưới sự chứng kiến của gia đình hai bên, dù mẹ chàng cố nói ra lời hàn gắn, nhưng tôi đã bình tĩnh chúc chàng hạnh phúc (không một giọt nước mắt van vỉ, không một lời oán trách hờn ghen), vì tôi nghĩ rằng bất cứ thái độ nào khác cũng sẽ đánh đổ thần tượng của chàng trong tôi. Và tôi cũng không cần một chút nào lòng thương hại của kẻ khác. “Người ta phụ mình, nhưng làm sao cho người ta vẫn tôn trọng mình”, tôi nghĩ thế.

Từ Sài Gòn trở lại Quy nhơn với con tim băng giá, với đôi mắt ráo hoảnh, tôi lại có ý nghĩ bỏ Sư phạm, rồi về Huế ghi danh học Đại Học để trở thành một bác sĩ, hơn hẳn” người ta” cho bõ tức. Nhưng anh lớp trưởng nhận ra nỗi buồn vời vợi trong tôi. Chờ lớp về hết, anh ở lại hỏi tôi “Sao em có vẻ buồn thế?”. Anh lớp trưởng đã có vị hôn thê ở Quảng trị và xem tôi như người em gái nhỏ. Tôi cũng xem anh như anh mình, nên khi anh hỏi chạm đến vết thương lòng, tôi đã òa lên khóc nức nở và kể cho anh nghe về mối tình tan vỡ của mình. Anh để yên cho tôi khóc, rồi dùng lời an ủi động viên tôi. Sau đó anh cùng các bạn trong lớp tổ chức nhiều chuyến du ngoạn ngoại thành: thăm Tháp Chàm ở Quy nhơn, trại cùi Quy hòa, viếng mộ Hàn Mặc Tử…, để tôi thấy nhiều cảnh khổ gấp bội mình. Rồi chuyến đi về Tuy Phước, thăm sâu vào làng quê Bình Định với những phong cảnh thật nên thơ, nhưng thấp thoáng những bộ quần áo đen lầm lũi (VC đó). Thấy thật rùng mình, may mà có anh trong đoàn, sinh trưởng ở vùng đó nên không việc gì. Rồi những phút cùng các bạn nội trú lầu ba ôm nhau lăn xuống gầm giường khi VC tấn công nổ bom tự sát làm sập lầu Việt Cường dưới phố (nơi có binh lính Mỹ đến đó ăn uống sau mỗi cuộc hành quân). Khi lầu hết rung chuyển, chúng tôi cùng chui ra một cách khó khăn gấp bội so với khi chui vào. Thầy Giám học lên bảo: “sao lại chui xuống gầm giường, sao không chạy xuống núp trong các hố cát ngoài sân, nhỡ lầu sập thì sao?”

Thì ra khi hoảng hốt, chúng tôi đã hành động giống như những con đà điểu rúc đầu vào cát lúc gặp hiểm nguy. Nhưng nằm trong hố cát ở sân nhìn lên trời càng đáng sợ hơn: những lằn đạn xanh đỏ bay vèo vèo trên bầu trời do VC tấn công vào thành phố, bên ta chiến đấu đẩy lui. Thế là cái khổ, cái chết lại giúp tôi gắn bó với trường với bạn, chúi mũi tìm quên trong việc học, uống từng lời dạy dỗ của thầy cô để ra trường với hạng thủ khoa (mà các bạn cứ trêu là “thủ khôi” khiến tôi hờn giận mãi thật là trẻ con!). Tôi được chọn giữ ở lại trường làm giáo sư hướng dẫn các khóa sau, nhưng tôi chỉ muốn về Huế để được sống bên mẹ già.

Rồi chính nhờ được làm một cô giáo hiền hòa, mẫu mực mà tôi đã vượt qua những nghiệt ngã của số phận do sự đối xử hà khắc của gia đình chồng và những tai ương của đất nước tạo nên. Môn tâm lý giáo dục của thầy Mẫn dạy tôi biết nói những lời ái ngữ với học trò trước khi phê bình cái sai của chúng. Nhớ lời thầy, tôi không bao giờ phê “chữ cẩu thả” mà “em cần viết cẩn thận hơn”, hoặc không phê “vở nhớp quá” mà là “vở sạch mới đẹp”…

Những năm dạy tiểu học, trong cặp tôi lúc nào cũng có hộp kim chỉ để khâu áo cho những em nào nhỡ rách, có cả lượt dày để chải chí cho mấy em gái nghèo thiếu bàn tay mẹ chăm sóc, có cả kéo để cắt tóc cho các em khỏi bị tóc che mắt…

Khi được chuyển về trường cấp II Thuận An thì nơi đây là quê hương thứ hai che chở giúp tôi vượt qua những khổ ải do gia đình chồng đọa đày. Lúc phải rời bỏ gia đình chồng do bị đàn áp quá đáng, các phụ huynh ở Thuận An đã đùm bọc, an ủi xoa dịu cho tôi những vết thương từ thể xác đến tâm hồn. Thậm chí có người mở lời cho tôi và hai con vượt biên cùng con của họ mà không phải đóng một cắc bạc, nhưng tôi không thể bỏ mẹ già và cậu em bị tâm bệnh để ra đi. Các học sinh của tôi đều mê môn Văn tôi dạy, phải chăng do tôi đã trao truyền cho các em tất cả tình cảm thương yêu và trải nghiệm của bản thân vào trong mỗi bài giảng?

Thời bao cấp, nhà giáo đều thiếu thốn, nhưng tôi biết tranh thủ thời gian để chạy chợ nuôi mẹ, em và các con no đủ. Thấy các cô giáo mà phải vất vả ngược xuôi, các cô dì chủ hàng cũng thương, dành cho sự nhẹ nhàng, ưu ái. Một số bạn tôi bỏ nghề, vì nghề giáo cơ cực quá, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ rằng nhờ giữ nghề dạy học mà một người mẹ đơn thân như tôi mới có thể giáo dục các con chăm ngoan, thành đạt và có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn bố mẹ chúng. Tôi cảm thấy lời Phật dạy “sống từ bi, hỉ xả” như thấm từ lúc nào vào cuộc đời làm cô giáo của tôi, tự nhiên như cây cỏ hấp thụ khí trời. Tôi không hề oán hận ai, thậm chí cả với người đã hành hạ mình.

Có lẽ cuộc đời nhà giáo của tôi chỉ biết gieo nhân lành nên cuối đời gặp quả ngọt: người yêu đầu đời của tôi đã trở về quỳ xuống xin tạ tội vì đã để đời tôi bấy lâu chịu khổ đau. Anh đã đón tôi sang đất nước Hoa Kỳ để tôi được sống sung sướng quãng đời còn lại. Tôi được học sinh cũ của trường Trung học Thuận An từ nhiều tiểu bang về chào mừng hoặc gọi điện thăm hỏi, dẫn cô đi thăm thú cảnh đẹp nhiều nơi.

Ôi, còn gì sung sướng hơn khi thấy những học sinh bé bỏng ngày xưa của mình, giờ đây đã trở thành những trung niên khôi ngô, thành đạt, những thiếu phụ xinh đẹp, lịch lãm nơi xứ người. Vậy mà đối với cô giáo cũ, các em vẫn một tiếng “thưa” hai tiếng “dạ” rất đỗi lễ phép, khiến lòng tôi cảm thấy xúc động nao nao, tự hào về mình và về các học sinh thân yêu.

Tôi còn được gặp lại các bạn nội trú trường Sư phạm Qui nhơn ngày xưa, nay các nàng đều xấp xỉ ở ngưỡng “thất thập cổ lai hi”, nhưng vẫn xinh đẹp, vẫn yêu đời và nhất là tình bạn vẫn nồng nàn, thắm thiết như xưa. Phải chăng, nhờ ngành Sư phạm mà vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt nam vẫn nở hoa trên xứ người!

Chính vì thế, như đầu bài viết, tôi có kể lể là tôi miễn cưỡng thi vào trường Sư phạm, thì nay tôi xin sửa sai để khẳng định: Nếu có kiếp sau, tôi lại cố gắng học để được thi vào ngành Sư phạm, được làm một cô giáo mẫu mực, dịu hiền, để trao hết tri thức và tình cảm yêu thương của mình cho thế hệ mai sau: gieo những nhân lành nhằm tạo quả ngọt cho đời.



