-
Hanoi’s War
– Nguyễn thị Liên Hằng
_______________________
Nguyễn Văn Lục -31/03/2025
Đã có nhiều sách viết về chiến tranh Việt Nam từ phía người cộng sản, người Việt Quốc gia và nhất là từ phía người Mỹ. Hầu hết các tài liệu ấy đều một cách nào đó cho rằng cuộc chiến ấy bắt nguồn do sự can thiệp của người Mỹ phát động và chấm dứt bằng cuộc Việt Nam hóa chiến tranh cũng do phía Hoa Kỳ.
Thế nhưng cuốn Hanoi’s war- một cuốn sách nói về lịch sử cuộc chiến tranh ấy- mà trọng tâm của cuốn sách muốn trình bày cuộc chiến do Hà Nội chủ xướng. Hanoi’s war dịch sát nghĩa là cuộc chiến của Hà Nội.
Trong hình bìa cuốn sách, chữ War được in màu đỏ đậm- tượng trưng cho cờ đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng, chỉ thị Hà Nội là đã khởi động cuộc chiến tranh này..
Ngoài ra còn có thêm phụ đề là: Lịch sử Quốc tế của cuộc chiến cho hòa bình ở Việt Nam..
Giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng xuất thân từ một gia đình người tỵ nạn đã di tản một ngày trước 30 tháng tư khi bà mới được 5 tuổi. Bà có bằng tiến sĩ sử học đại học Yale và nhận được học bổng Fubright để về VN khảo cứu trong hai năm 2001 và 2002. Hiện nay, bà là giáo sư sử học của University ở Kentucky, dạy về lịch sử bang giao quốc tế của Hoa Kỳ, đặc biệt chú trọng vào vùng Đông Nam Á, nhất là thời kỳ chiến tranh lạnh.
Và mãi đến năm 2012, sách mới được xuất bản.
Trong khi đó các sách sử của các sử gia đều tập trung nghiên cứu các lý do chính yếu là cội nguồn dẫn tới sự can thiệp của Hoa Kỳ và tiến trình Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam.
Phần sử gia Liên Hằng xem xét bối cảnh Quốc tế của cuộc chiến, cách giới lãnh đạo miền Bắc theo đuổi chiến tranh và thời điểm sự kết thúc sự can thiệp của người Mỹ.
Nhiều người không khỏi ngạc nhiên vì bà xử dụng những tài liệu tối mật trong văn khố của cộng sản.
Nhờ đó bà có điều kiện thu tập được nguồn tài liệu đầu nguồn từ bộ ngoai giao, của quân đội, của đảng cộng sản trong nước chưa từng được công bố và khai thác cũng như các nguồn tư liệu khác trên thế giới như tài liệu của Trung Quốc hoặc của Liên Xô.
Và bà vẽ lên khung cảnh lịch sử toàn diện về cuộc chiến..
Tác giả đã giải thích là có sự thuận lợi bởi vì giới hữu trách VN coi thường công trình của tôi và coi tôi là một người phụ nữ trẻ, sẽ có nhiều thách đố trong cuộc chiến vốn có thể không thích hợp với nữ giới.
Nhưng một sử gia người Mỹ, ông Geoge C. Herring lại có cái nhìn đứng đắn và khách quan hơn, tác giả cuốn: “ America’s longest war, the United States in Viet Nam” đã đưa ra nhận xét:” Xử dụng những tài liệu mới mẻ và quan trọng từ những văn khố trên khắp thế giới mà phần đông là từ Việt Nam, Nguyễn thị Liên Hằng đã viết và tạo dựng được những điểm son đầu tiên và xác thực của cuộc hòa đàm đã dẫn dắt đến Hội nghị París.
Tác phẩm Hanoi’s war là một công trình đặc sắc, là những viên gạch xây dựng không thể bỏ qua cho sự thay đổi tức thì của lịch sử những xung đột ở Việt Nam..”
Ngoài ra, tác giả Liên Hằng còn phỏng vấn nhiều nhân vật ở Việt Nam ở cả hai phe như Bùi Diễm, Bùi Tín, Hoàng Minh Chính, Hữu Ngọc, Lưu Đoàn Huỳnh, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Đình Ước, Nguyễn Khắc Huỳnh, Nguyễn Ngọc Dung, Trần Thị Liên. (Riêng cô Trần Thị Liên, con gái giáo sư Trần Văn Toàn cũng là một tiến sĩ sử học. NVL ghi chú).
Nhờ góc độ chính xác của các tài liệu và văn bản, sách báo, thu băng ghi lại những cuộc phỏng vấn hằng trăm người có liên hệ đến cuộc chiến, phải nói là một dẫn chứng đồ sộ có nhiều tính thuyết phục.
Tác phẩm Hanoi’s war chia làm 4 phần:
- Phần một: con đường của chiến tranh cách mạng do Lê Duẩn cầm đầu, chỉ đạo cuộc chiến và hoạch định chính sách..( Năm 1955 thay vì tập kết di chuyển trên chiếc tàu của Ba Lan Kelliski cùng với vợ là bà Nga và con gái ra Bắc, Lê Duẩn đã lén lút quay trở lại trên một chiếc canot bên dòng sông Ông Đốc ở Cà Mâu..Con gái Lê Duẩn là Lê Vũ Anh được du học sang Nga và chết thảm vì khi sinh cháu thứ ba bị băng huyết. Tôi- Nguyễn Văn Lục có viết về câu chuyện bi thảm này.)
- Phần hai, phá vỡ những huyền thoại cũ và nêu lên cuộc chiến tại Hà Nội và sự tranh dành quyền lực. Và nổi bật là trận chiến trong thời kỳ Tổng công kích tết Mậu thân và thời kỳ của hội nghị hòa bình ở París.
- Phần ba, theo đuổi cuộc chiến tranh, vừa đánh vừa đàm tạo cái thế thượng phong trên bàn Hội nghị để thương lượng của chế độ Hà Nội.
- Phần bốn, tạo dựng một nền hòa bình giả tạo và què quặt với nỗ lực chống lại khuynh hướng chủ hòa trong nội bộ cũng như thúc đẩy cường độ chiến tranh để mưu tìm một nền hòa bình của kẻ chiến thắng.
Khi đó, Lê Duẩn đã lập ra Trung Uơng Cục Miền Nam với những người lãnh đạo đứng đầu như Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt.vv.
Sau đó, Lê Duẩn(1908-1986). trở về Hà Nội quyết định việc thống nhất đất nước bằng võ lực với chiêu bài: “ Chống Mỹ cứu nước”..Ai không đồng ý với lập trường chống Mỹ cứu nước đều bị Lê Duẩn loại trừ. Lê Duẩn đã dùng sự khủng bố để loại trừ những thành phần phản kháng bằng bạo lực với khẩu hiệu: “ Bọn xét lại chống đảng”, Đó là những người bị tù không có án.
Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Tuân viết:” Nước ta là một pháp trường trắng, không có đầu rơi, không có máu chảy, mà có người chết.”
Nạn nhân của Lê Duẩn-Lê Đức Thọ khởi đầu với ông Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Phạm Kỳ Vân,Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Quốc Việt, Vũ Đình Huỳnh( bố của Vũ Thư Hiên) và nhà văn Vũ Thư Hiên
Trên thực tế, ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, theo giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng chỉ đóng vai trò biểu tượng. Còn chính Lê Duẩn mới là kiến trúc sư, chiến lược gia, lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Chính sách đu giây giữa Liên Xô và Trung Quốc lúc đầu ngả theo Trung Quốc cũng gây những bất lợi không nhỏ cho Hànội.
Tác giả Hanoi’s war cho rằng Hoa kỳ tự đánh bại mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam thật ra chỉ là một huyền thoại. Chính Bắc Việt đã khơi mào cuộc chiến và đánh giá, định hình được các hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng như xác định được cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới.
Chính Lê Duẩn đã dồn toàn lực cho cuộc chiến từ năm 1964 khiến Hoa Kỳ bắt buộc phải trực tiếp can thiệp vào chiến tranh khiến làm cho cuộc chiến của phía quốc gia mất chính nghĩa.
Có nghĩa là, quân Bắc Việt không là một con bài thụ động mà chính họ đã chủ động gây ra cuộc chiến với sự chấp nhận hy sinh mọi thứ, nhất là sinh mạng để đạt được chiến thắng. Sự tổn thất về sinh mạng lên đến hàng triệu người.
Trong một bài phỏng vấn dành cho đài V.O.A, Giáo sư Liên Hằng, nhận thức sai lầm lớn nhất của phe quốc gia là đánh giá sai lầm về ông Hồ Chí Minh. Chính Lê Duẩn mới là người đóng vai trò chủ đạo, chiến lược cũng như lãnh đạo các nỗ lực chiến tranh của miền Bắc.
Giáo sư Liên Hằng nói:
“ Khi bắt đầu cuộc nghiên cứu, tôi lấy làm sửng sốt về những gì mà tôi khám phá được, những điều mà chúng ta vẫn chấp nhận là sự thực khi được học về chiến tranh Việt Nam trên đất Mỹ. Tôi phát hiện ra rằng có nhiều điều hoàn toàn sai sự thực. Chẳng hạn một điều đơn giản là từ hồi nào đến giờ, tôi được học rằng, ông Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ hướng dẫn cuộc cách mạng và là người làm quyết định… nhưng trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận ra rằng trên thực tế, người làm các quyết định quan trọng, lãnh đạo miền Bắc là một nhân vật khác ít tiếng tăm trên trường quốc tế, đó là Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Tôi có thể lập luận rằng chính ông Lê Duẩn mới là người lãnh đạo miền Bắc.”
Vẫn theo giáo sư Liên Hằng thì cùng với cánh tay mặt của ông, là ông Lê Đức Thọ, ông Lê Duẩn cai trị chế độ miền Bắc với một bàn tay sắt, và coi ông HCM và Võ Nguyên Giáp, một người hùng cách mạng khác, là những đối thủ, là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền hạn của ông ở Hà Nội.
Chính ông Lê Duẩn đã gạt ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp cùng các ủng hộ viên sang một bên, trong khi làm hầu hết các quyết định quan trọng trong cuộc chiến .
Giáo sư Liên Hằng đơn cử hai trường hợp, thứ nhất trong những năm 1963-1964, ông Lê Duẩn đã dùng thủ đoạn hăm dọa ông Hồ Chí Minh phải giữ im lặng, khi ông chống đối quyết định leo thang chiến tranh để giành toàn thắng trước khi lực lượng quân sự Mỹ có thể can thiệp.
Và trường họp thứ nhì, vào năm 1967-1968, khi ông Hồ và tướng Giáp cùng các đồng minh chống đối kế hoạch của ông Lê Duẩn tiến hành cuộc Tổng công kích tết Mậu thân.
