Thư gửi chị Thụy Vũ


_____________________
Lê Chiều Giang
_ “Không Đứng Mãi Trong Tranh” _ Nhà xuất bản Nhân Ảnh 2021

  • Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây

Trong một lần giận chồng tê tái, tôi vùng chạy khỏi căn chung cư nhỏ, lang thang đi dọc theo hàng cây bọc dài quanh con sông trước nhà.

Cái dễ thương nhất của những cuộc “bỏ nhà ra đi”, là chúng ta luôn ngoái cổ tìm xem “đối thủ” có cuống quýt chạy theo, có ăn năn, có hoảng hốt gọi mình trở lại hay không?

Nghiêu Đề đã chẳng làm điều đó, tôi chợt hiểu ra và thấy mình sai sai, trong những giận hờn vô lối sáng nay.

Sẵn chiếc ghe của bà Mười đang chờ đón khách, tôi vùng vằng “sang sông”. Không hiểu có phải sự vừa làm nư vừa muốn ăn vạ của tôi đã khiến chiếc thuyền tròng trành, chao đảo đến nỗi nó suýt nghiêng xuống nước?

Cũng chẳng biết qua tới bờ bên kia rồi tôi sẽ đi đâu?

Nhảy xuống sông? Thôi, chắc không nỡ, bởi tôi còn mê “sống” lắm…

Con đường cát trắng vòng vo dài như vô tận, dẫn tôi qua nhà chị Thụy Vũ bên Làng Báo Chí. Chị Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn hay dùng chiếc ghe nhỏ của bà Mười như chiếc cầu nối để thường xuyên sang thăm chúng tôi ở Cư Xá Thanh Đa. Hôm nay, lần đầu tiên tôi vất vả tìm sang nhà chị, một mình.

Anh Hồ Trường An hỏi thăm đủ điều khi tôi ngồi chờ chị thay áo, chải tóc. Dù bất ngờ có thêm tôi, chị Thụy Vũ cũng rủ để cùng đi gặp ai đó mà chị nói là sống ở… xa lắm.

Cái nơi “xa lắm” đó giờ nhớ lại tôi nghĩ chắc chỉ là Phú Lâm hay Chợ Lớn. Sau vài chuyến xe lam, chúng tôi đi bộ, lội tắt vô những ruộng những đồng xa khuất hẳn với đường phố ngoài kia.

Ngạt ngào trong gió, tôi ngửi ra mùi của trầm hương. Nhưng nơi chúng tôi dừng lại trông chẳng có vẻ gì là một ngôi Chùa. Rất đông người sàng qua lượn lại trong một cái sân nhỏ, tay mang những dĩa hoa quả, nhang đèn và tiền âm phủ. Anh Hồ Trường An giờ mới tiết lộ cho biết, chúng tôi đi coi… “Hầu Đồng”.

Hết hồn, vì sợ hãi một điều mà tôi chỉ nghe đến đã lạnh mình, sợ đến nỗi tôi chỉ còn muốn tìm đường tẩu thoát. Nhưng làm sao tôi dám rời khỏi nơi đây một mình? Và thật lạ, chỉ với cái nắm tay của chị Thụy Vũ sau đó đã làm tôi yên tâm. Tôi ngồi khoanh tròn chân chờ đợi, cứ như một “Đồng” rất lâu năm và chuyên nghiệp.

Bạn anh Hồ Trường An, Sìn, người mà tôi muốn chào bằng “Anh” thì chị Vũ nhắc tôi gọi là “Chị”. Lúng túng với nhiều nhân vật chẳng biết Ông hay Bà chung quanh tôi hôm đó, khiến tôi chỉ còn biết ngồi im với hương khói cay xè mắt như sắp khóc và chuông mõ rộn ràng.

**********

1975, cái mốc của nhiều điều và nhiều thứ… Tôi chẳng muốn than đi thở lại làm gì cả hằng trăm chuyện, mà thiên hạ đã nói gần hết. Nhưng làm sao để tôi có thể quên hình ảnh rã rời của chị Thụy Vũ, những lần chị ghé chơi nhà sau một ngày đi làm mệt mỏi.