Nguyễn thị Hồng

https://vvnm.vietbao.com/p210a232198/neu-co-kiep-sau

Nắng Quảng Trị

_________________________
Tôn Thất Tuệ _ 2014


Đông Hà Quảng Trị 1969

Gió Lào thổi cháy cả tay kèm theo những hạt cát như tên bắn vào da. Hơi nóng ấy ở Quảng Trị tôi nghĩ đủ sức đập vỡ những phân tử tinh dầu trong những ngọn lá tràm hoang không chờ người cắt về nấu chưng cất thành một dung dịch xanh lục có tác dụng giảm đau nhức, dầu khuynh diệp bác sĩ Tín, dầu tràm Dung ga Huế… Dân cư mắt bét vì cát tác quái lên phần da mỏng thín bên trong con mắt. Trên những truông những độn ấy, chỉ có những cây thấp, chặt về nhà lấp dưới vồng khoai lang cho xốp đất, hoặc bỏ vào chuồng heo đạp sau nầy làm phân. Những rừng chồi có sim, móc…Cây tràm nhỏ lắm không như cây tràm Cà Mâu dùng làm cừ cất nhà.

Dãy Trường Sơn dựng đứng như vách, biến vùng phía tây thành khu đại lục về phương diện khí hậu. Mặt trời mùa hè làm cho không khí căng ra như bong bóng. Hơi nóng từ bên Lào theo nguyên tắc trao đổi nhiệt lượng chạy qua khe núi như cái sấy tóc vào Quảng Trị tiếp giáp biển Đông. Thung lũng Bakerfield bắc thành phố Los Angeles cũng mang hình thái đại lục vì bị chấn ngang bởi một dãy núi ra tận bờ nước. Bầu “nhiệt tình” ấy hằng năm tặng cho Nam Cali lớp sóng nóng (Santa Ana Heat Wave). Nó không tác hại cho dân Mỹ vì điều kiện sinh sống đầy đủ, nhà cửa che kín, máy lạnh v.v…

Nhưng với Quảng Trị thì khác. Gió Lào, nó rất lào!, nó đến kèm theo cát bụi và nhất là không thổi cơm được, không thể nhóm lửa. Phải nấu cơm từ khuya, lúc ấy nhiệt độ đại lục xuống thấp, không khí teo lại chờ mặt trời mới phình trương mà đi xuống Quảng Trị.

Trong nắng trưa hè, khoảng 1970 tôi đi qua mảnh đất nghèo xác xơ ấy, tháp tùng bộ trưởng Xã Hội và hai hay ba nhà ngoại giao Âu Châu trong nhiệm vụ thanh sát đời sống của dân di tản các làng nay thành trận mạc. Đoàn thanh tra được hướng dẫn bởi ông trưởng ty địa phương và các nhân viên tòa tỉnh. Đi được một hồi, đột nhiên ông vội vã đưa tay mời đoàn người đổi hướng.

Bên hẻm không người đi
một mái tranh trên cát bều xều như ở bãi biển
một thiếu phụ, duy nhất một người, nói lại chỉ một người
không có áo tang, chỉ có vành khăn trắng,
trên cát bều xều,
trong tư thế nửa ngồi nửa nằm sấp,
bà khóc.

Hai tay bấu vào nền cát như đang xoa bóp lưng ai.
Trong cái u ám của lòng người và ngoại cảnh tiêu điều
có hai màu rực sáng: màu vàng và màu đỏ.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ trên một quan tài.

Túp lều trống vốc, ngoại cảnh, nội tâm
đều nằm hoàn toàn trong quyền thống trị
của ba hiện hữu liên hệ mật thiết dính bó với nhau:
quan tài phủ cờ vàng ba sọc đỏ
thiếu phụ vọc đất,
lon sữa bò có cắm mấy chân nhang đỏ.

https://tonthattue.blogspot.com/2022/07 … t-nam.html

Hương linh đã quy y Phật

______________________

Tôn Thất Tuệ _ 3/9/2022

Sau chiến tranh 1945 vì nhà tan nát tôi tá túc ở chùa Thiên Minh, dốc Nam Giao giữa Từ Đàm và Báo Quốc. Đến chùa thì trước tiên chào thầy trụ trì (Thích Quảng Huệ, gốc Sịa) rồi đến “Bà Chùa” vì đệ tử của thầy còn nhỏ, ví như Pháp Chủ Thích Mãn Giác lúc ấy vừa thoát cái tên Điệu Sung; Bà Chùa xem như quản gia của chùa. Đó là bà Công Tằng Tôn Nữ Tâm Dung. Bà có người em gái thường gọi là Cô Em. Cô Em có người con gái là chị Phán kêu theo chồng là ông phán tên Vy, thư ký làm ở Thừa Phủ, tức là tòa tỉnh, anh Vy gốc Quảng Bình.

Cô Em và gia đình anh Phán cùng ba con sống ở một ngôi nhà gạch bên kia đường, chệch lên Từ Đàm chừng 200m, nhà bên cạnh ông thợ rèn đập búa đập đe. Trưởng nam của anh chị là Ma Cẩm Tuyền, rồi đến Ma Cẩm Tú và một em gái tôi quên tên. Ít khi anh Phán qua chùa nhưng chị Phán thì ngày cách ngày đem các con qua chùa. Ai cũng chọc Ma Cẩm Tuyền nói chớt: ba con làm ở Thừa Hụ. Ít lâu sau anh Phán chết bệnh.

Từ ngày góa chồng, như người ta kể lại, chị Phán thường xuống Chợ Bến Ngự giao tiếp với nhiều người. Không lâu sau đó, nửa đêm chị Phán bị bắt cóc và tuần sau người ta tìm xác chị Phán bên vệ đường giữa Nghẹo Dàn Xay và núi Ngự Bình. Ít lâu sau tôi về Bến Ngự sống gần nhà cũ. Bẳng đi hơn 10 năm tôi thành một huynh trưởng hướng đạo học nghề, cùng anh Đoàn Mộng Ngô lập thiếu đoàn Trường Sơn. Tôi trở về Nam Giao “mộ lính”. Ma Cẩm Tuyền và một số bạn hữu thành đoàn viên của tôi.

Nhân đọc trên FB về sự từ trần của một trong những em nầy (Đinh Hữu Quyến) tôi viết về kỷ niệm lập đoàn. Một độc giả cho biết đã sống gần nhà Ma Cẩm Tuyền ở Nha Trang nhưng không biết thầy giáo hiền lành nầy đã là một hướng đạo sinh.

Tôi không chứng kiến việc đi lượm xác chị Phán, chỉ biết sau đám ma, Tuyền và các em mặc áo chế qua chùa cúng cơm cho bố.

Thời gian nầy trước 1950. Chia đều thời gian thành tuần thì tuần nào cũng nghe tin bị bắt cóc như chị Phán, tin có kẻ vào nhà bắn chết. Vào mùa đông, tôi phải từ chùa Thiên Minh qua phía chùa Linh Quang đi lấy đậu khuôn lúc trời còn tối trước khi đi học, có lần đá vào xác chết bên vệ đường.

Rùng rợn nhất là thằng Sắc cùng lớp kéo tối đi vào lối vô chùa Vạn Phước xem xác của sáu ông thầy tu vừa bị hạ sát đêm qua ngay trước cỗng một ngôi chùa gần nhà xa cửa ngõ với Vạn Phước. Người lớn nói với nhau mấy ông nầy là Phật Giáo Thuyền Lữ.

Nhưng cái chết để lại nhiều nét trong đầu tôi là cái chết của mẹ Con Ngãi. Ngãi rất đẹp lớn hơn tôi nhiều nhưng ai cũng gọi là Con Ngãi, tôi cũng gọi như vậy. Mẹ Ngãi buôn thúng bán bưng ở Chợ Bến Ngự cùng hai con là Ngãi và em gái là Tuyết sống trong ngôi nhà tranh ngay cỗng chùa Thiên Minh.

Còn sớm con Ngãi qua chùa nhờ thầy qua thành gọi anh Ân là anh cả, mẹ Ngãi đã bị bắn chết giữa đêm, hai chị em ôm xác mẹ chờ sáng.