Một nhận thức sai lầm khác cho rằng Đảng Cộng sản VN được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân VN cho tới khi chiến tranh kết thúc hồi năm 1975 là hoàn toàn không đúng..
Giáo sư Hằng nói rằng những chứng cớ mới cho thấy là một lần nữa, đây cũng là một “huyền thoại”.
“Đó cũng là một điều không đúng sự thực. Tôi đã phát hiện là có nhiều quan điểm bất đồng với đảng Cộng sản và cách họ tiến hành chiến tranh Việt Nam”.
Giáo sư Liên Hằng nói một điểm khác cũng làm bà ngạc nhiên là ý kiến cho rằng các nỗ lực chiến tranh của Cộng sản Việt Nam đã chiếm được con tim và khối óc của dân miền Nam và thắng lợi trên mặt trận chính trị là thắng lợi lớn nhất của cộng sản việt Nam với người Mỹ. Bà nói:
“ Trên thực tế, qua nghiên cứu, tôi thấy rằng thắng lợi lớn nhất của cộng sản miền Bắc là trên mặt trận ngoại giao trên trường quốc tế.. Tới những năm 1973-1975 thì Hà Nội đã thắng cuộc chiến tranh chính trị cho nên người ta hiểu rằng cộng sản miền Bắc đã đánh bại cường quốc lớn nhất thế giới lúc đó là Hoa Kỳ, thực sự bằng cách dành được thắng lợi trên sân khấu ngoại giao.”
Theo tiến sĩ Liên Hằng trong phần kết luận cuốn sách. (từ trang 298).
“ Thỏa ước hòa đàm Paris đưa đến chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Nó chỉ đánh dấu một sự kết thúc cay đắng một cuộc chiến cho hòa bình và kết thúc về một sự tàn phá trong chiến dịch Operation Linebacker II.
Và mặc dầu thỏa ước đã được ký kết, nhưng không bên nào tin rằng cuộc chiến đã qua.”
Vì thế, một mặt nào đó, cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Chính quyền Saigon tuyên truyền bôi nhọ thỏa ước.
Dưới quyền điều khiển quân đội của Văn Tiến Dũng đã không cần thiết mong đợi một sự nổi dạy của quần chúng nữa. Phần Thiệu, trước áp lực phải rời bỏ chức vụ đã lên tiếng thống thiết thóa mạ người bạn đồng minh của mình và được hộ tống sang Đài Loan nhường quyền cho phó tt. Trần văn Hương. Và một tuần sau, ông Hương cũng ép buộc nhường cho tướng Dương Văn Minh- một con người không muốn tiếp tục cuộc chiến đấu vô vọng- đã mở đường cho một cuộc đầu hàng vô điều kiện cộng sản Bắc Việt.
Với cuộc giải phóng Saigon, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ ăn mừng chiến thắng sau 15 năm chiến đấu của Hà Nội.
Chẳng bao lâu sau, nòng súng chưa kịp nguội, Hà Nội đã tiến hành cuộc chiến bên Campuchia để truy diệt bọn Khmer rouge.
Một lần nữa cho thấy quân đội Việt Nam đã lật đổ được con hùm xám Polpot đã từng có cuộc chiến giữa đôi bên một năm trước đây.
Phần người láng giềng Trung Quốc mượn cớ bênh vực Kampuchia muốn dạy cho một đàn em VN một bài học thế nào là lòng biết ơn và quân đội Trung Quốc đã tàn phá 6 tỉnh phía Bắc của Việt Nam.
Ngày 15/ 6/ 1986 , 100.000 người Hà Nội đã tiễn đưa Lê Duẩn về bên kia thế giới.
Cái chết của Lê Duẩn đánh dấu một giai đoạn mở đầu cho một giai đoạn chấm dứt một hội chứng đau thương, mất mát giữa Việt Nam-Hoa Kỳ với thời kỳ Đổi Mới vào năm 1986.
Mặc dầu Việt Nam thoát sang thời kỳ hội nhập và những người từng bị Lê Duẩn trù dập nay có cơ hội được phục hồi lại uy tín trước mặt thế giới. Đặc biệt là đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Phần Phạm Hùng, Lê Đức Thọ hai năm sau cũng theo gót Lê Duẩn về bên kia thế giới.
Một thành phần các cựu viên chức cũ trẻ như Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Lê Đức Anh, và Võ Văn Kiệt trỗi dạy nắm những vai trò chủ chốt trong đảng, gia nhập cộng đồng thế giới, quyết tâm rời bỏ Kampuchia sau 10 năm chiếm đóng, làm hòa với Trung Hoa cộng sản và gia nhập với các nước trong Asean năm 1995, gia nhập tổ chức thương mại thế giới và nhất là cố gắng xích lại gần hơn với Hoa Kỳ như thể mượn Hoa Kỳ như một thứ lá chắn trước Trung Hoa Cộng Sản.
Tương lai Việt Nam nay mở ra một kỷ nguyên mới với tham vọng tham gia vào sự phát triển và đổi mới với cộng đồng thế giới.
Đôi lời bàn của người viết điểm sách của Nguyễn thị Liên Hằng
Phải nhìn nhận rằng nay gió đã đổi chiều, gió chướng đổi thành gió lành, biến kẻ thù không đợi trời chung thành bạn. Một trang sử mới đã mở ra cho VN. Phần VN, phải dọn dẹp rác rưởi, xóa bỏ những giọng điệu tuyên truyền mạ lỵ Hoa Kỳ. Đế quốc Mỹ nay trở thành người bạn Mỹ.
Đặc biệt là mối tương giao hợp tác buon bán trao đổi với Hoa Kỳ. Về thương mại, năm 2023, hai bên đạt 132 tỉ đô la. Trong đó xuất khẩu của VN sang Hoa Kỳ đã chiếm 119 tỉ Đô la. Cán cân thương mại đem lại lợi thế lớn cho VN, xếp hạng thứ tư trong các nước liên hệ thương mại với Hoa Kỳ.
Về chính sách, Hoa Kỳ và VN, dưới thời Tổng thống Biden đã ký thỏa thuận là: Đối tác chiến lược toàn diện. Một thỏa thuận cao nhất vào tháng 10/2023 vì hòa bình, tương lai và phát triển bền vững.
https://www.danchimviet.info/hanois-war ... 025/33768/ - Phần một: con đường của chiến tranh cách mạng do Lê Duẩn cầm đầu, chỉ đạo cuộc chiến và hoạch định chính sách..( Năm 1955 thay vì tập kết di chuyển trên chiếc tàu của Ba Lan Kelliski cùng với vợ là bà Nga và con gái ra Bắc, Lê Duẩn đã lén lút quay trở lại trên một chiếc canot bên dòng sông Ông Đốc ở Cà Mâu..Con gái Lê Duẩn là Lê Vũ Anh được du học sang Nga và chết thảm vì khi sinh cháu thứ ba bị băng huyết. Tôi- Nguyễn Văn Lục có viết về câu chuyện bi thảm này.)
Tưởng niệm 50 năm người Việt mất miền Nam Tự Do
Hanoi’s War – Nguyễn thị Liên Hằng
Thời hậu chiến
-
Thời hậu chiến
_____________________
Tưởng Năng Tiến - 01/04/2025
- Tên chị là gì?
- Thưa em tên Mơ.
Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ?
Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu…
Quê quán ở đâu vậy?
Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
Chị công tác ở cơ quan nào?
Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
Chắc chưa vào Ðảng…?
“Nơi em về trời xanh không em…?” Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy … Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng “Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?”
(Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Westminster, CA: Nguời Việt, 1987). - Thưa em tên Mơ.
Ngoài những câu hỏi “thơ mộng” và “lãng mạn” như trên, bên kia vỹ tuyến còn có nhiều câu hỏi (nghe) rất … linh tinh:- Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc?
Anh không biết bây giờ tháng mấy, em không biết anh đi về đâu, và hết nửa phần đất nước đều chia chung một nỗi băn khoăn (lớn) dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh:- Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?
Ở nửa phần còn lại thì không ai mơ hồ về thời gian cả. Mọi người đều biết chính xác ngày/tháng/năm sinh của vị lãnh tụ kính yêu, cũng như thời điểm phân phối khẩu phần lương thực (ngoài tiêu chuẩn) nhân ngày sinh nhật của NGƯỜI.
Cũng chả bao giờ nghe ai hỏi ai “đi về đâu” vì ai cũng biết là mọi con đường đều dẫn ra mặt trận, và đường ra trận thì mùa nào cũng đẹp:- những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến, như tình yêu nối lời vô tận …
- hết rau rồi em có lấy măng không?
Không chỉ bị ám ảnh bởi cái đói mà cả nửa nước (bên kia) còn bị nhồi nặn, và kích động bởi căm thù:- “Phải ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước khi chiến thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây thép gai thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng miền Nam chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngút trời.”
(Bùi Ngọc Tấn. Biển và Chim Bói Cá. Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn: 2010).
Ở bên này thì không thế. Ngoài những băn khoăn siêu hình về hố thẳm tư tưởng và nỗi dằn vặt triết lý nhân sinh giết người đi thì ta ở với ai (?) có kẻ còn chắp tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện với không ít thơ ngây:- Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn
Ruộng đồng Việt Nam lên những búp non đầu tiên
Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên rừng …
Thực tại, tiếc thay, hoàn toàn không như dự tưởng:- “Tôi từng đi trên những chuyến tàu hỏa hành trình bắc nam mất 72 tiếng đồng hồ, trên đó chất đầy xe đạp, khung xe đạp, vải vóc, đường sữa, gạo, giấy… chuyển từ nam ra bắc. Những chuyến hàng thực chứ hoàn toàn không giả tạo chút nào đổ về nơi từng được coi là hạnh phúc, no ấm. Nhiều người vỡ lẽ, lắc đầu ngao ngán.”
(Nguyễn Thông. “Thành Ngữ Mới: Phồn Vinh Giả Tạo”).
“Ở mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm. Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là đặc trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta thời đó, điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi hầu như không thấy một nụ cười trên gương mặt một ai cả.”
(Trần Thành Nam. “Hãy Trả Lại Rổ Tép Khô Cho Tôi”).
Dự đoán của Trịnh Công Sơn, rõ ràng, hơi trật:- Khi đất nước tôi không còn giết nhau/ Mọi người ra phố mời rao nụ cười.
- Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn.
- Từng vai áo phai sẽ xanh thêm đời
Bàn tay làm nên những mùa vui
Từ trên đất này, những con người mới
mọc lên
Mạng người chớ có phải là giá, nấm, hay rau cỏ đâu mà cứ mọc lên hoài vậy được, hả Trời? Hết cuộc chiến ở biên giới phía Tây rồi đến chiến cuộc ở biên giới phía Bắc, cuộc nào cũng phải trả giá bằng hàng mấy vạn sinh linh mà không nghe ai lên tiếng phản đối (hay phản chiến) gì ráo trọi. Cũng chả thấy ai (dám) chắp tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện.