Một ngày mà 12 tiếng phải chen lấn, bán vé trên những chuyến xe buýt tràn ngập những người là người. Chị mong manh và nhỏ bé, chị kiệt quệ rão rệu trong inh ỏi, điên đầu của một Sàigòn náo loạn những âm binh…

Nhờ sự tử tế của một cô bạn thân đang làm ở “Bộ Giao Thông”, chị Vũ được đi bán vé xe buýt, và dù chỉ với đồng lương thời bao cấp ít ỏi như thế, chị phải vặt vẹo nuôi nấng Khôi Hạo, Bé Khôi Thụy và Khôi Hạnh. Ông Sìn, người tôi gặp trong Chùa vài năm trước đó, sau 75, đã về ở để giúp chị cơm nước, chăm sóc mấy nhỏ khi chị không có nhà.

Bé Khôi Thụy, một vết sẹo ngang xương của đời, một gắn bó kỳ lạ từ mối tình mà chị thường đắng cay, chì chiết: “Khi lấy “Chả”, coi như là mình đã xí hết những trầm luân từ một tỷ những “Thằng Cha” có mặt trên cái thế giới này rồi!”

Chị có sắc mặt lạnh tanh khi nói chuyện đời mình, nét mặt vẫn hiền hòa nhưng vô cùng lạnh lẽo. Nhìn chị mà tôi mơ hồ tưởng chị kể chuyện nhân gian, chuyện của ai khác. Phải chăng, với những khổ đau trùng trùng, những bầm dập của đời, có khi đã tạo ra lớp vỏ ngạo mạn lạnh lẽo, như một khí giới tự vệ hữu hiệu nhất của chị?

Những tối chị ở lại nhà chúng tôi, phải là những nói cười rộn rã, hoặc rì rào to nhỏ, suốt đêm…

Mối tình đầu tiên thời thiếu nữ, chị tưởng đã đặt hết yêu thương, tưởng như được nép vai bé nhỏ bên một “Anh Hùng Mã Thượng”. Mối tình lớn này đã khiến chị sau đó phải giam mình suốt chín tháng dài, trong căn nhà im ỉm của song thân, vì sợ những thị phi, tai tiếng… Hóa ra lại chỉ là người “chẳng ra làm sao”, rất đặc biệt là đã không hiểu chút gì về Thượng với Mã! Bởi thế, Bé Hương chưa bao giờ được gặp cha mình, cho tới ngày Ông mất ở Sàigòn khoảng năm 1995.

Sáng thức dậy, khi Nghiêu Đề ngồi quấn thuốc rê, cái thuốc mà cả nước nghi là xắt ra từ những lá đu đủ, tôi rót trà nhâm nhi, ngồi nhìn chị Vũ trang điểm. Có lẽ chút yêu đời duy nhất còn sót lại từ chị, là lúc ngồi vẽ đôi chân mày, mỏng dính và mờ nhạt. Đời có còn gì không để chúng ta phải tô thêm cho đậm đà? Có lần tôi đã tính hỏi chị như thế.

Chị tô son lên môi, xức chút má hồng và… ca vọng cổ! Tôi hay cười cười với những phối hợp tréo ngoe, trật chìa chẳng đâu vào đâu của chị. Vậy mà cái chất giọng ngai ngái, khàn khàn khi chị ngân nga có lần đã làm tôi suýt khóc:

  • “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
    Ai dè giếng cạn em tiếc hoài sợi dây…”

Có lần chị rủ tôi tới ngôi chùa Già Lam ở Phú Nhuận, Sư trụ trì là người thân với chị và nghe nói ông thuyết pháp rất hay. Chị đến không phải vì gì khác, ngoài việc có hẹn xem bói bài cho rất nhiều bà đang ngồi chờ chị ở bên ngoài, dưới bóng mát của một cây cổ thụ phía sau sân chùa.

Trên những khuôn mặt lam lũ, đầy lo âu và tội nghiệp đó đã có thoáng chút vui mừng, khi thấy chị Vũ đến. Câu hỏi của tất cả quý bà chỉ là: “Tuần sau, tháng tới chồng tui vượt biên có ổn không?”, hoặc “Bao giờ thì có tin của con trai tôi, hai thằng nhỏ đã ra ghe từ tháng trước?” …

Tôi nhìn mà xót xa thương những người Vợ, người Mẹ, mà trong những lo lắng, bối rối của một đời sống đầy rủi ro và tai ương… Họ đã chẳng biết tính toán cách nào, thu xếp ra sao, họ đành phải mang những băn khoăn, những thắc mắc tới nhờ chị Thụy Vũ trả lời và… giải quyết.