Hôm cúng cơm ngay sau khi chôn, tôi đeo song cửa sổ nhìn vào chánh điện. Anh Ân quỳ giữa bưng bát hương, hai bên là Ngãi và Tuyết mỗi người ôm một cây đèn sáp. Khi thầy xướng: Hương linh đã quy y Phật; anh Ân cúi vái, bát hương cũng nghiêng theo. Hai cô em cũng vái, làm cho hai cây đèn cũng nghiêng theo, đổ những giọt sáp nóng xuống chiếu, như những giọt nước mắt nóng. Hương linh đã tạo những vọng nghiệp giai do vô thủy tham sân si, hương linh đã quy y Phật, hương linh sám hối. Người bắn chết hương linh có sám hối không?

https://tonthattue.blogspot.com/2022/09/huong-linh-quy-y-phat-ton-that-tue-sau.html

Yêu hoa ngày mưa

    
__________________________
Quỳnh Chi


Viola

Về chiều mưa rơi sướt mướt. Khi mệt, muốn cảm, chỉ thấy ớn lạnh khi nhìn mưa rơi. May là chiều hôm trước đó đã lặn lội đi xa tới mấy ga tìm mua mấy thứ đồ dùng, khi trời còn nắng ráo. Chỉ hơi tiếc vì khi trời nắng lại không có thì giờ đi xem phong lá đỏ ở ga Isegahara. Ở đó họ nói rằng cho đến cuối tháng này có thắp đèn sáng khắp khuôn viên đền cho tới tối, để du khách leo núi viếng đền có thể ngắm phong lá đỏ cả về đêm.

Hoa anh đào về đêm tỏa mùi hương nên ngắm hoa ban đêm còn có lý, còn phong lá đỏ có mùi thơm hay không mà lại cầu kỳ phải đi ngắm về đêm thế nhỉ ? Dân tộc nào có tính hay lý sự – hay cãi ..hay kiện cáo- chắc hẳn sẽ thắc mắc như thế, nhưng người Nhật vốn yêu thiên nhiên cây cỏ , có lẽ người ta vì yêu quá nên hết ngắm ngày tới ngắm đêm, như kiểu câu thành ngữ của họ “Me ni irete mo itakunai” ? ( = Nhìn thấy đáng yêu quá nên cho luôn vào mắt – để ngắm muốn… lỗ (nổ) con mắt (!!!??) – vẫn không thấy đau ! )

Chiều mưa buồn, càng thêm lạnh như trời đã sang đông. Mấy chiếc bao gối tựa lưng mới mua – khi mua có nhồi bông hẳn hoi nhưng đã phải lấy hết ra để xếp gọn vào vali – nằm co ro trên ghế,

Phải rồi, hay là đội mưa đi mua bông làm lõi cho mấy cái gối này kẻo tội ? Có lẽ cũng phải tìm ra một cái cớ để ra ngoài sương gió. Từ sáng tới giờ trong nhà im vắng, cho đến tivi cũng quên mở để nghe tiếng người. Cảnh vật xung quanh tĩnh lặng đến cô liêu.

Ra đường, không định mà vô tình lại đi về hướng cửa hàng Topos – nay đã đổi chủ đổi tên là Taison – ở tận cuối phố buôn. Không biết từ bao giờ trước cửa hiệu tạp hóa này nay có thêm một hàng hoa, chỉ chuyên bán luôn cả cây cả chậu. Lúc sau này – khoảng gần hai mươi năm trở lại đây – nhiều bà nội trợ Nhật có thú làm vườn, ưa trồng hoa, dù chỉ trồng trong chậu để ngoài ban công hay trên rẻo đất hẹp quanh nhà, trước cửa ra vào. Bởi vậy mà vô số hàng hoa như vậy mọc lên nhan nhản ở mọi đầu đường góc phố. Thậm chí, trong khu phố buôn quanh ga, hễ có mảnh đất trống nào còn chờ xây lại, liền thấy một hàng hoa “dã chiến” xuất hiện, chậu hoa bầy la liệt dưới đất, để rồi cửa hàng hoa cũng sẽ nhanh chóng dọn đi trước khi công ty xây cất đến đào móng đổ bê tông. Mấy hàng hoa như thế bán rẻ hết sức, giá chỉ bằng khoảng một nửa hay ba phần tư giá bán trong các cửa hiệu đàng hoàng.

Hàng hoa trước cửa hiệu Taison mở dưới mái hiên và cả trên lề đường, có bầy sơ sài mấy chiếc bàn dài, trên mặt bàn và dưới gầm bàn, quanh bàn là những chậu hoa lớn nhỏ đủ mầu. Một chậu hoa winter cosmos màu hồng nhạt mới thấy hôm trước ở đầu kia giá 98 yên, cho là đã rẻ lắm rồi, mà ở đây chỉ còn nửa giá ! Lại không định mà ghé vào đấy một lúc, chọn được cả một giỏ hoa hồng, tím, trắng, vàng…..


Winter cosmos

A A ! từ đây còn phải lên tới tầng năm để mua bông nhồi gối. Nhưng tội gì phải khệ nệ mà xách hết từng này chậu hoa leo lên, rồi leo xuống nhỉ..

  • -Cô bán hoa ơi, chút nữa tôi trở lại lấy hoa được không ?

Cô bán hàng từ trong góc nơi có chiếc bàn tính tiền kê dưới mái hiên chạy ra, niềm nở đáp :

  • – Arigatou gozaimasu ! Ame no hi na no ni …wazawaza to kai ni kite kudasatte..Douzo ..Douzo ! Itterasshai !

Ame no hi na no ni, trời mưa gió mà …( quý khách mất công tới đây..Quý hóa quá ! Được mà, xin quý khách cứ đi đi rồi chút nữa trở lại cũng được).

Mới mưa một chút (có phải là giông tố hay lụt lội gì đâu ..nhưng) ở xứ này họ hay nói như vậy đó. Có lẽ người ở xứ nóng yêu mưa nhiều hơn là người ở xứ lạnh. Mưa càng về cuối năm càng rét buốt, làm như họ đã quên đi vẻ đẹp nên thơ của những ngày mưa dưới màn mưa huyền ảo, có những giọt mưa long lanh trên từng cọng lá trong vườn. Ở đây trẻ em ở các khu xóm bình dân không có thói quen tắm mưa. Tuổi học trò không biết lội mưa, đùa nghịch dưới mưa.

Và ngay cả mình đây nữa. Chút nữa, hễ nước mưa lọt vô gói hàng là bông sẽ ướt sũng. Trước mắt phải nhớ một điều rất thực tế : nhớ dặn họ gói bông cho kín giùm ! Ở đó mà lơ đãng mơ màng !

Xong rồi. Gói bông đã được cô bán hàng cho cái túi thật lớn, cuộn mép lại và dán băng keo kín bưng. An tâm ra về, và ghé lại lấy hoa.

          
Pansy                                  North Pole

Cô hàng tính tiền xong, đưa túi hoa cho khách, còn chìa ra một mẩu giấy nhỏ và giải thích :

  • – Đây là tên hoa và lời hoa ( Hana kotoba ), tôi dán vào phía trong túi đây nhé !

Chưa thấy ở đâu một cô hàng hoa dễ thương chu đáo với khách hàng như thế. Thì giờ đâu để cô chép lại ngần ấy tên hoa và lời giải thích về ý nghĩa của từng loại hoa. Có lẽ vì người Nhật quả là yêu hoa, nên mới có một cô hàng hoa khả ái như thế này chăng.

Bỗng mình đạp xe thật mau như hối hả mong mau về tới nhà, háo hức muốn đọc những gì ghi trong mẩu giấy. Cuối thu, trời sập tối từ lâu. Vào nhà, dưới ánh đèn, trên mẩu giấy hoa con con, có lẽ là phiếu ghi tên hoa để kèm theo các chậu hoa đắt tiền hơn, là những giòng chữ viết nắn nót :

“Xin cảm ơn quý khách đã đến mua hoa ngày mưa.
Sau đây là tên hoa và lời những bông hoa mà quý khách đã chọn mua, lời nào cũng hay cũng đẹp:
Winter cosmos = Nhẫn nại, hòa hợp
North Pole = Chân thành
Pansy = Suy tư
Stock (Malcolmia) = Vẻ đẹp vĩnh cửu
Viola = Khiêm nhượng, chân tình “


Mẩu giấy hoa màu hồng nhạt như mảnh vỏ ốc trai lóng lánh, tiếng Nhật gọi là sakura-gai, mà những đợt sóng biển dạt vào bờ đã để lại làm quà tặng cho bãi cát vắng chiều thu.

Cuối thu rồi sang đông, sẽ còn nhiều ngày cuối tuần dài dằng dặc trong mưa lạnh tái tê.

Hôm nào có việc ra đường mà làm biếng, sẽ nhắc mình đừng quên nơi cuối phố này có cô hàng dịu dàng, sẽ ban thưởng món quà tặng đặc biệt dành riêng cho khách yêu hoa ngày mưa.