Rồi sau khi bốn phương im tiếng súng, Đảng “dũng cảm và quyết tâm đổi mới” để chuyển đổi sang Kinh Tế Thị Trường (theo định hướng XHCN) thì đất nước lại phát sinh ra thế lực thù địch mới – giặc nội xâm:
- Chống Tham Nhũng Là Chống Giặc Nội Xâm
Đã Đến Lúc Coi Ma Túy Là Giặc Nội Xâm
Công an thu giữ 7 tấn ma túy trong vòng 5 tháng
Quyết Liệt Phòng Chống Giặc Nội Xâm
Tham nhũng là một thế lực thù địch của nhân dân ta, đất nước ta, và Đảng ta
Chống Giặc Nội Xâm Đang Ở Giai Đoạn Hết Sức Quyết Liệt
Khi đã phải thay phong bì bằng bao tải mới đủ chỗ chứa (hằng triệu Mỹ Kim) tiền lại quả, và khi mà số lượng ma túy bị tịch thu được tính theo đơn vị tấn (chứ không phải ký hay tạ nữa) thì mặt trận nội xâm đã kể như … toang!
Ngoại xâm cũng vậy. Ngày 19 tháng 4 năm 2020, BBC loan tin:- Trung Cộng lập hai hai huyện đảo quản lý Trường Sa, Hoàng Sa.
- “Việt Nam phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa … Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền…”
Trong Lịch sử nhân loại chưa có một cuộc xâm lăng nào bị ngăn chận bởi những lời “phản đối” hay “yêu cầu” (yếu xìu) như thế cả.- Thù trong giặc ngoài,
- nợ công cao lút đầu,
- đạo đức xuống thấp đến gót chân,
- không khí ô nhiễm,
- sông hồ cạn kiệt,
- rừng núi điêu tàn,
- đất nước tan hoang…
Ông Nguyễn Hộ, một đảnh viên lão thành của ĐCSVN, coi đây là “điều sỉ nhục.” Ông TBT kiêm CTN Nguyễn Phú Trọng thì không, ổng không thấy nhục nhã gì ráo trọi và vẫn nhơn nhơn ban hành Nghị Quyết Về Cuộc Cách Mạng 4.0 với những mục tiêu trời/biển như sau:- Năm 2025, internet băng thông rộng phủ 100% các xã, duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Năm 2030, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm.
- Năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á.
Tuy nghe hơi hoang đường nhưng cũng không khác lắm với những lời hứa hẹn của những nhân vật tiền nhiệm:- Hồ Chí Minh: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
- Lê Duẩn: “Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng!”
Toàn là thần chú và phép lạ cả.
Điều mầu nhiệm là
tuy chỉ được ăn bánh vẽ
nhưng cả nước vẫn không ai kêu đói,
và có người còn tấm tắc khen ngon.
Mầu nhiệm hơn nữa là
một dân tộc dễ chịu (và dễ dậy) tới cỡ đó
mà vẫn sống sót được mãi cho đến đầu thế kỷ này.
https://www.danchimviet.info/s-t-t-d-tu ... 025/33774/ - Tên chị là gì?
Ngày Tàn Cuộc Chiến - I - Những Phi Vụ Cuối Cùng
-
Ngày Tàn Cuộc Chiến - I -
Những Phi Vụ Cuối Cùng
__________________________
Lời Người Viết:
Một nén hương thắp lên để tưởng nhớ tới những hoa tiêu Long Mã thuộc Phi Đoàn 219 đã bỏ mình tại Ban Mê Thuột và những Anh Hùng Mũ Đỏ đã anh dũng hy sinh cho Tổ Quốc tại mặt trận Khánh Dương trong những ngày tháng cuối.
Riêng tặng cho những phi công oai hùng của Phi Đoàn 534 Kim Ngưu, Phi Đoàn 524 Thiên Lôi và Phi Đoàn 548 Ó Đen tại căn cứ Phan Rang Không Đoàn 92 Chiến Thuật đã yểm trợ cho quân bạn trong những giây phút cuối cùng của mặt trận vùng II.
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215, Thần Tượng
- Ngày 11 tháng 3 năm 1975
Tôi lịm chết giữa điệu buồn chất ngất
Thả hồn xuôi theo kỷ niệm xa mờ
Phút vị vong thắp lại nén hương thừa
Mà tưởng nhớ một thời xưa đã sống
Nguyễn Ðịnh
Dựng chiếc xe Honda xong tôi lững thững đi vào Phi Đoàn, định quẹo lên lầu câu lạc bộ kiếm gì ăn sáng. Trên hành lang trước cửa Phi Đoàn một số đông hoa tiêu đang đứng tụm ba tụm năm bàn tán, trên khuôn mặt mọi người thấy rõ nét nghiêm trọng, khẩn trương hình như đang có một biến cố nào đã xảy ra, tôi vội vã bước tới đám đông nhập bọn, thấy Thiếu Úy Tòng đang đứng gần bên, tôi kéo tay anh hỏi:
- Này Tòng, có chuyện gì xảy ra vậy bạn?
- Tối hôm qua Ban Mê Thuột bị Việt Cộng tấn công, nghe nói là tụi nó chiếm phi trường L- 19 rồi… Vừa nghe xong, chân tay tôi bủn rủn như vừa bị sét đánh ngang tai. Mấy hôm nay tôi đang thấp thỏm đợi lệnh đi biệt phái Ban Mê Thuột, đáng lý biệt đội 215 Thần Tượng phải có mặt tại Ban Mê Thuột từ hai ngày trước để thay thế phi đội Long Mã của Phi Đoàn 219 đã ở quá thời hạn, cho tới sáng hôm nay tôi vẫn chưa nhận được lệnh lạc gì, không hiểu vì lý do nào. Với tình thế hiện tại chắc là phi vụ biệt phái phải hủy bỏ. Tôi nóng lòng hỏi tiếp:
- Thế…còn biệt đội 219 tại phi trường L-19 như thế nào rồi bạn có biết không?
- Chưa ai biết rõ tình hình, nghe nói tất cả đều bị kẹt lại, chỉ có vài ba người chạy thoát, bay về được, hình như trong đó có Thiếu Tá Thu Biệt đội trưởng và Thiếu Tá Sua cùng với mấy người nữa. Thiếu Tá Sua thì bị thương, hiện đang nằm ở bệnh viện. Tòng trả lời.
Chợt nhớ tới vài người bạn thân trong Phi Đoàn Long Mã tôi hỏi Tòng:
- Bạn có biết Lý Hạnh với Võ Văn Còn và Quỳnh “móm” có đi trong kỳ biệt phái này hay không?
- Tôi cũng không biết nữa.- Tòng trả lời.- Hình như hôm qua tôi thấy Trung Úy Lý Hạnh xách nón bay đi ngoài bãi đậu trực thăng chắc là không đi kỳ này rồi.
Bàng hoàng, tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế kế bên, đầu óc quay cuồng khi nghĩ đến những người còn kẹt lại Ban Mê Thuột, chuyện gì đã xảy ra cho họ, chuyện gì sẽ xảy ra cho Phi Đoàn trong những ngày sắp đến? Ngay giây phút này, tôi đã không ngờ rằng biến cố tôi vừa nghe được là một sự kiện vô cùng quan trọng, nó là một biến cố khởi đầu cho một khúc quanh của lịch sử và sẽ đưa đến sự sụp đổ của Miền Nam Tự Do, chấm dứt cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sau gần hai mươi năm chiến tranh máu đổ thịt rơi.
Ban Mê Thuột Thất Thủ …
Khoảng 2 giờ sáng ngày 10 tháng 3/75, thị trấn Ban Mê Thuột đang triền miên trong giấc điệp, cả thành phố bỗng choàng thức dậy trong những tiếng nổ long trời lở đất. Hàng ngàn trái hỏa tiễn 122 và đại bác 130 ly bắn ào ạt như mưa bấc xuống những căn cứ quân sự. Như trận địa chấn kinh thiên động địa, dinh thự nhà cửa rung chuyển, cửa kính vỡ tung tóe, cây cối đổ nát khắp nơi. Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu khởi động một trận chiến cuối cùng, tiến chiếm miền Nam sau khi đã thất bại nặng nề trong chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.
Mũi dùi chính của Bắc quân nhằm tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột, trái tim của vùng Cao Nguyên đất đỏ, từ đó chúng sẽ làm bàn đạp để thôn tính miền duyên hải, và tất cả phần đất còn lại của miền Nam. Với một lực lượng khoảng 30 ngàn quân chính quy, đối đầu với hai Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 23 cùng với vài ngàn Địa Phương Quân trang bị yếu kém thiếu kinh nghiệm. Quân số của địch đông gấp bảy lần quân trú phòng. Sáng ngày 9 tháng 3 năm 75, tại phi trường L- 19, Trung Tá Võ Văn Ân, Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 53 cùng Thiếu Tá biệt đội truởng Phi Đoàn 219 (Long Mã) Huỳnh Xuân Thu và Thiếu Tá Trần Văn Sua, biệt đội phó, đã bay trực thăng lên thám sát mặt trận vùng Đức Lập. Trên đường đi tàu đã nhiều lần bị phòng không bắn lên từ vùng kế cận Ban Mê Thuột, điều đó chứng tỏ rằng lực lượng của địch quân đang tiến rất gần thành phố. Theo tin tức ghi nhận được, Trung Tá Ân tiên đoán Cộng quân sẽ tấn công vào thị trấn đêm nay và đã đề nghị Biệt Đội 219 nên di tản về Đà Lạt. Tuy nhiên Thiếu Tá Thu không thể thì hành đề nghị đó khi chưa có lệnh của phòng hành quân Không Đoàn 62/CT tại Nha Trang.
Đúng như lời tiên liệu của Trung Tá Ân, ở phi trường L- 19, tất cả Biệt Đội của 219 đang triền miên trong giấc điệp, bừng tỉnh dậy vì những tiếng nổ long trời lở đất. Bên ngoài những tiếng la hét dồn dập hỗn loạn khắp nơi, tiếng súng nổ cùng tiếng chân người chạy thình thịch. Chưa ai hiểu chuyện gì đã xảy ra, tất cả tung mền chạy ra khỏi phòng, đi tìm chổ ẩn núp. Thiếu Tá Thu, biệt đội trưởng là người đầu tiên may mắn cất cánh khỏi phi trường cùng với vài người trong biệt đội nhanh chân trước khi bọn đặc công Việt Cộng đột nhập vào căn cứ. Tại khu trú ngụ của biệt đội Long Mã, Thiếu Tá Sua vừa chạy ra khỏi cửa phòng ngủ, trong bóng đêm gặp ngay một toán đặc công Cộng Sản chạy ngang. Có tiếng la to: “Ai đó, đứng lại không thì chết”. ” Không Quân đây!” Thiếu Tá Sua vừa dứt lời thì một trái lựu đạn bay vèo rơi gần bên, nổ tung. Đây là loại lựu đạn nội hóa Beta của Cộng Sản, sát hại bằng sức ép, đẩy bật Thiếu Tá Sua té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Trong khi đó bọn đặc công bắt đầu tung hoành tấn công vào các vị trí khác trong doanh trại. Những trái lựu đạn được tung ra tới tấp vào những căn phòng ngủ của biệt đội nổ ầm, gây thương vong cho nhiều nhân viên phi hành và kỹ thuật, hầu như không có một khí giới nào trong tay để chống trả. Tình trạng vô cùng bi đát.