Dưới cái nắng gay gắt của trưa hè, tôi ngồi bần thần, tò mò nghe chị Vũ bàn chuyện tương lai, quá khứ của thiên hạ qua một xấp lá bài xanh xanh đỏ đỏ. Trúng sai gì thì chắc chỉ có Trời và chị cùng với những “khách hàng” này mới biết, nhưng có một thời gian chị đã sống lất lây với cái “sự nghiệp” vui vui này. Chị đã bỏ đi được sự vất vả của bao tháng ngày bị rượt đuổi kinh hoàng, bởi những chuyến xe buýt triền miên, chạy bạt mạng và như điên trong thành phố.

Tôi đã nhiều lần trở về quê cũ, líu lo với chị ở Lộc Ninh hay trên Sàigòn, hoặc đi cùng chị tới nhà anh Văn Quang, người mà tôi nói đùa là chỉ có mình anh là trông gầy ốm hơn so với chị Thụy Vũ.

Mỗi lần muốn rủ tôi tới chung cư Nguyễn Thiện Thuật, chị giỡn: “Sáng nay tụi mình đi café với Ân Nhân”, tôi hiểu ngay là Văn Quang, người đã viết nhiều bài “tố cáo” về “Chả” giùm chị…

Đêm qua nhận email từ chị Thụy Vũ, một email dài hơn bình thường chợt làm tôi lo lắng. Chúng tôi email qua lại nhiều lần chị đã chẳng bao giờ nói tới anh Tô Thùy Yên. Duy nhất email này chị nhớ đến anh, dù chỉ thoang thoảng viết với một chút u hoài, nhắc tên một người “Chồng” đã ra đi từ vài năm trước. Chị cũng nhắn tôi về chơi, trước khi… quá trễ.

Chúng tôi đã sống cùng nhau một thời dưới những oan khiên của quê nhà. Nơi mà đời sống có những khi lẳng lặng, trầm tĩnh, đôi lúc lại hốt hoảng, vội vàng, cứ như sắp không còn kịp để làm một điều gì… Cảm giác đó sau bao năm đã chìm lắng, đã biến mất kể từ ngày tôi từ biệt chị, ra đi.

Và với email chị gửi đêm nay, tôi ngồi viết suốt bốn tiếng, tưởng đã như là một hồi âm.

Viết, để gửi về một nơi chốn rất xa xăm, một nơi mà không biết sẽ còn có bao giờ tôi trở lại…

Bỏ nhà

Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa?
Quăng lên trời
Ta,
Bước chân phiêu bạt
Tay không
bày cuộc chơi

Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản Đà? Ta chấp hết!
Cà phê? Dạ, Khổng Tử
Ngàn ly chưa thấm tháp

Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi vài
Phạm Thái
Đàn đứt dây, lỡ nhịp
Hết hơi
đêm chưa tàn
Ta hát lời ly biệt
Tử Kỳ
chết, dưới trăng

Đứng giữa trăm ngả đường
Không lui
và chẳng tới
Ta như đêm
Mịt mù
giữa trùng trùng duyên khởi

Quanh một vòng trái đất
Thèm,
Trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê
Khóc… nhớ nhà.


Bố cáo thất tung


Cắm cổ
Ta chạy bừa phía trước
Đêm trắng toát
Đêm,
trắng toát
Có tiếng nói nào trên trời kia
Dẫn dắt ta về nơi
… không biết

Ta ra đi
Bàn chân u mê
Thôi,
Chắc không tìm đường trở lại
Những gì chờ
Ở nơi sắp tới
Bếp ấm?
Hay tro tàn
Một ngày?
Hay trăm năm
Ta thật
không biết.

Nếu chẳng thấy ta thành phố này
Cũng đừng
gắng tìm ở nơi khác
Thôi,
Hãy đăng
“Bố cáo thất tung”
Cứ nghĩ như ta vừa
Mất tích.

http://vanviet.info/van/khng-dung-mi-tr … ieu-giang/