Quỳnh Chi
(Mùa lễ Cảm tạ Cần lao và lễ Tạ Ơn, 24/11/2008)

https://amvc.fr/Damvc/GioiThieu/QuynhCh … ynhChi.htm

Con Đường Đi Tới Golden Gate

Post by Bạch Vân » Tue , 18 Oct 2022





  • Tôi không nhớ quyển sách nào có bài học Anh ngữ gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi, đó là bài nói về cầu Golden Gate ở San Francisco. Cầu được bắt đầu xây cất vào năm 1933, dưới thời Tổng thống Roosevelt. Bốn năm sau, 1937 mới hoàn tất. Đây không phải là một cây cầu dài, vì nó chỉ có 2.737m. Bề ngang 27m, nhưng việc đáng nói là chiếc cầu nặng 811.500.000 kg được treo trên 2 dây cáp. Cây cầu treo bằng 2 dây cáp chính buộc chặt ở hai đầu cầu rồi gác lên trên 2 tháp cao ngoài biển, mà đỉnh tháp cách mặt nước tới 227m.

    Từ cầu xuống nước là 67m.( Treo vì muốn nâng cao để tàu lớn giao thông qua lại. Đây là hành lang thủy đạo nối liền Thái Bình Dương với vịnh Cựu Kim Sơn). Sợi dây cáp có đường kính 0m92 được bện bởi 61 tao kim khí, do 27.572 sợi thép kết lại. Chiều dài của dây kim loại dùng trong 2 dây cáp là 129.000 km và chỉ nội công tác bện 2 dây cáp này đã mất 6 tháng, 9 ngày. Để sơn cầu, phải dùng hết 37.800 lít sơn màu cam. Ngày khánh thành 26.5.1937 chỉ cho người đi bộ qua cầu thôi. Trên 200.000 người đi qua trong 12 giờ đầu tiên.

    Ngày hôm sau tới phiên xe hơi, trong ngày đếm được 32.300 chiếc. Kỹ sư trưởng đảm nhận công trình xây cất là Joseph Baerman Strauss và cũng là người đã suy nghĩ suốt 22 năm để vẽ ra kiểu mẫu cây cầu. Sách cho rằng Golden Gate là một công trình có kiến trúc kỹ thuật xuất sắc, hoành tráng, hùng vĩ và được yêu chuộng nhất của nước Mỹ. Lại thêm ông thầy Anh văn là người đã du học Mỹ, từng tham quan Golden Gate “tán” thêm vào, khiến tôi hạ quyết tâm phải đến đó cho bằng được.

    Tôi có tên chuẩn bị đi tu nghiệp ở Nữu Ước 2 năm Tháng 6 -1975 mới đi, tháng 4 miền Nam đã sụp đổ. Mộng tham quan Golden Gate của tôi tan tành theo vận nước.

    Năm 1979, vợ chồng tôi và đứa con gái đầu lòng mới 9 tháng bị ở tù vì tội vượt biên tại huyện Châu Thành, Bà Rịa. Được thả ra, tôi lại tiếp tục tính chuyện ra đi. Khi tôi làm chủ ghe, khi làm tài công, lúc làm chủ bãi, lúc mua vé…19 lần thất bại, nhà tan cửa nát. Ông hàng xóm quen một đường dây đi bộ qua Kampuchia. Nhiều chuyến đã tới.

    Vì đi học tập mới về, còn bị quản chế, mọi di chuyển đều gặp khó khăn. Cho nên ông đề nghị cho tôi mượn tiền, với điều kiện dẫn Lộc, con trai 10 tuổi của ông cùng đi. Vùng trước cho người dẫn đường 5 chỉ để dẫn qua Miên. Khi tới Thái Lan, người tổ chức sẽ lấy mật mã từng người đem về Việt Nam, người nhà sẽ thanh toán. Ông hàng xóm bảo đảm sẽ trả giúp, và thân nhân của tôi ở nước ngoài cũng cam kết trả lại cho thân nhân của ông ở Canada 3.000 mỹ-kim.

    Lần thứ 20, tôi ra đi một mình vì không còn khả năng đài thọ vợ con. Nửa chỉ vàng cuối cùng là chiếc nhẫn đính hôn, vợ tôi trao cho tôi để phòng thân. Tôi để lại nhà vì thật ra không biết sống chết thế nào. Dù sao nhờ nó, 4 mẹ con ở nhà cũng có cái ăn được đôi ba tuần để chờ tin tôi.

    Lộc và tôi rời nhà vào ngày 16/7/1987. Người Miên dẫn đường phát cho chúng tôi một ít tiền riel. Y lên xe nào, chúng tôi lên xe đó. Y xuống đâu, chúng tôi xuống đó. Xuống Châu Đốc, qua phà, rồi đi thuyền dọc sông Mékong. Gần tới biên giới, lợi dụng đêm tối trăng, theo đường tắt băng qua rừng. Bỗng nhiên có tiếng chó sủa. Lúc đầu một con. Dần dà 4, 5 con sủa inh ỏi chạy phía sau. Tôi than thầm khổ mạng. Chắc chắn là chó của công an biên phòng Việt-Nam. Bị bắt lại lần này, ở tù lâu lắm. Trong tột cùng vô vọng, tôi quay phắt lại chỉ đám chó:

    – Đứng lại. Tao không ăn thịt chó, tụi bây không được hại người!

    Tự nhiên đám chó chúc cái mõm lên cao rồi gừ gừ đứng lại. Lộc nói:

    – Phép chú Mai ngầu quá.

    – Phép khỉ gì, đi lẹ lên.

    Lọt qua biên giới, người dẫn đường đón chiếc xe Daihatsu . Chúng tôi vào thủ đô Phnom Penh. Họ ếm chúng tôi trên lầu cùng với mười mấy người khác. Ban tổ chức dặn dò không được đi đâu, nhưng tôi cũng trốn ra tìm tới ông cậu vợ, người Long An đi tập kết về đang làm chỉ huy trưởng kiểm soát quân sự, (tức là quân cảnh) để xin theo xe bộ đội đi Siem Riep. Mục đích là để tham quan đền Đế Thiên Đế Thích. Sợ rằng chuyến đi này chưa chắc còn sống để trở lại Miên, nên đánh liều để xem cái kỳ quan thế giới này ra làm sao. Mấy ngày sau trở về, mới biết lẽ ra nhóm chúng tôi đã lên đường, nhưng còn thiếu người.

    Họ phải thế cái nhóm ở Sài Gòn mới qua, vì nhóm này đã gom đủ. (Sau này khi qua tới Thái Lan, mới biết nhóm 30 người ấy đã xuống thuyền rồi, nhưng mất tích vĩnh viễn luôn!). Một ngày trước khi xuất phát, nhóm chúng tôi được dặn dò kế hoạch ra đi. Khi giới nghiêm chấm dứt lúc 5 giờ sáng, từng 2 người một mở cửa bước ra đường đón xe xích lô đi chung. Xe này đi xong, 2 người khác mới bước ra đón xe tiếp, không ra đông người sợ bị lộ. Các thanh niên rời nhà lên xe. Tới phiên tôi và Lộc đi chung. Tôi đón nhằm một ông già. Chiếc xích lô của ông rít lên cót két rồi lẹt đẹt phía sau. Những người kia đón nhằm thanh niên sung sức, nên họ đạp xe bon bon đi xa mất dạng.

    Sương mù dày đặc không trông thấy gì hết. Tôi hoang mang vì làm sao thấy được cây cầu mà xuống xe. Đã 40 phút rồi mà tứ bề sương giăng mù mịt. Tôi bảo Lộc ráng nhìn bên trái, tôi nhìn bên phải để tìm cây cầu. Tôi cố mở to mắt nhìn xuyên qua màn sương. Bỗng tôi thấy một cô gái mặc áo dài trắng băng qua đường. Làm gì trên đất Miên lại có con gái mặc áo dài trắng. Tôi hỏi:

    – Lộc có thấy một cô áo trắng đi ngang qua không?

    – Có thấy ai đâu chú Mai!