Ngoài bãi đậu một chiếc trực thăng cố trốn thoát khỏi phi trường, cất cánh hướng về rừng cao su. Vừa lên cao độ khoảng vài trăm bộ, con tàu lãnh nguyên một quả đạn phòng không bố trí ở một cao ốc gần đó, rơi xuống bìa rừng nổ tung.
Khoảng 7 giờ sáng, sau vài tiếng đồng hồ nằm bất tỉnh trên mặt đất, Thiếu Tá Sua mơ màng tỉnh dậy, mình mẩy bị bầm dập vì nội thương, máu chảy ướt hết mặt từ vết thương bên mắt trái. Nghe tiếng loa gọi của bọn đặc công kêu vang, ra lệnh cho tất cả những ai còn sống ra đầu hàng, Thiếu Tá Sua, cố gượng ngồi dậy, lết ra bãi đáp trực thăng gần đó. Sau khi dùng hết tàn lực trèo qua một hàng rào lưới sắt cao, anh chạy tới một chiếc tàu trực thăng võ trang đang quay máy. Trên ghế bay Trung Úy Sơn đang cầm cần lái, phía sau khoang tàu chen chúc hơn mười nhân viên kỹ thuật và phi đạo, đa số còn bận đồ ngủ hay chỉ bận độc nhất cái quần xà lỏn, nét mặt bàng hoàng, ngơ ngác như đang hy vọng rằng đây chỉ là một cơn ác mộng. Trời còn tờ mờ sương đêm chưa tan hẳn, tiếng súng M- 16 của quân trú phòng xen lẫn những khẩu AK- 47 đua nhau nổ vang rền cùng với những tiếng đạn pháo kích liên tục nã vào thành phố. Trong tình thế hổn loạn, Trung Úy Sơn đã vội vã cất cánh. Chiếc trực thăng cố vượt qua một công sự khá cao án ngữ trước mặt, dưới sức nặng của mười mấy người cùng đạn dược và rockets, chiếc trực thăng võ trang không đủ sức, rơi xuống đất trở lại. Tiếng hú của hệ thống báo động vang lên inh ỏi báo hiệu tàu bị mất “power”. Thiếu Tá Sua ngồi bên cạnh, mặc dù đang bị nội thương trầm trọng, là một test pilot già dặn trong nghề, vội vàng chụp cần lái phụ với Trung Úy Sơn, anh hạ cần cao độ để tăng vòng quay cánh quạt, quay đầu tàu trở lại hướng khoảng đất trống. Chiếc trực thăng nặng nề chạy một khoảng dài cố vươn mình lài trên bìa rừng cao su sau khi vượt qua đầu của một vọng gác vừa mới bị B- 40 bắn sập còn nghi ngút bụi mù. Sau lưng những khẩu AK- 47 nổ dòn, bắn vói theo. Chiếc trực thăng lấy cao độ, hướng về Nha Trang. Xa xa trước mặt con tàu, mặt trời vừa ló dạng đỏ ối trên đầu đỉnh núi phương Đông báo hiệu một ngày mới bắt đầu.
Vài ngày sau, Không Đoàn 62/CT nhận được tin một số nhân viên phi hành và kỹ thuật đã thoát khỏi vòng vây của địch quân, di chuyển bằng đường bộ theo nhóm quân nhân của Sư Đoàn 23 về tới Phước An, cách Ban Mê Thuột khoảng 12 km về hướng Đông Bắc, và đã phái trực thăng lên bốc tất cả về đơn vị.
Gần một phần năm số hoa tiêu của Phi Đoàn Long Mã đã hy sinh trong cuộc tấn công thành phố Ban Mê Thuột của Cộng Sản. Đó là một sự mất mát lớn cho Phi Đoàn Long Mã,và cũng là một cái tang chung cho tất cả anh em trong Phi Đoàn Thần Tượng.
Từ khi thuyên chuyển Phi Đoàn về Nha Trang từ căn cứ Đà Nẵng, Phi Đoàn 219 đã gặp nhiều chuyện không may xảy ra. Một trong những chuyện đó là vụ chiếc trực thăng của Phi Đoàn khi đậu tại bờ Hồ Xuân Hương ngày 7 tháng 11 năm 1973, bị đánh cắp bởi một Thiếu Úy trực thăng bị sa thải vì lý do an ninh. Trưởng phi cơ là Trung Tá Nguyễn văn Nghĩa, Phi Đoàn trưởng và Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu hoa tiêu phụ. Vụ mất cắp này đã làm chấn động giới phi hành, nhất là ngành trực thăng. Đây là một trong những sự kiện bất hạnh đã xảy ra cho Phi Đoàn 219, và cho một vị Phi Đoàn trưởng khả kính, lão luyện trong ngành trực thăng cũng như trong quân chủng Không Quân.
Mây Giăng Lối Về
Trước khi Ban Mê Thuột thất thủ, Cộng Sản Bắc Việt đã chủ tâm chuẩn bị chiến trường hơn mấy tháng trước đó. Trong giai đoạn này, biệt đội của 215 Thần Tượng và 219 Long Mã thay phiên biệt phái cho Trung Đoàn 53, SĐ/23 Bộ binh. Nhân viên phi hành đoàn cư ngụ tại Base- 50 của Lôi Hổ trong phi trường L- 19, sát nách trung tâm thành phố Ban Mê Thuột. Biệt đội Thần Tượng thường xuyên hoạt động cho vùng Gia Nghĩa tỉnh Quảng Đức,bay phi vụ đổ toán trinh sát ở sát vùng biên giới Cam Bốt, cũng như dọc theo đường mòn Hồ chí Minh, thám sát hoạt động của địch. Quân Đoàn II đã ghi nhận được nhiều sự di chuyển của Sư Đoàn 320 CSBV, cũng như khám phá nhiều ống dẫn dầu xuất phát từ biên giới và nhiều đoàn xe tiếp tế của địch chạy dọc theo đường mòn Hồ chí Minh. Riêng những phi vụ của biệt đội 215 thì đã không hề đối đầu trực diện với một lực lượng nào của Cộng quân trong thời gian này.
Trong giai đoạn hoạt động tại đây, một chuyến bay của biệt đội sau khi hành quân trở về đơn vị, đã ghi dấu như là một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời gian khổ của người hoa tiêu trực thăng.
Vào một buổi chiều sau cuộc đổ quân tại vùng Gia Nghĩa, hợp đoàn Thần Tượng, năm chiếc chở quân và hai trực thăng võ trang chuẩn bị rời vùng hành quân trở về lại Ban Mê Thuột. Cao Nguyên mùa mưa, thời tiết bất chợt, không khí nặng nề, ẩm ướt, từ phi trường Nhơn Cơ, Thiếu Tá Sơn Thái Huyền bay chiếc Charlie (Command and Control) cất cánh trở về Ban Mê Thuột trước đó không lâu, đã thông báo cho hợp đoàn biết thời tiết trên đường đi rất xấu, có thể mưa và đề nghị hợp đoàn nên ngủ lại tại phi trường Nhơn Cơ. Tất cả anh em trong hợp đoàn đều nôn nóng bay về Ban Mê Thuột, không ai muốn kẹt lại tại phi trường đèo heo hút gió này. Mặc dù thời tiết rất xấu, Đại Úy Nguyễn Hồng Huỳnh vẫn quyết định dẫn hợp đoàn bay về theo đường Quốc Lộ 14. Vào những ngày tốt trời, từ phi trường Nhơn cơ theo đường chim bay đến Ban Mê Thuột, chỉ mất hơn nửa tiếng đồng hồ. Với thời tiết như chiều nay, bay theo đường có thể lâu hơn 45 phút. Sau khi đổ xăng xong, bảy chiếc trực thăng bắt đầu cất cánh rời vùng Gia Nghĩa.
Hợp đoàn trực thăng nối đuôi bay dưới trần mây thấp trên đầu con Quốc Lộ 14. Đây là một đoạn đường núi non hiểm trở nhất của vùng Cao Nguyên, chạy quanh co giữa rừng già, uốn lượn theo những triền núi dốc đồi. Sau hơn mười lăm phút bay trời bắt đầu sẩm tối, trần mây hạ thấp dần, đường đi mỗi lúc một âm u một màu xám. Nhiều đoạn đường, sương mù quyện thấp, những cột sương trắng đục từ trần mây xám xịt thòng xuống mặt rừng như những cột thạch nhủ trong động thiên thai mờ ảo. Trên tần số không một tiếng nói, mọi người đã mệt mỏi sau một ngày hành quân dài, không ai đủ sức mở miệng. Hợp đoàn lầm lũi nối đuôi nhau, nhấp nhô bay xuyên qua những cụm mây lơ lững trên đầu ngọn cây, xáo động bầu không khí đặc quánh hơi sương. Tôi lái chiếc trực thăng võ trang bay một khoảng cách an toàn, bám sau đuôi chiếc cuối cùng của hợp đoàn, theo sau tôi là chiếc gun số hai của Trung Úy Thành “râu” như thường lệ. Trời càng tối trần mây càng xuống thấp như muốn nhập lại với mặt rừng cây, năm chiếc trực thăng bay trước mặt tôi mờ ẩn trong bóng chiều chập choạng.
Tốc độ của hợp đoàn chậm dần…Mãi mê tập trung tinh thần vào chiếc trực thăng trước mặt, tôi không hề để ý đến vận tốc con tàu đến khi nhìn vào chiếc kim đồng hồ tốc độ đang chỉ gần 50 knots (knot = 1.8 km) và đang có khuynh hướng xuống thấp hơn nữa. Nếu tình trạng này tiếp tục, con tàu sẽ bị triệt nâng (stalled), không còn điều khiển được nữa vì chiếc tàu chở đầy súng đạn quá nặng. Tàu chậm dần tới 40 knots…, mồ hôi tôi rịn ướt trong chiếc găng tay nomex từ lúc nào tôi không hay. Theo tôi ước đoán, hợp đoàn có lẽ chưa bay được một phần tư đoạn đường. Tôi thoáng nghĩ trong đầu quyết định cất cánh bay về Ban Mê Thuột trong điều kiện thời tiết này quả là một quyết định liều lĩnh và sai lầm. Tôi nghe tiếng của của Đại Úy Huỳnh “râu” nhắc nhở hợp đoàn trên tần số:
- Đây là lead…, hợp đoàn bay theo khoảng cách an toàn, đừng gần quá. Trời mù quá, anh em cẩn thận…
Thời tiết càng lúc càng tệ hại. Những chiếc trực thăng như đang đi lạc vào một thế giới “bồng lại tiên cảnh” nào đó, không còn thấy được lối về.