    Nhanh như cắt, tôi đưa tay ra dấu dừng xe. Tại sao? “Vì …



    ******

    Năm 1963, tôi đến quận Hòa Vang, để thị thực các bản sao bằng Tú tài 1. Lúc vào lại thành phố Đà Nẵng, trời đổ mưa. Cơn mưa mùa hạ trút xuống như cầm chỉnh đổ. Bên tay trái tôi là dãy núi Phước Tường. Nước trên núi tràn qua quốc lộ. Nước ngập luôn cái ống bô của chiếc xe gắn máy hiệu Suzuki dame. Bu ji ướt, xe chết máy. Tôi đành dầm mưa chịu trận. Khi mưa tạnh đã 6 giờ chiều. Bấm nút démareur, xe vẫn không nổ. Nhờ đám trẻ chăn trâu nhào vô đẩy dùm rất lâu xe mới chạy được. Gần tới Ngã Ba Huế, tức là ngã rẽ bên trái sẽ ra Huế, cách 120km. Quẹo phải 5, 7 cây số là vào Đà Nẵng.

    Nơi ấy có một cây cầu, người địa phương gọi là Cầu Đỏ. Từ xa, tôi đã thấy một nữ sinh đứng đón xe ở đầu cầu. Ở ngoài Trung, đồng phục nữ sinh là áo dài trắng. Cô gái mặc quần trắng, đội nón lá, chân đi guốc, tay xách cặp đen. Tôi nghĩ bụng nếu là xe ra Huế, sẽ không bao giờ chịu dừng lại để chở học sinh một đoạn ngắn. Còn nếu xe Hội An, Tam Kỳ ra, thì sắp đến bến xe rồi, họ cũng không rước khách chỗ này. Trời sắp tối, đi bộ cũng xa lắm. Tôi dừng xe lại hỏi:

    – Em về đâu? Nếu quẹo trái ra Nam Ô thì không tiện đường. Quẹo phải vô Đà Nẵng thì quá giang được.

    – Dạ em về ngã tư Thanh Khê.

    Tôi mừng rỡ:

    – Được. Lên xe đi.

    Cô gái rụt rè leo lên ngồi ở phía sau. Một tay ôm chặt cặp da, tay phải vòng qua eo ếch của tôi. Xe chạy từ từ. Tôi hỏi:

    – Em tên gì?

    – Dạ Đ.T. Mỵ.

    – Em học lớp mấy, trường nào?

    – Dạ lớp đệ lục trường Hòa Vang.

    Mỵ còn nói lí nhí gì thêm, nhưng tôi đã chạy nhanh, gió tạt không nghe rõ. Chưa tới 10 phút, Suzukie đã tới Ngã Tư Thanh Khê. Tôi dừng lại, hứa hẹn. Chiều mai thứ bảy, nghỉ học, anh có xe đạp, sẽ về An Ngãi. Có gì anh sẽ ghé nhà em chơi. Bây giờ tối rồi, anh phải đem xe về trả cho ông anh đi trực. Mỵ nói:

    -Nhà em dễ tìm lắm. Đi vô hết con đường đất ni. Gặp một ngã ba, thấy mấy cây dừa lửa thì quẹo phải.

    Đi tiếp, hồi mô thấy cái nhà có bồn gỗ đựng nước mắm ở trước sân là tới.

    Chiều thứ bảy hôm sau, theo đúng lời chỉ dẫn của Mỵ, tôi dắt xe đạp tìm đúng nhà không mấy khó khăn. Tôi dựng xe, tựa vào bồn nước mắm trước sân và bước vào nhà. Căn nhà tranh vách đất. Giữa nhà có chiếc bàn gỗ, trên bàn có bát nhang, hai bên có một nải chuối và một bát cơm có cắm đôi đũa. Trên bát cơm có quả trứng. Nghe tiếng tôi gọi, một người đàn bà bước ra từ phía sau. Bà hỏi:

    – Thầy tìm ai?

    – Dạ cháu hỏi thăm, có phải nhà Đ.T. Mỵ đây không?

    – Dạ phải. mà thầy dạy trường của cháu hả?

    – Dạ… không!

    – Vậy cậu là bạn học ở trường Hoà Vang hả?

    – Dạ cũng không phải. Chiều hôm qua, cháu lên quận về, gặp Mỵ đứng đón xe ở Cầu Đỏ, sẵn có xe gắn máy, cháu cho quá giang chở về đây. Mỵ có chỉ nhà, chiều ni nghỉ học, cháu đi An Ngãi, nên ghé vô thăm rứa thôi.

    Người đàn bà oà lên khóc:

    – Cậu ơi! Con tôi bị xe Mỹ cán chết rồi cậu ơi! Trưa hôm qua, tôi mở cửa mả cho hắn đá. Tan học về hắn đi xe đạp ngang qua chỗ Cầu Đỏ, gió thổi lật cái nón che mặt không thấy đường. Xe đạp quờ quạng, chao đảo giữa đường, bị xe cán chết ngay chỗ cầu đó.

    Người đàn bà tiếp tục kể lể bi thiết, đau thương:

    – Mẹ chỉ có mình con, con ơi. Con chết bỏ mẹ con ơi…

    Lúc ấy tôi mới nhìn kỹ khung hình để đằng sau bát nhang. Đúng là Mỵ rồi ! Đôi mắt đẹp như đang nhìn tôi ngơ ngác, thăm thẳm. Tôi bủn rủn tay chân, cố gắng lắm mới lấy được bó nhang trên bàn đốt lên 3 cây và thầm khấn:

    – Mỵ ơi. Em đã chết thật rồi. Trong cõi u minh, thần thức của em cứ tưởng mình còn sống. Hãy về với thế giới tâm linh huyền diệu của em. Đừng gặp ai nữa. Anh sợ lắm. Anh sẽ tụng kinh cầu siêu thoát cho em.

    Rồi tôi đã giữ lời hứa đó sau nhiều năm…

    *****

    Tôi đưa tay ngăn ông già dừng xe lại, vì liên tưởng tới Mỵ 24 năm trước. Tôi định thần độ 5 phút sau. Qua màn sương tôi lờ mờ thấy quả có một cây cầu đúng như linh tính của tôi. Tứ bề im phăng phắc. Tôi e dè bước tới gốc cây lớn bên đường. Lúc ấy tôi mới phác giác ra chiếc xe molotova của quân đội, phủ một tấm bạt, đã nằm im lìm từ lúc nào. Tôi vòng tới trước cabin bước lên thử nhìn vào trong. Tôi giật mình vì trong tay lái đang có một gương mặt đen sì lỏ mắt nhìn ra tôi.

    Tôi đánh liều hỏi đại:

    – Chiếc xe này chờ chúng tôi phải không?

    Câu hỏi không được trả lời. Tôi hỏi tiếp:

    – Parlez vous Francais? Do you speak English?

    Tên lính Miên lắc đầu. Vừa hồi hộp, vừa hoang mang, tôi đáo ra sau dở tấm bạt thò tay vào trong, thì ra người ngồi lúc nhúc trong đó. Tôi hối Lộc leo lên và tôi cũng chui vào. Tôi lên tiếng hỏi:

    – Có Dung trong này không?

    Im phăng phắc. Vậy là nguyên toán mười mấy người cùng nhà với tôi đã không nhìn thấy cây cầu. (Về sau này, khi có liên lạc, mới biết nguyên nhóm chạy mãi tới sáng thì bị công an Miên bắt, giao cho công an biên phòng Việt Nam.)


    Trong tối tăm, tôi nắm tay Lộc ngồi xuống thì xe nổ máy. Xe chạy hơi nhanh, dằn lên xóc xuống vì đường đầy hầm hố, ổ gà. Người trong xe đổ mồ hôi nhễ nhại, ngộp thở, u đầu rên rĩ.
    Chạy suốt ngày, đến chạng vạng thì dừng lại để tránh trạm kiểm soát cảng Kompong Som do bộ đội biên phòng Việt Nam trấn đóng. Tài xế đổ người xuống ngay chỗ một người Miên dẫn đường đã chờ sẳn. 25 người nhanh chóng lủi vô rừng đi thành hàng một, sau lưng người Miên. Người dẫn đường có buộc một ngọn đèn đi săn trên đầu để soi đường. Một tay cầm cái liềm để chặt những gai góc. Một tay cầm gậy thọc vào đám lá khô để tránh những vực sâu. Vài người rú lên sợ hãi khi thấy bộ xương nằm gục bên đường. Hai lần trông thấy hai bộ xương đều không có đầu ! Nửa đêm bỗng nghe tiếng á…á… dài, rồi tiếp theo là tiếng ầm ầm.

    Biết ngay là có người ngủ gục, bước lọt ra khỏi dấu chân người đi trước và đã rơi xuống vực. Độ 2 giờ sáng, lại thêm một tiếng á…ầm…ầm nữa. Có người làm dấu thánh giá. Tôi chấp tay cầu nguyện cho hai nạn nhân xấu số. Ra khỏi rừng đếm lại, quả nhiên chỉ còn 23 người. Thoát khỏi rừng rậm, chúng tôi băng qua một đầm lầy. Người dẫn đường ra hiệu cho biết có cá sấu, phải đi nhanh. Trời tối mịt. Thình lình, một ngọn đèn pha phực lên rọi thẳng vào đoàn người chúng tôi. Sình lầy lún quá bắp vế, chúng tôi đã bị du kích Khmer bắt trọn. Nhiều người đã xỉu ngay xuống sình. Bảy, tám họng súng AK đen ngòm chỉa thẳng vào chúng tôi. Kẻ cầu Chúa, người niệm Quan Âm cứu khổ để chờ chết. Thình lình, một tên ngửa cái nón sắt, nói lơ lớ không có dấu:

    – Môt chi vang bo vo cai non sat, cho qua. Không có mot chi vang, chat đâu.

    Mọi người đều hiểu hết câu nói của y. (Một chỉ vàng bỏ vô cái nón sắt, cho qua. Không có một chỉ vàng, chặt đầu!) Ai nấy đều run lẩy bẩy, moi móc đâu trong đồ lót, lấy ra ném vào nón sắt. Tôi dắt tay Lộc lùi lại sau cùng. Nước mắt tuôn rơi. Nửa chỉ vàng cuối cùng tôi đã để lại nhà. Vợ tôi sẽ đau lòng lắm khi biết tại sao tôi bỏ xác nơi đây. Nhưng nếu tôi có đem theo cũng không giải quyết được vấn đề, vì nhận lời ủy thác của cha mẹ Lộc, tôi không thể làm người, khi để cho nó chết.

    Tôi thầm khấn:

    – Mỵ ơi, đã làm ơn, xin làm ơn cho trót. Có hiển linh, xin giúp anh thoát chết phen này.

    Bỗng tôi đạp phải một hòn sỏi dưới bàn chân. Vừa niệm Quan Âm cứu nạn, vừa kín đáo dùng 2 ngón chân kẹp hòn sỏi đưa lên. Tôi vói tay nắm được hòn sỏi, chùi vào áo cho sạch sình. Một tiếng cạch trong nón sắt là một người được bước qua. Nắm hòn sỏi thật kín trong bàn tay, tôi bảo Lộc leo lên lưng cho tôi cõng để 2 người tính 1 và là người cuối cùng bước ngang qua cái nón sắt. Tôi nhanh chóng ném hòn sỏi vào nón. Một kiếng keng vang lên, và tôi cõng Lộc bước qua. Tôi vái van, xin sao đám du kích đừng vì thiếu mất một chiếc nhẫn mà đuổi theo. Nếu không thoát, tôi phải nhận tội để chết, chứ không thể gây họa cho người. Cuối cùng, chúng tôi ra tới bờ biển.

    Không biết Mỵ đã cứu tôi hay hòn sỏi duy nhất giữa đầm lầy. Hai người Miên lực lưỡng lôi chúng tôi nhét vào dưới hầm ướp cá đậy nắp lại và ra khơi. Gió rất mạnh, có đến cấp 6. Trong hầm kín, người này ói lên đầu người kia. Mùi chua hòa với mùi mồ hôi nồng nặc xông lên. Mồ hôi bốc thành hơi nước đọng trên thành hầm, rồi nhỏ từng giọt cay xuống đám người chen chúc như cá mòi trong hộp. Tôi không bị say sóng, nên đủ sức đẩy nắp hầm và leo lên trên boong. Sóng đánh lên làm trơn trợt. Tôi cẩn thận men lần ra sau buồng lái. Tìm thấy nước, tôi uống một bụng thật no nê. Một sợi dây thừng nằm lăn lóc trên sàn. Tôi buộc chặt vào bụng và kiễm soát lại đầu dây bên kia. Tôi sợ bị sóng đánh văng xuống biển. Mỗi lần sóng tới, đầu mũi thuyền cất lên, chỉ ngay những ngôi sao nhấp nhánh trên bầu trời. Thuyền kêu răng rắc, bập bềnh. Sóng đi qua, mũi thuyền hụp xuống. Ruột gan tôi như muốn nhào lên để trào ra ngoài.

    Thà chết sạch sẽ giữa trời cao biển rộng, hơn là chết thối trong hầm cá. Thuyền từ từ đi vào một đảo hoang. Thuyền mắc cạn, hình như tôi nghe chân vịt chạm mạnh vào đá. Hai người Miên lật đật chạy lại mở nắp hầm lôi mọi người lên và lặp đi lặp lại: “Thái lan, Thái Lan”. Họ ra hiệu đòi mật mã. Mật mã của tôi là cái chứng minh nhân dân không đục lỗ. Nếu đưa lên thấy có một lỗ thủng trong tấm hình, vợ tôi sẽ biết là bị gạt, chưa tới Thái. Thu thập mật mã xong, người Miên buộc chúng tôi rời ghe. Họ vội vả quày trở ra biển để trở về Miên, vì sợ bị Thái tịch thu ghe. Có người không biết bơi còn trù trừ, bị xô xuống biển, đầu va nhằm đá ngầm, máu tuông xối xả. Cuối cùng nhóm người đói khát lạnh lẽo cũng dắt díu nhau lên được hết trên bờ. Sáng hôm sau, chúng tôi gom cành khô đốt lửa cầu cứu.

    Ngoài khơi, một chiếc thuyền xuất hiện. Hy vọng chúng tôi thoát khỏi hoang đảo này. Thuyền cập vào bờ. Nhảy lên là 3 thanh niên mặt bôi đen tay cầm súng. Mọi người la lên “hải tặc” và bàn cách đối phó. Nếu chúng chỉ cướp của thì thôi, còn nếu mấy người phụ nữ bị hiếp thì nhóm đàn ông sẽ liều mình giật súng rồi dùng đá và cành cây chống trả.

    Trong tích tắc, bọn hải tặc đã áp sát. Hai tên chỉa súng vào nhóm chúng tôi. Còn một tên dí súng dẫn từng người một ra sau một lùm cây, buột cởi hết quần áo cho nó xét. Chúng mò mẫm từng cái quần, cái áo để tìm của. Cái gì nó cũng lấy. Rất may là quần áo chúng tôi bị rách tả tơi hết nên nó cho lại để mặc lên người. Sau khi vơ vét, bọn hải tặc ra dấu bảo chúng tôi đi vòng qua đảo, rồi bọn chúng lên thuyền ra khơi. Chúng tôi đi tiếp theo hướng chúng chỉ. Không ai còn giày dép gì cả nên bàn chân rách nát, bê bết máu. Đến tối mới tới một xóm chài. Dân chài cho cơm cháo và trú ngụ qua đêm. Cảnh sát Thái đưa chúng tôi vào trạm KlongGiai ngày 1/8/1987. Một tuần sau, có xe chở vào trại tị nạn Panat Nikhom.

    Ở trại mọi người đều thuộc nằm lòng câu “vượt biên có số, định cư có phần”. Có người ôm cả đống giấy tờ chứng minh là sĩ quan cảnh sát, sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa… vẫn bị Mỹ từ chối. Tôi rét lắm vì không còn giấy tờ gì để chứng minh là thông dịch viên sở Mỹ RMK cả.

    Tôi lên sơ vấn, rồi tái phỏng vấn. Người có quyết định tối hậu là ông Harris. Ông chỉ hỏi tôi có vài câu rồi đóng dấu “Approved”. Tôi quá cảm động và mừng vui đến rơi lệ khi ông chìa tay bắt và chúc tôi được nhận vào Mỹ. Tôi quá ngạc nhiên với lối interview của Mỹ. Không phải như ở nhà, năm 1978, vợ tôi sanh con đầu lòng bị mất sữa, phải làm đơn xin mua thêm sữa bò. Trên đơn phải hội đủ 6 cái mộc, tức là 6 con dấu của 6 cơ quan. Điều đáng nói là cán bộ y tế bắt vợ tôi ra mua gói xôi ngồi ăn trước mặt họ. Nửa giờ sau, họ vắt thử xem có sữa không rồi mới chịu ký tên đóng dấu cho phép mua 12 lon sữa bò giá chính thức.