- Hổ hai.., Thành nghe tao không?
- Hai nghe.., nói đi.
- Đừng bay sát quá nghe, nếu mây xuống thấp nữa, tao sẽ quẹo U turn lại, mày coi chừng. Vừa gọi cho chiếc gun số hai xong tôi nghe tiếng của Huỳnh “râu” trên tần số:
- Hợp đoàn đây lead…, trước mặt trần mây xuống gần đụng đọt cây rồi, lead chuẩn bị quẹo lui, trở về Gia Nghĩa. Hợp đoàn nghe rõ.
Nghe Huỳnh “râu” vừa nói xong thì trước mặt chiếc trực thăng tôi đang bám gót đột ngột giảm tốc độ gần như muốn đứng lại, cánh quạt đuôi của chiếc trail (chiếc sau cùng), chỉ cách cánh quạt chính đang quay vùn vụt trên đầu tôi chừng vài mét. Tôi hốt hoảng la lớn:
- Đ…m…, trail…., bay cái đ…gì kỳ vậy…
Vừa la tôi vừa đè cần cao độ, bẻ ngoặc cần lái, con tàu nghiêng qua phía trái lài trên đọt cây bìa rừng sát đường, vừa kịp thời để khỏi chém đứt cái đuôi tàu của chiếc trail trước mặt. Hú vía!…Tim tôi đập như muốn vỡ lồng ngực. Hai người mê vô xạ thủ đang ngồi sau hai thùng đạn chồm về phía trước la thất thanh. Tội nghiệp người hoa tiêu phụ, không làm gì được hơn là ngồi chết cứng trên ghế bay.
Vừa lúc đó tôi nghe tiếng nói hốt hoảng trên tần số của Huỳnh “râu”:
- Lead break…trái…, hợp đoàn coi chừng…
Con đường đất đỏ phía trước đang lên dốc đèo, đột ngột biến mất vào đám sương mù mịt. Tất cả hợp đoàn mạnh ai nấy quẹo lại, hỗn loạn trên mặt rừng âm u.
- Hợp đoàn, coi chừng…coi chừng đụng nhau…từ từ…lead đang quẹo lại 180 độ…hợp đoàn theo…lead..Tiếng Đại Úy Huỳnh hớt hải.
Tôi đã cho con tàu quay ngược đầu lại đang bay sát trên mặt rừng cây trở lại con đường đất đỏ hướng về phi trường Nhơn Cơ, chiếc trực thăng võ trang số hai của Thành “râu” bám sau một khoảng không xa.
- Lead…Đây Mãnh Hổ…
- Nghe…nói đi… Đại Úy Huỳnh trả lời.
- Huỳnh, mày theo tao, còn đi được. Tao đang bay theo đường đây, tới đâu hay tới đó, chắc không về được Nhơn Cơ đâu.
Trời bắt đầu tối hẳn, con đường đất đỏ chỉ còn thấy lờ mờ chạy giữa đám rừng xanh thẫm. Khoảng năm phút bay sau, trước mặt tôi ẩn hiện một xóm nhà chừng vài chục căn, nằm im lìm trong bóng tối lù mù dọc theo con lộ. Tôi lên tiếng gọi Huỳnh râu:
- Huỳnh nghe tao không? Có xóm nhà trước mặt.., hết bay được nữa rồi, tao đáp xuống đường đây!
- OK.., tao thấy rồi, đáp trước đi, tụi tao ở sau lưng mày.
Bảy chiếc trực thăng từng chiếc một hạ thấp dần, rầm rộ đáp dọc theo con đường bên cạnh mấy căn nhà nhỏ lúp xúp, tiếng động cơ ầm ĩ khuấy động vùng rừng núi yên tỉnh. Tất cả hợp đoàn tắt máy. Tháo chiếc nón bay ra khỏi đầu, mồ hôi ướt đẫm mái tóc. Không gian bỗng dưng yên tĩnh lạ thường, tiếng dế rả rích kêu vang từ trong đám cỏ nào đó bên lề đường. Tôi móc điếu thuốc ra châm lửa hút, rồi ngả người vào lưng ghế, đốm lửa lập lòe trong bóng đêm, liên tưởng tới đoạn đường tử thần vừa qua, tất cả diễn tiến vẫn còn xao động trong đầu tôi.
Bên ngoài cockpit trời đã tối đen, bảy chiếc trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng đậu chơ vơ bên lề đường trên vùng đất xa xôi hẻo lánh, không có một đơn vị bạn nào gần đây để bảo vệ, tánh mạng của bảy phi hành đoàn không một vũ khí trên tay ngoài những khẩu súng lục không đủ sức để kháng cự vài ba tên du kích Cộng Sản. Trong giây phút này chúng tôi hoàn toàn giao phó mạng sống của tất cả phi hành đoàn và bảy chiếc trực thăng cho số mệnh định đoạt.
- Ê…mày…, ngồi luôn trên đó à, đi kiếm chỗ nào ngủ qua đêm chứ? Tiếng nói đột ngột của Thành “râu” đang đứng dưới đất kế bên hông cửa tự lúc nào tôi không hay. Tôi mở cửa, vừa leo xuống đất vừa nói:
- Đúng tụi mình quá ẩu, suýt nữa là tiêu tùng nguyên cả hợp đoàn, thôi ráng ngủ đây qua đêm đi, mai tụi mình dọt sớm. Tao nghĩ mình nên đi dọc theo đây coi căn nhà nào còn thức, gõ cửa mua đỡ thứ gì ăn lót bụng, đói quá rồi.
Đại Úy Huỳnh “râu” trong bóng đêm lò mò bước đến từ phía đuôi chiếc trực thăng.
- Huỳnh, mày hỏi xem hợp đoàn tối này ngủ đâu? Tôi hỏi.
Huỳnh “râu” chậm rãi trả lời:
- Tao nói rồi, tụi nó khui đồ hộp ăn rồi ngủ trong tàu.
Thấy mấy người xạ thủ đang lui cui cột cánh quạt trong bóng đêm, tôi hỏi:
- Hai bạn theo tôi kiếm gì ăn không hay là ở đây?
- Tụi tui đi theo mấy ông luôn. Cả hai đồng loạt trả lời.
Gió lạnh từ vùng biên giới thổi những chiếc lá khô bay xào sạt trên mặt đường. Tôi cảm thấy lạnh, tay kéo fermeture lên tới cổ, bẻ cổ áo bay lên rồi bước theo hai người bạn cùng vài người xạ thủ mới nhập bọn. Tất cả lò mò đi trong bóng tối dọc theo đường đến bên một căn nhà gạch lợp tôn, bên trong ánh đèn dầu rọi ánh sáng vàng vọt qua khung cửa còn mở. Hình như là một cái quán cóc nhỏ, phía trước bày bán các thứ bánh kẹo, thuốc lá, nước ngọt và một vài thứ linh tinh khác… Một người đàn ông và một người đàn bà gầy gò, khoảng gần năm mươi, có lẽ là vợ chồng, đang ngồi trên ghế kế bên cái bàn gỗ, đưa mắt nhìn khi chúng tôi bước tới trước cửa. Nhìn Huỳnh “râu” đội chiếc nón rừng, bận bộ đồ hai mảnh, trên mặt bộ râu rậm trông ngầu như lính Lôi Hổ cùng một đám người súng ống đeo “lỏng dỏng” bên hông, hai nguòi e dè đứng dậy gật đầu chào. Thành “râu” bước vào bên trong lên tiếng hỏi:
- Chào anh, chúng tôi lỡ đường phải ở lại tại đây đêm nay, vô đây hỏi xem anh có bán gì ăn không? Mì gói cũng được.
Người đàn bà trong bộ đồ bà ba nâu khúm núm đứng dậy trả lời:
- Dạ, tui có mì gói…Nghe người đàn bà nói xong, tất cả đám đang dứng trước cửa quán mừng rỡ bước vào trong.
Vài phút sau người đàn ông bưng ra mấy tô mì gói bốc khói từ căn chái nhỏ phía sau nhà. Mọi người ngồi vào bàn ăn. Có lẽ chưa bao giờ trong đời tôi được ăn một tô mì gói ngon như đêm nay. Ngồi nói chuyện một hồi mọi người trở về tàu kiếm chỗ ngủ. Còn lại tôi với Thành “râu” đứng lại mua vài cái bánh ngọt ăn thêm, nhìn thấy mấy cái bàn khá lớn có thể ngủ được tôi quay qua nói với hai vợ chồng chủ quán xin tá túc tại đây đêm nay Bên ngoài trời đang đổ mưa, những giọt nước rơi lộp độp rớt trên mái tôn cùng tiếng lá cây khua xào xạc…Tôi ngồi bên chiếc đèn dầu lù mù để cạnh chiếc bàn con gần đấy lui cui cởi đôi giày bốt, xong leo lên nằm trên chiếc bàn gỗ thông vừa đủ dài để khỏi thò bàn chân ra ngoài. Trên chiếc bàn kế bên Thành “râu” đang nằm ngửa, gối đầu trên chiếc áo jacket, tay vắt lên trán nhìn vào khoảng không trên trần nhà phì phà điếu thuốc lá…
Về khuya cái lạnh miền Cao Nguyên càng thấm thía. Không mền không gối co ro trên chiếc bàn trơ trụi, trên người đắp tấm bản đồ hành quân bằng nylon mỏng manh, tôi trằn trọc trong giấc ngủ chập chờn mong sao cho trời mau sáng. Bên ngoài tiếng côn trùng, tiếng dế kêu rả rích hòa lẫn với tiếng mưa rơi… Đêm đã trôi qua thật chậm, trời bắt đầu tờ mờ sáng, xa xa văng vẳng tiếng gà rừng gáy, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Bảy phi hành đoàn của biệt đội Thần Tượng đã trải qua một đêm bất ngờ giữa chốn rừng sâu heo hút, khỉ ho cò gáy, không hề biết rằng lẩn quất đâu đây hai Sư Đoàn của Bắc Việt đang âm thầm hoạt động chuẩn bị một cuộc tấn công dứt điểm vào thị trấn Ban Mê Thuột trong vài tháng tới.