    Rời Bataan, tôi đến Mỹ ngày 21/12/1988. Khi máy bay đáp xuống Los Angeles, lòng tôi dâng lên một niềm xúc cảm bàng hoàng. Cái xúc động tự nhiên của bất cứ người nào bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn tự do trên một đất nước giàu mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, cái cảm xúc của tôi khi lần đầu tiên trông thấy cầu Golden Gate 31/12/88, lại mênh mông không diễn đạt được. Tôi dụi mắt để chắc chắn rằng không phải còn nằm mơ. Một giấc mơ dài suốt 26 năm từ khi học bài anh văn về Golden Gate năm 1962.

    Mặc dù kim tự tháp Ai Cập là một kỳ diệu vì cho đến bây giờ, với những máy móc hiện đại tối tân, với trực thăng mạnh nhất, chưa chắc Mỹ nâng được những tảng đá khổng lồ lên cao để ráp lại nhau. Nhưng viếng kim tự tháp là đến một sa mạc nóng bỏng đầy cát bụi.
    Đền Đế Thích ở Miên thật rộng lớn. Đi hết chu vi của đền có đến 120km. Đền đài chạm trổ bằng tay. Vào thế kỷ thứ 6, có thể phải dùng tới 50 ngàn nhân công, xây cất 50 năm mới xong. Cái thất vọng là phòng ngủ của vua và hoàng hậu nhỏ xíu, tưởng chừng không đủ lọt cái giường queen size! Vả lại, một cảm giác lành lạnh như oan hồn, tử khí còn lẩn khuất đâu đây.
    Vạn Lý Trường Thành cũng là một trong 7 kỳ quan của thế giới. Nhưng du khách hình như còn bồi hồi khi tưởng tượng cảnh núi xương sông máu của dân lành vô tội dưới ách bạo tàn của Tần Thủy Hoàng. Người Pháp cũng hãnh diện về tháp Effel của họ. Nhưng nếu du khách mãi ngước nhìn lên, đế giày sẽ dẫm phải “bom” của chó phóng uế bừa bải khắp nơi. Tham quan Eiffel, du khách nào cũng trải qua cái đau khổ khi cần đi tiêu, tiểu. Dù có người hướng dẫn, sẵn sàng mất tiền cũng rất bất tiện vì xa, mất thời gian.


    Mời quí vị tham quan Golden Gate. Thoải mái lắm. Không những công viên này mà khắp xa lộ của Mỹ, đâu đâu cũng có bảng chỉ dẫn rõ ràng những rest area, đầy đủ tiện nghi để giải quyết vấn đề cá nhân. Du khách không bao giờ bị “hành hạ và tra tấn” đau khổ như ở Paris.

    Có lẽ ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có người mơ ước như tôi là được bước đi trên cầu treo Golden Gate. Buổi sáng sương mù la đà, lảng đảng trôi ngang, nhịp cầu khi ẩn khi hiện. Xế chiều dưới ánh nắng chói chan, một cánh cung vàng như cái mống bắt ngang bầu trời xanh lơ đầy mây giang hồ và những cánh hải âu trắng mướt. Dưới kia, biển xanh um. Tàu thuyền qua lại xé nước, để lại phía sau những vạch trắng như đuôi sao chổi. Buổi tối lại bày ra một khung cảnh tráng lệ, rực rỡ huy hoàng dưới ánh đèn vàng tân kỳ mỹ lệ.
    Cao quá. Hùng vĩ quá, làm con người thành nhỏ bé như muốn bay bổng. Xe cộ lũ lượt nối đuôi nhau qua lại. Bộ hành cũng có chỗ tản bộ trên side walk rộng 3m ở hai bên thành cầu. Đủ loại y phục màu sắc đặc thù dân tộc được mặc trên người, đủ thứ ngôn ngữ khác nhau được nói qua đường. Chứng tỏ họ từ khắp mọi nơi trên thế giới. Dòng sinh động huyền diệu đó đã từng tồn tại từ ngày 26/5/1937 và tiếp diễn không ngừng nghỉ suốt 64 năm qua.


    Mặc dù Joseph Baermann Strauss đã qua đời một năm sau khi khánh thành Golden Gate.
    Nhưng tác phẩm của ông vẫn sừng sững với thời gian và cùng với Chunnel Tunnel xứng đáng là 2 thành tựu đứng đầu của thế kỷ 20. Mọi người từ Quận Cam đến Golden Gate quá dễ dàng bằng freeway 5 North, chỉ mất có 7 giờ lái xe, trong khi tôi phải mất 26 năm mới tới đó.


  • PHẠM ĐÌNH MAI
    (Nguyên cựu GĐ Ngân Hàng, vượt biển 20 lần mới thành công).
    Nguồn:https://vvnm.vietbao.com

Thư gửi chị Thụy Vũ


_____________________
Lê Chiều Giang
_ “Không Đứng Mãi Trong Tranh” _ Nhà xuất bản Nhân Ảnh 2021

  • Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây

Trong một lần giận chồng tê tái, tôi vùng chạy khỏi căn chung cư nhỏ, lang thang đi dọc theo hàng cây bọc dài quanh con sông trước nhà.

Cái dễ thương nhất của những cuộc “bỏ nhà ra đi”, là chúng ta luôn ngoái cổ tìm xem “đối thủ” có cuống quýt chạy theo, có ăn năn, có hoảng hốt gọi mình trở lại hay không?

Nghiêu Đề đã chẳng làm điều đó, tôi chợt hiểu ra và thấy mình sai sai, trong những giận hờn vô lối sáng nay.

Sẵn chiếc ghe của bà Mười đang chờ đón khách, tôi vùng vằng “sang sông”. Không hiểu có phải sự vừa làm nư vừa muốn ăn vạ của tôi đã khiến chiếc thuyền tròng trành, chao đảo đến nỗi nó suýt nghiêng xuống nước?

Cũng chẳng biết qua tới bờ bên kia rồi tôi sẽ đi đâu?

Nhảy xuống sông? Thôi, chắc không nỡ, bởi tôi còn mê “sống” lắm…

Con đường cát trắng vòng vo dài như vô tận, dẫn tôi qua nhà chị Thụy Vũ bên Làng Báo Chí. Chị Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn hay dùng chiếc ghe nhỏ của bà Mười như chiếc cầu nối để thường xuyên sang thăm chúng tôi ở Cư Xá Thanh Đa. Hôm nay, lần đầu tiên tôi vất vả tìm sang nhà chị, một mình.

Anh Hồ Trường An hỏi thăm đủ điều khi tôi ngồi chờ chị thay áo, chải tóc. Dù bất ngờ có thêm tôi, chị Thụy Vũ cũng rủ để cùng đi gặp ai đó mà chị nói là sống ở… xa lắm.

Cái nơi “xa lắm” đó giờ nhớ lại tôi nghĩ chắc chỉ là Phú Lâm hay Chợ Lớn. Sau vài chuyến xe lam, chúng tôi đi bộ, lội tắt vô những ruộng những đồng xa khuất hẳn với đường phố ngoài kia.

Ngạt ngào trong gió, tôi ngửi ra mùi của trầm hương. Nhưng nơi chúng tôi dừng lại trông chẳng có vẻ gì là một ngôi Chùa. Rất đông người sàng qua lượn lại trong một cái sân nhỏ, tay mang những dĩa hoa quả, nhang đèn và tiền âm phủ. Anh Hồ Trường An giờ mới tiết lộ cho biết, chúng tôi đi coi… “Hầu Đồng”.

Hết hồn, vì sợ hãi một điều mà tôi chỉ nghe đến đã lạnh mình, sợ đến nỗi tôi chỉ còn muốn tìm đường tẩu thoát. Nhưng làm sao tôi dám rời khỏi nơi đây một mình? Và thật lạ, chỉ với cái nắm tay của chị Thụy Vũ sau đó đã làm tôi yên tâm. Tôi ngồi khoanh tròn chân chờ đợi, cứ như một “Đồng” rất lâu năm và chuyên nghiệp.

Bạn anh Hồ Trường An, Sìn, người mà tôi muốn chào bằng “Anh” thì chị Vũ nhắc tôi gọi là “Chị”. Lúng túng với nhiều nhân vật chẳng biết Ông hay Bà chung quanh tôi hôm đó, khiến tôi chỉ còn biết ngồi im với hương khói cay xè mắt như sắp khóc và chuông mõ rộn ràng.

**********

1975, cái mốc của nhiều điều và nhiều thứ… Tôi chẳng muốn than đi thở lại làm gì cả hằng trăm chuyện, mà thiên hạ đã nói gần hết. Nhưng làm sao để tôi có thể quên hình ảnh rã rời của chị Thụy Vũ, những lần chị ghé chơi nhà sau một ngày đi làm mệt mỏi.

Một ngày mà 12 tiếng phải chen lấn, bán vé trên những chuyến xe buýt tràn ngập những người là người. Chị mong manh và nhỏ bé, chị kiệt quệ rão rệu trong inh ỏi, điên đầu của một Sàigòn náo loạn những âm binh…

Nhờ sự tử tế của một cô bạn thân đang làm ở “Bộ Giao Thông”, chị Vũ được đi bán vé xe buýt, và dù chỉ với đồng lương thời bao cấp ít ỏi như thế, chị phải vặt vẹo nuôi nấng Khôi Hạo, Bé Khôi Thụy và Khôi Hạnh. Ông Sìn, người tôi gặp trong Chùa vài năm trước đó, sau 75, đã về ở để giúp chị cơm nước, chăm sóc mấy nhỏ khi chị không có nhà.

Bé Khôi Thụy, một vết sẹo ngang xương của đời, một gắn bó kỳ lạ từ mối tình mà chị thường đắng cay, chì chiết: “Khi lấy “Chả”, coi như là mình đã xí hết những trầm luân từ một tỷ những “Thằng Cha” có mặt trên cái thế giới này rồi!”

Chị có sắc mặt lạnh tanh khi nói chuyện đời mình, nét mặt vẫn hiền hòa nhưng vô cùng lạnh lẽo. Nhìn chị mà tôi mơ hồ tưởng chị kể chuyện nhân gian, chuyện của ai khác. Phải chăng, với những khổ đau trùng trùng, những bầm dập của đời, có khi đã tạo ra lớp vỏ ngạo mạn lạnh lẽo, như một khí giới tự vệ hữu hiệu nhất của chị?

Những tối chị ở lại nhà chúng tôi, phải là những nói cười rộn rã, hoặc rì rào to nhỏ, suốt đêm…

Mối tình đầu tiên thời thiếu nữ, chị tưởng đã đặt hết yêu thương, tưởng như được nép vai bé nhỏ bên một “Anh Hùng Mã Thượng”. Mối tình lớn này đã khiến chị sau đó phải giam mình suốt chín tháng dài, trong căn nhà im ỉm của song thân, vì sợ những thị phi, tai tiếng… Hóa ra lại chỉ là người “chẳng ra làm sao”, rất đặc biệt là đã không hiểu chút gì về Thượng với Mã! Bởi thế, Bé Hương chưa bao giờ được gặp cha mình, cho tới ngày Ông mất ở Sàigòn khoảng năm 1995.

Sáng thức dậy, khi Nghiêu Đề ngồi quấn thuốc rê, cái thuốc mà cả nước nghi là xắt ra từ những lá đu đủ, tôi rót trà nhâm nhi, ngồi nhìn chị Vũ trang điểm. Có lẽ chút yêu đời duy nhất còn sót lại từ chị, là lúc ngồi vẽ đôi chân mày, mỏng dính và mờ nhạt. Đời có còn gì không để chúng ta phải tô thêm cho đậm đà? Có lần tôi đã tính hỏi chị như thế.

Chị tô son lên môi, xức chút má hồng và… ca vọng cổ! Tôi hay cười cười với những phối hợp tréo ngoe, trật chìa chẳng đâu vào đâu của chị. Vậy mà cái chất giọng ngai ngái, khàn khàn khi chị ngân nga có lần đã làm tôi suýt khóc:

  • “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây…”

Có lần chị rủ tôi tới ngôi chùa Già Lam ở Phú Nhuận, Sư trụ trì là người thân với chị và nghe nói ông thuyết pháp rất hay. Chị đến không phải vì gì khác, ngoài việc có hẹn xem bói bài cho rất nhiều bà đang ngồi chờ chị ở bên ngoài, dưới bóng mát của một cây cổ thụ phía sau sân chùa.

Trên những khuôn mặt lam lũ, đầy lo âu và tội nghiệp đó đã có thoáng chút vui mừng, khi thấy chị Vũ đến. Câu hỏi của tất cả quý bà chỉ là: “Tuần sau, tháng tới chồng tui vượt biên có ổn không?”, hoặc “Bao giờ thì có tin của con trai tôi, hai thằng nhỏ đã ra ghe từ tháng trước?” …

Tôi nhìn mà xót xa thương những người Vợ, người Mẹ, mà trong những lo lắng, bối rối của một đời sống đầy rủi ro và tai ương… Họ đã chẳng biết tính toán cách nào, thu xếp ra sao, họ đành phải mang những băn khoăn, những thắc mắc tới nhờ chị Thụy Vũ trả lời và… giải quyết.

Dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, tôi ngồi bần thần, tò mò nghe chị Vũ bàn chuyện tương lai, quá khứ của thiên hạ qua một xấp lá bài xanh xanh đỏ đỏ. Trúng sai gì thì chắc chỉ có Trời và chị cùng với những “khách hàng” này mới biết, nhưng có một thời gian chị đã sống lất lây với cái “sự nghiệp” vui vui này. Chị đã bỏ đi được sự vất vả của bao tháng ngày bị rượt đuổi kinh hoàng, bởi những chuyến xe buýt triền miên, chạy bạt mạng và như điên trong thành phố.

Tôi đã nhiều lần trở về quê cũ, líu lo với chị ở Lộc Ninh hay trên Sàigòn, hoặc đi cùng chị tới nhà anh Văn Quang, người mà tôi nói đùa là chỉ có mình anh là trông gầy ốm hơn so với chị Thụy Vũ.

Mỗi lần muốn rủ tôi tới chung cư Nguyễn Thiện Thuật, chị giỡn: “Sáng nay tụi mình đi café với Ân Nhân”, tôi hiểu ngay là Văn Quang, người đã viết nhiều bài “tố cáo” về “Chả” giùm chị…

Đêm qua nhận email từ chị Thụy Vũ, một email dài hơn bình thường chợt làm tôi lo lắng. Chúng tôi email qua lại nhiều lần chị đã chẳng bao giờ nói tới anh Tô Thùy Yên. Duy nhất email này chị nhớ đến anh, dù chỉ thoang thoảng viết với một chút u hoài, nhắc tên một người “Chồng” đã ra đi từ vài năm trước. Chị cũng nhắn tôi về chơi, trước khi… quá trễ.

Chúng tôi đã sống cùng nhau một thời dưới những oan khiên của quê nhà. Nơi mà đời sống có những khi lẳng lặng, trầm tĩnh, đôi lúc lại hốt hoảng, vội vàng, cứ như sắp không còn kịp để làm một điều gì… Cảm giác đó sau bao năm đã chìm lắng, đã biến mất kể từ ngày tôi từ biệt chị, ra đi.

Và với email chị gửi đêm nay, tôi ngồi viết suốt bốn tiếng, tưởng đã như là một hồi âm.

Viết, để gửi về một nơi chốn rất xa xăm, một nơi mà không biết sẽ còn có bao giờ tôi trở lại…

Bỏ nhà

Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa?
Quăng lên trời
Ta,
Bước chân phiêu bạt
Tay không
bày cuộc chơi

Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản Đà? Ta chấp hết!
Cà phê? Dạ, Khổng Tử
Ngàn ly chưa thấm tháp

Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi vài
Phạm Thái
Đàn đứt dây, lỡ nhịp
Hết hơi
đêm chưa tàn
Ta hát lời ly biệt
Tử Kỳ
chết, dưới trăng

Đứng giữa trăm ngả đường
Không lui
và chẳng tới
Ta như đêm
Mịt mù
giữa trùng trùng duyên khởi

Quanh một vòng trái đất
Thèm,
Trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê
Khóc… nhớ nhà.


Bố cáo thất tung


Cắm cổ
Ta chạy bừa phía trước
Đêm trắng toát
Đêm,
trắng toát
Có tiếng nói nào trên trời kia
Dẫn dắt ta về nơi
… không biết

Ta ra đi
Bàn chân u mê
Thôi,
Chắc không tìm đường trở lại
Những gì chờ
Ở nơi sắp tới
Bếp ấm?
Hay tro tàn
Một ngày?
Hay trăm năm
Ta thật
không biết.

Nếu chẳng thấy ta thành phố này
Cũng đừng
gắng tìm ở nơi khác
Thôi,
Hãy đăng
“Bố cáo thất tung”
Cứ nghĩ như ta vừa
Mất tích.

http://vanviet.info/van/khng-dung-mi-tr … ieu-giang/