Phi Vụ Tái Chiếm Ban Mê Thuột
Ba ngày sau khi Bắc quân mở cuộc công kích, Bộ tư lệnh Quân Đoàn II bắt đầu điều động quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Một cầu không vận vĩ đại được thiết lập, với sự tham dự hơn trăm chiếc trực thăng cũng như Chinook của các Phi Đoàn thuộc Vùng I và Vùng II/CT di chuyển cấp thời hai Trung Đoàn 44 và 45 của Sư Đoàn 23 đóng ở Hàm Rồng về giải cứu Ban Mê Thuột. Địa điểm đầu cầu làm bàn đạp sẽ là quận Phước An hướng đông bắc 12 km, trên Quốc Lộ 21. Hầu hết binh sĩ Sư Đoàn 23 BB đều nóng lòng trở về vì nhiều gia đình của những người lính đã định cư tại thành phố này trong thời gian theo chân binh sĩ hành quân.
Thiếu Tá Lê Hữu Đức, Phi Đoàn phó của Phi Đoàn Thần Tượng, dẫn đầu hợp đoàn hơn mười chiếc chở quân và hai trực thăng võ trang Mãnh Hổ. Bãi đáp được chọn ở phía đông phi trường Phụng Dực khoảng một cây số. Chuyến đổ quân đầu tiên đã không gặp một sự phản kháng nào của địch quân. Ngồi trên ghế bay của chiếc trực thăng võ trang Hổ một, tôi bay theo đuôi hợp đoàn bay trở về Hàm Rồng, gần Pleiku để bốc thêm quân. Bên ghế trái Thiếu Úy Thạch cầm cần lái, sau khoang tàu, hai người xạ thủ đang lúi húi kiểm soát mấy cái “feeder” (bộ phận nạp đạn) của hai khẩu mini- gun. Đang hút thuốc, nhìn trời nhìn đất, bất chợt trên dàn đồng hồ phi cụ chiếc đèn warning màu đỏ nhỏ như hộp quẹt diêm bật sáng, báo hiệu cho biết tàu có thể có mạt sắt vụn trong máy. Phản ứng tự nhiên tôi nhìn xuống vùng đất đang ở dưới bụng con tàu quan sát địa thế, tìm vùng đất trống nếu con tàu cần đáp khẩn cấp.
Sau đó tôi bắt đầu kiểm soát lại tất cả các đồng hồ phi cụ. Mọi hoạt động vẫn bình thường, động cơ vẫn nổ đều đặn. Tôi quay qua nói với người hoa tiêu phụ:
- Có thể đèn bị chạm điện, chờ chút coi sao.
Nói xong tôi vói tay gõ gõ vào mặt đèn. Đèn vẫn cháy sáng. Khi máy (transmission) có một sự trục trặc hay ma sát bất thường nào đó thì nó sẽ tạo ra những mạt sắt vụn trong buồng nhớt máy. Nam châm trong hệ thống censor sẽ hít vụn sắt và nối dòng điện làm đỏ đèn báo hiệu. Trong trường hợp trầm trọng, tình trạng này có thể làm chậm vòng quay cánh quạt và làm con tàu sẽ bị mất cao độ đột ngột. Cách đây vài năm, chiếc tàu của Phi Đoàn Lạc Long, 229 đã gặp một trường hợp tương tự. Trên đường về Pleiku từ Phù Cát, một người bạn cùng khóa tôi, Trung Úy Đảm đã coi thường “warning light” này, tiếp tục bay về phi trường Cù Hanh cách đó chừng vài chục phút. Cánh quạt đột nhiên mất vòng quay, chiếc trực thăng rơi xuống đất như hòn đá cuội, nổ tung, tất cả phi hành đoàn đều tử nạn.
- Charlie… , đây Mãnh Hổ gọi.
- Nghe…, đây Charlie…, nói đi…
- Báo cáo “chip detector warning light” của Hổ một vừa cháy.
- Đèn gì cháy, lập lại Hổ một …
- “Engine chip detector” tàu tôi cháy…
- OK, nghe rõ…Hổ bay theo hợp đoàn về Pleiku check tàu lại.
- Không được đâu, xa quá… Tôi muốn đáp phi trường Khánh Dương gần đây để check tàu và đổ xăng luôn. Nếu tình trạng OK, tôi sẽ liên lạc với Charlie và lên đón khi hợp đoàn trở lại.
- OK…, nhớ mở máy liên lạc nghe Hổ.
Nghe xong chỉ thị, tôi cho tàu bay về hướng đông. Khoảng hơn mươi phút sau hai chiếc trực thăng võ trang đáp xuống phi trường Khánh Dương. Thị xã nằm cách Ban Mê Thuột khoảng 80 km về hướng đông, sát bên QL- 21. Tại đây có chừng năm bảy trăm nóc gia và năm sáu ngàn dân, hỗn hợp bởi nhiều sắc dân thiểu số cùng với những gia đình của quân nhân theo bước chân quân hành rồi ở lại lập nghiệp sinh sống.
Phi trường Khánh Dương là một giải đất dài vừa đủ để cho những loại phi cơ nhẹ như L- 19 hay Caribou đáp. Theo sự suy tính của tôi, phải khoảng hơn tiếng đồng hồ nữa hợp đoàn mới trở lại LZ (landing zone). Tôi sẽ có rất nhiều thì giờ để kiểm soát tình trạng tàu và đổ xăng trong khi chờ đợi. Đã giữa trưa. Tôi tắt máy tàu, bảo Thạch chờ chừng mươi phút rồi quay máy, “check” đèn xong sẽ đổ xăng. Bước xuống đất tôi đi đến bên chiếc gun số hai, Trung Úy Thành “râu” đang đứng “tưới nước” sau đuôi tàu.
- Ê Thành…, kiếm gì ăn chớ?
- Tao có “cơm tay cầm” đây, mày ăn không?
- Thôi cám ơn…mình còn nhiều thì giờ lắm. Chợ bên kia đường, qua làm tô phở đi.
Tôi và Thành đi theo con đường đất đỏ chừng vài trăm mét tới xóm nhà lúp xúp sát bên con Quốc Lộ. Gần đấy là một ngôi chợ gồm năm bảy sạp gỗ bán thịt rừng, rau trái…kế bên là một quán ăn nhỏ, hai đứa bước vào kéo ghế ngồi. Nói là tiệm ăn nhưng thật ra chỉ là một căn nhà gỗ nhỏ lợp mái tôn nóng hừng hực. Căn phòng nhỏ vừa đủ để kê hai cái bàn và khoảng chục cái ghế nhựa rẻ tiền. Ở xứ xa xôi hẻo lánh này kiếm được tô phở ăn là quý lắm rồi, tôi không có quyền đòi hỏi gì hơn. Kêu hai tô phở và hai ly trà đá cùng mấy bịch cà phê cho phi hành đoàn xong tôi quay qua nói với Thành:
- Lần này chắc đụng lớn rồi, tao không ngờ tụi nó “dớt” Ban Mê Thuột dễ dàng quá.
- Tao cũng không ngờ…, mùa hè đỏ lửa tụi nó đánh cả mấy tháng mà chẳng làm gì được…, tao không hiểu tại sao kỳ này lại xảy ra nhanh như vậy. Thôi tụi mình như thiên lôi chỉ đâu đánh đó, kệ mẹ đi…
Vừa nói Thành vừa đưa tay vuốt hàng râu mép. Ở Phi Đoàn 215, hoa tiêu trực thăng võ trang chỉ vỏn vẹn hơn mười người, chia làm hai toán thay đổi nhau bay, mỗi phi vụ có bốn hoa tiêu cho hai chiếc tàu, cho nên có những hoa tiêu hầu như thường xuyên bay chung với nhau. Do đó, Thành “râu” thường bay chung với tôi như hình với bóng. Thành là một trong những phi công đẹp trai của Phi Đoàn, cao ráo, khuôn mặt có nét tây phương, lúc nào cũng sạch sẽ tươm tất. Ngay cả dây đeo súng anh cũng đặc biệt, khẩu rouleau mới toanh bên con dao rừng to bản, cán nạm sừng trâu, bao da nâu chạm trổ tinh vi. Ngược lại với dáng dấp ăn chơi, anh là một người chồng mẫu mực, và có thể nói anh một người “nội trợ đảm đang”. Thời gian đi biệt phái Thành luôn luôn trang bị trong túi xách đầy đủ gạo, mắm, muối, tiêu, ớt…, cà phê, sữa đặc, nồi niêu son chảo…cọng thêm đồ ăn hộp C- ration của Phi Đoàn phân phát.
Thành là “master” của “survival”. Không bao giờ phải lo đói. Buổi trưa trong lần đi biệt phái Phan rang, mọi người ra phố ăn cơm, anh ở lại biệt đội, đem giây điện của mìn claymore câu điện xuống ao cá gần đầu phi đạo. Những con cá chép bị điện giật nổi lềnh bềnh được biến thành nồi canh chua hay cá kho tộ ngon lành. Thỉnh thoảng trong vài phi vụ anh đem về những rau cỏ hay măng rừng hái từ các buôn Thượng, hay bắn vài ba con gà rừng, con vịt trời nấu những món ăn đặc sắc. Tôi thường tìm đến Thành trong những lúc cháy túi vì những canh xập xám tại biệt đội. Một ly cà phê, một điếu thuốc hay một bữa cơm dã chiến cũng là một điều đáng kể trong giờ phút đó. Hình như cuộc sống gần gũi của đời phi công trực thăng đã làm cho tình người, tình động đội càng ngày càng gắn bó, thương yêu nhau hơn.
Có những sự kiện rất nhỏ đã xảy ra trong đời bay bổng mà tôi vẫn trân quý, không bao giờ quên được. Nhớ lại thời gian mặt trận Gia Nghĩa sôi động, biệt đội 215 được lệnh tăng phái cho tiểu khu Quảng Đức. Căn phòng của biệt đội cư ngụ nằm trong một barrack chơ vơ trên đỉnh đồi cao đất đỏ trơ trụi, rộng đủ chỗ chứa vài chục ghế bố vải cho phi hành đoàn. Ban đêm vào mùa đông gió lạnh lùa về từ vùng biên giới Hạ Lào thổi qua ngọn đồi, rít lên những âm thanh ma quái. Anh em thường gọi ngọn đồi này là ” Đỉnh Gió Hú”. Đêm đầu tiên tại biệt đội, sau khi cơm nước xong xuôi, mọi người bắt đầu leo lên dãy giường bố sắp hai hàng ngang như trong bệnh xá, còn anh bạn Thành “râu” của tôi loay hoay lục trong túi “hồ lô” biệt phái móc ra một cái lò dã chiến, bỏ mấy cục than đen vào rồi lúi húi châm lửa mồi. Chẳng biết anh ta đang làm trò gì, tôi hỏi:
- Thành! Mày đốt lò than làm gì vậy?
- Để dưới gường sưởi cho ấm mày à…
Vừa nghe xong tôi thấy thật buồn cười, liền chọc quê anh ta:
- Trời, , mày làm như đàn bà đẻ vậy. Đẻ được mấy ngày rồi, trai hay gái?”
Mấy thằng bạn đang nằm trong mùng trên mấy chiếc gường bố kế bên nghe nói cười hô hố.
Anh ta tỉnh bơ trả lời:
- Ừa…, kệ tao. Trai hay gái …để khuya rồi tụi mày sẽ biết.
Đúng như lời Thành nói, tới nửa khuya gió lạnh từ miền Hạ Lào kéo đến, ào ào rít qua khe cửa. Gió luồn dưới ghế bố, nằm trên gường mà tưởng như nằm trên tảng nước đá, co rút trong cái chăn vải hoa Dù không ngủ được. Kế bên, Thành “râu” đang ngáy phì phò, ngay dưới ghế bố anh ta kê lò than riu riu cháy. Không chịu nổi cái lạnh thấu xương đang thấm vào người, tôi ngồi dậy rón rén vén mùng vói tay kéo cái lò than đem về để dưới ghế bố mình. Trong chốc lát, hơi nóng từ lò than tỏa rộng dưới mặt gường bố, một cảm giác ấm áp nhẹ nhàng ôm lấy cơ thể, tôi cuộn tròn trong chăn đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Đang ngủ say sưa, giọng la to của Thành râu trong đêm khuya thanh vắng làm tôi giật mình thức giấc, hé mắt nhìn.
- Đ.M…, thằng nào lấy lò than của tao!
Trong bóng đêm Thành lồm cồm chui ra khỏi mùng, ngồi dậy lôi cái lò than trở lại để dưới gầm gường bố của mình rồi lầm bầm:
- Mày hả…, mẹ…, thôi đủ rồi nghe…
Tôi nằm yên không nhúc nhích, miệng thở đều đặn như một người vô can.
- Coi chừng đến giờ phải đi rồi đó.
Câu nói của Thành làm tôi chợt tỉnh, đưa tay lên xem đồng hồ, đã đến giờ đi.
Tôi đứng dậy trả tiền, lấy mấy bịch cà phê đá, xong chui ra khỏi quán trở về tàu. Tại bãi đậu, hai chiếc trực thăng đã quay máy, cánh quạt thổi đất đỏ tung bụi mịt mù. Thạch ngồi trên tàu, ra dấu thúc dục. Leo lên ghế bay, tròng chiếc áo giáp nặng chịch lên người, tôi la lớn trong tiếng máy ầm ĩ:
- Tình trạng tàu ra sao rồi, đèn còn đỏ không?
- Chắc OK… không thấy đèn nổi lên nữa, có lẽ bị chạm điện thôi à. Cách đây năm phút Thiếu Tá Đức kêu mình lên đón hợp đoàn, tôi trả lời đang “check” tàu chưa xong.
Nói xong Thạch nhìn tôi nháy mắt. Tôi gật đầu hiểu ý, trao bịch cà phê sữa đá cho Thạch, xong vội vã kéo tàu rời bãi.
Lên cao độ gió mát lồng lộng vào khoang tàu cửa mở toang, tô phở tái nạm gầu đã làm cho tôi tỉnh táo hẳn người.
- Charlie đây Hổ.
- Charlie nghe. Tình trạng tàu sao rồi?
- Đèn tắt rồi, chắc không sao. Tôi vừa cất cánh từ Khánh Dương, mười phút nữa sẽ đến đón hợp đoàn vào.
- Không kịp đâu, hợp đoàn còn năm phút nữa đáp…Hiện có gunships của 219 đang ở trong vùng cover cho hợp đoàn của họ, có gì tôi sẽ nhờ họ, bạn cứ tới, kịp thì vào vùng không kịp thì theo hợp đoàn về sau khi thả quân xong, nghe rõ trả lời?
Trong lòng hơi áy náy vì đã đến trễ, tôi chắc lưỡi trao cần lái cho Thạch ra dấu bay về hướng hợp đoàn, xong tôi ngồi dựa ngửa vào lưng ghế, móc điếu thuốc ra hút, đồng thời lắng nghe theo dõi cuộc đổ quân của hợp đoàn qua tần số radio UHF.
Tần số im lặng. Có lẽ giai đoạn này hợp đoàn đang chuẩn bị đáp. Bỗng tiếng Thiếu Tá Đức vang lên từ chiếc C@C:
- Hợp đoàn đáp hướng Tây như cũ cất cánh quẹo phải về luôn.
Đột nhiên tôi nghe có tiếng la chói lọi:
- Ground fire…ground fire…
- Charlie!…Charlie!…Gunship bị bắn cháy…Charlie!..
Vừa nghe xong tôi giật mình ngồi nhỏm dậy, búng vội điếu thuốc lá đang cháy dở qua khung cửa, chụp lấy cần lái…
- Hợp đoàn break..break…., ground fire…
- Break phải…, break phải…
Âm thanh xè xè…xạch xạch… do những điện đàm bị cắt đứt đoạn trên tần số nhiễu loạn…
- Gun một của Long Mã trúng đạn…, hỏa tiễn…
- Coi chừng hướng Nam…, hướng Nam bãi đáp …coi chừng…
Những tiếng la trên tần số, hỗn độn, không biết xuất xứ từ chiếc nào.
- Break phải…break phải , về hướng Bắc nghe rõ…hợp đoàn nghe không? Lần này tiếng nói của Thiếu Tá Đức vang lên xen lẫn trong những tiếng nói của những chiếc tàu khác…
Tôi chúi mũi, cắm đầu lao hết tốc lực về hướng bãi đáp.
- Hổ hai…, có “monitor” tần số không? Gunship của Long Mã dính hỏa tiễn phòng không mày nghe chưa?
- Có…đang theo dõi trên tần số đây…chắc tiêu rồi….
- Charlie… Hổ gọi…Hổ đang trên đường đến LZ… Charlie…
Không nghe C@C trả lời. Tôi nhìn xa về hướng thành phố Ban Mê Thuột, những cột khói đen bốc lên cao nhiều nơi, dấu hiệu của những cuộc giao tranh vẫn đang còn tiếp diễn đâu đó. Trên bầu trời mây xám, những chấm đen nối đuôi nhau của những chiếc trực thăng vừa rời bãi đáp. Tôi bẻ lái con tàu bay theo hợp đoàn.
- Charlie đây Mãnh Hổ gọi…, hợp đoàn ai nghe Mãnh Hổ không trả lời.
- Hổ, đây lead…Chiếc dẫn đầu trả lời.
- Hổ một đây….chiếc nào bị bắn vậy? Tôi hỏi chiếc lead.
- Chiếc gun của Long Mã bị trúng SA- 7. Tàu nổ cháy khi “escort ” hợp đoàn đáp.
Nghe chiếc lead nói xong tôi xây xẩm mặt mày:
- Charlie.., Charlie…, Hổ gọi…, có phải gun một của 219 “down” hay không?
- Đúng năm…, Hổ theo hợp đoàn về Pleiku, đừng vào vùng nữa. Charlie trả lời.
Điếu thuốc trên hai ngón tay tôi run rẩy, tôi rít một hơi dài để trấn an cơn cảm xúc mạnh đang bùng vỡ trong cơ thể, bàng hoàng, rung động như thấy mình vừa bị trái hỏa tiễn phòng không SA- 7 bắn hụt. Chiếc đèn “chip detector” cháy trước đây một tiếng đồng hồ báo hiệu con tàu đang ở trong tình trang nguy hiểm hay là báo hiệu cho tôi biết lưỡi hái Tử Thần đang chờ đợi để cho tôi tránh né?
Tuần lễ vừa qua, ngày biệt phái Ban Mê Thuột dời lại, tôi không phải đối diện cuộc tấn công vào phi trường L- 19 của đặc công Việt Cộng, và đây là lần thứ hai vì lý do kỹ thuật, tôi lại một lần nữa tránh được trái hỏa tiễn tầm nhiệt SA- 7 đáng lẽ phải dành cho tôi thay vì phi hành đoàn gunship của Long Mã. Một câu nói bất hủ của một triết gia sau đây đã thường làm cho tôi suy ngẫm về cuộc sống quá nguy hiểm mà tôi phải trực diện hằng ngày: ” Nếu tên anh đã được khắc vào môt viên đạn nào đó thì không sớm hay muộn viên đạn đó sẽ tìm đến anh”. Hay nói một cách khác, nếu số anh phải chết thì anh không sẽ bao giờ tránh được lưỡi hái của Tử Thần.
Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, khi cuộc không vận đang tiến hành việc chuyển quân của hai Trung Đoàn 44 và 45 về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng các sĩ quan tham mưu cao cấp và Bộ tư lệnh chiến trường Quân khu 2 đã mở một cuộc họp khẩn cấp để đối phó với tình hình chiến trường khẩn trương đang diễn ra. Tại buổi họp này, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã được chỉ thị của Tổng Thống Thiệu triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân Khu II về miền duyên hải. Cuộc chuyển quân về giải cứu Ban Mê Thuột coi như hủy bỏ. Đây là một quyết định quan trọng đã mở đầu cho cuộc triệt thoái hỗn loạn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, và đã làm thương vong cho mấy trăm ngàn binh sĩ cũng như thường dân vô tội.
Phòng Tuyến Nhảy Dù tại Khánh Dương Tan Vỡ
Hơn tuần lễ từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, Cộng quân đã gia tăng áp lực nặng về phía tây của Khánh Dương. Theo tin tức tình báo Sư Đoàn 968 và hai Trung Đoàn 320 của Cộng Sản Bắc việt đang trên đường di chuyển trên QL- 21 về hướng đông.
Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được chỉ thị tăng viện cho mặt trận Quân Khu II. Sau hai ngày dài lênh đênh trên mặt biển, ba Tiểu Ðoàn cơ hữu 2, 5, 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu Ðoàn Pháo Binh 105 ly và Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù đã cập bến Cầu Đá, Nha Trang. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tức thì nhận được lệnh từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II, di chuyển bằng đường bộ lên vùng lập tuyến phòng thủ rải dài từ chân đèo Phượng Hoàng chạy dài gần 30 cây số tới phía Tây của Khánh Dương dọc theo Quốc Lộ 21, con đường nối liền hai thành phố Ban Mê Thuột và Nha Trang. Đây là con đường Cộng Sản Bắc Việt phải đi qua trước khi tiến chiếm miền duyên hải. Tại phía nam Khánh Dương sát cạnh QL do Tiểu Đoàn 5 ND trấn thủ; Tiểu Đoàn 6 ND đóng tại cao điểm tại Buôn Ea Thi về phía đông. Và tại chân đèo Phượng Hoàng được Tiểu Đoàn 2 ND trấn ngự. Bộ chỉ huy Lữ Đoàn Dù đóng tại căn cứ Dục Mỹ.
Trong những ngày đầu, lực lượng Dù đã bắt đầu gặp áp lực của Sư Đoàn F10 của Cộng quân. Ngày 22 tháng 3/1975 Cộng quân đã mở một trận đánh đầu tiên vào quân bạn phía tây Khánh Dương, gần 100 xác địch đã bỏ lại trận địa, tuy nhiên bộ chỉ huy Nhảy Dù biết trước đây chỉ là trận đánh dò dẫm, thử sức kháng cự của phe ta. Sáng ngày kế tiếp, lực lượng địch bắt đầu dốc hết toàn lực mở cuộc tấn công vào phòng tuyến phía tây Khánh Dương do các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân trấn thủ, bắt đầu bằng một trận mưa pháo kinh hồn, tiếp theo là làn sóng biển người ào ạt xung phong với sự yểm trợ của nhiều xe tăng T- 54. Các đơn vị Bộ Binh đã bị tan rã hoặc phân tán từng mảnh nhỏ, rút lui về phòng trú của Tiểu Đoàn 5 Dù tại Khánh Dương và sau đó triệt thoái về Diên Khánh, gần Nha Trang.
Sáng ngày hôm sau, thừa thắng xông lên, Cộng quân tiếp tục tấn công vào quận Khánh Dương bằng hàng trăm trái đạn pháo 122 ly, cùng mười mấy chiếc xe tăng tiến vào chi khu thị xã. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã chống cự mãnh liệt và đẩy lui nhiều đợt tấn công ào ạt của Bắc quân, gây nhiều tổn thương cho địch. Tuy nhiên lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch, nếu so sánh về quân số, vũ khí cũng như chiến cụ, địch đã ở thế thượng phong ngay từ lúc đầu. Mãnh hổ nan địch quần hồ. Tình hình càng ngày càng nguy ngập. Nhiều phi tuần phản lực của các Phi Đoàn 534 Kim Ngưu, 548 Ó Đen xuất phát từ căn cứ Không Đoàn 92 Chiến Thuật, Phan Rang do Đại Tá Lê Văn Thảo giữ chức chỉ huy trưởng đã liên tục yểm trợ mặt trận này và đã làm chậm bước tiến của Bắc quân phần nào. Tuy nhiên không như mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa, chiến trường thiếu sự yểm trợ của Không lực Hoa Kỳ. Vắng bóng những chiếc pháo đài bay B- 52 trên bầu trời, Cộng quân không còn lo sợ những trận mưa bom kinh thiên động địa giáng xuống đầu bất thần, thêm vào đó, sự hiện diện của nhiều hỏa tiễn tầm nhiệt SA- 7 của địch quân đã làm trở ngại lớn cho những cuộc chuyển quân bằng trực thăng cũng như những phi vụ yểm trợ của khu trục cơ, cán cân quân sự đã nghiêng rõ về phía Bắc quân.
Ngày 28 và 29/3/75, hai Tiểu Đoàn 5,6 của Dù hứng trọn hàng ngàn trái đại pháo 130 ly cũng như hỏa tiễn 122 ly, sau đó với tất cả các lực lượng của các Sư Đoàn Bắc quân gia tăng áp lực áp đảo phòng tuyến của Dù với quân số đông gấp mười lần, con đê quan trọng ngăn chặng đường tiến quân của địch trên đà tan vỡ. Trong tình trạng nguy kịch này, phi đội trực thăng võ trang của Phi Đoàn Thần Tượng được lệnh tăng phái cho mặt trận Khánh Dương yểm trợ cho lực lượng Dù đang trên đà bị tràn ngập bởi làn sóng biển người. Mấy ngày nay bầu trời xám xịt, trần mây thấp đã làm trở ngại rất nhiều cho những phi vụ yểm trợ của Không Quân. Hôm nay hai chiếc trực thăng võ trang của Thần Tượng trên đường đến mặt trận đang sôi động tại Khánh Dương. Ngồi trên ghế bay, tôi cho con tàu bay sát dọc theo thung lũng giữa hai sườn núi của rặng Trường Sơn cao chót vót, theo sau một khoảng khá xa, chiếc trực thăng võ trang số hai bay ở cao độ thấp hơn, cánh quạt quay chấp chóa. Dưới thấp, đèo Phượng Hoàng uốn lượn quanh co dọc theo triền núi. Đây là cửa ngõ độc nhất nối liền tỉnh Đắk Lăk với Khánh Hòa và cũng là hành lang quen thuộc của tất cả phi hành đoàn Thần Tượng. Vào những tháng mùa mưa, mây mù bất chợt, hành lang này trở thành một tử lộ cho những chiếc trực thăng mạo hiểm bay vào vùng. Gần năm năm trước, hợp đoàn Thần Tượng trên đường về Nha Trang từ mặt trận Quảng Đức, tranh thủ với màn đêm kéo nhau qua hẻm núi mù sương này, chiếc dẫn đầu do Đại Úy Nguyễn Thiện Tích cầm lái bị mây mù vây phủ đâm sầm vào triền núi nổ bùng như một quả bom lửa. Hình ảnh kinh hoàng đó đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng của một hoa tiêu vừa mới chập chững vào nghề như tôi, cho dù đã bao năm qua, hình ảnh thảm khốc của một buổi chiều mây mù ảm đạm vẫn luôn trở lại trong tâm trí tôi mỗi khi bay qua con đường đèo này.
Hai chiếc trực thăng võ trang ra khỏi chân đèo Phượng Hoàng, tôi quẹo con tàu về hướng tây, bay dọc theo con Quốc Lộ 21. Từ xa tôi đã nhận ra chiếc trực thăng của Thần Tượng đang ở trên vùng, chở bộ chỉ huy Dù điều động mặt trận đang tiếp diễn mấy ngày hôm nay.
- Charlie đây Mãnh Hổ gọi…, Hổ đã tới vùng…cao độ năm ngàn bộ, phía đông Khánh Dương khoảng hai dặm.
- OK…, Charlie thấy Hổ rồi. Tôi đang ở trên đầu quân bạn. Hiện địch đang tấn công bằng hỏa tiễn từ triền núi phía nam khoảng cây số. Hổ nhìn kỹ về phía nam Quốc Lộ dọc theo triền núi sẽ thấy mấy cột khói trắng. Đó là vị trí xuất phát của hỏa tiễn pháo vào đơn vị bạn…Hổ tác xạ vào đó, nghe rõ?
Tiếng Thiếu Tá Lê Hữu Đức, Phi Đoàn phó Phi Đoàn 215 bay chiếc C@C ngày hôm nay. Thiếu Tá Đức là một người hoa tiêu vui vẻ, cao ráo, có khuôn mặt chữ điền. Trong thời gian Thiếu Tá Đức giữ chức vụ Trưởng Phòng hành quân, tôi vẫn nhớ mãi một mẫu chuyện vui về vị niên trưởng khả ái này. Trong một buổi họp Phi Đoàn, Thiếu Tá Đức đứng lên tường trình về cuộc hành quân trong ngày. Sau khi chấm dứt, Thiếu Tá Đức có một vài lời với những hoa tiêu trong Phi Đoàn:
- Gần đây tôi đã nghe báo cáo có một số anh em đã dùng những phi vụ liên lạc để đi săn bắn. Xin báo cho anh em biết thời gian sắp đến tôi sẽ thường xuyên đi kiểm soát những tàu đi bay về. Nếu có bằng chứng về chuyện làm ăn của các anh, tôi sẽ có biện pháp mạnh, khi đó các anh đừng trách tôi là đã không nói trước. Thiếu Tá Đức nói tiếp:
- Chiều hôm qua, tôi xuống bãi đậu Phi Đoàn check một chiếc tàu vừa đi Bảo Lộc về, xin tạm dấu tên phi hành đoàn, tôi tìm thấy trên sàn tàu đầy dấu vết làm ăn của các anh.
Một cánh tay “rụt rè” đưa lên:
- Thiếu Tá muốn nói “dấu vết” là có nghĩa như thế nào?
- Đó bằng cớ để lại của những chuyện làm ăn của các anh trong khi thi hành phi vụ. Mặc dù các anh đã chùi rửa tàu nhưng tôi đã cho kỹ thuật gỡ mấy miếng sắt trên sàn tàu, máu me lông lá của nai hay heo rừng vẫn còn đọng đầy phía dưới.
Trong bầu không khí nghiêm trang của phòng họp, một tiếng nói phát xuất từ những hàng ghế phía sau, tuy không lớn nhưng đủ để cho mọi người nghe rõ ràng:
- ”Thầy”!… Đúng là trong “nghề”.
Vừa nghe xong cả phòng họp rộ lên cười, quay lại nhìn phía sau. Ở hàng nghế sau cùng Trung Úy Tôn Thất Kim, biệt danh là Kim “nhi đồng”, đang ‘biểu diễn” một bộ mặt ngơ ngáo như không biết chuyện gì đang xảy ra.
Vừa đến vùng tôi nghe tiếng Thiếu Tá Đức nhắc nhở:
- Mãnh Hổ…lúc nào sẵn sàng thì vào đánh, đừng xuống thấp quá, quân bạn ghi nhận địch có trang bị SA- 7, hai bạn cẩn thận.
- Nghe năm…, Charlie…Hổ đang quan sát mục tiêu.
Ở cao độ khoảng năm ngàn bộ tôi chăm chú nhìn tất cả địa thế phía dưới, mặt trận đang bùng nổ ác liệt, những căn nhà nằm sát QL- 21 bốc lửa, từng cột khói đen vươn lên cao trên bầu trời xám xịt. Trên con đường nằm rải rác vài con cua sắt T- 54 của địch đã bị mấy phi tuần A- 37 “rang muối” cháy đen thui. Phía bắc con đường là một vùng đồi núi thấp, những khoảng ruộng nối tiếp nhau kế những suối cạn quanh co. Phía nam, rặng núi cong cong hình lưỡi liềm, cao khoảng ba ngàn bộ, đưa lưng sát con đường, là nơi Tiểu Đoàn 5 Dù đang trấn ngữ.
Kiểm soát dàn phi cụ lần cuối tôi bắt đầu cho chiếc gun vào vùng oanh kích. Hai chiếc trực thăng võ trang cắm đầu vào triền núi, những trái hỏa tiễn nổ bung lên những cụm khói trắng xám trên mặt rừng xanh thẫm. Từ trên cao độ, tất cả như yên ngủ, không một tiếng súng ngoài tiếng rống nhức nhối của những khẩu mini- gun sáu nòng đang quay vù. Sau vài vòng tác xạ, hai chiếc trực thăng đã cạn đạn dược.
- Mãnh Hổ đây Charlie, hai bạn về Nha Trang đi, tôi thả Bộ Chỉ Huy Dù xuống Dục Mỹ sẽ về sau.
Tôi bẻ lái con tàu trở về hướng biển. Trên bầu trời cao tiếng xé gió của hai chiếc oanh tạc cơ A- 37 nối đuôi nhau vút ngang trên đầu, trên cánh sắt treo đầy những trái bom nặng chĩu. Trong khoảng khắc hai con chim sắt biến mất hút về hướng thành phố Ban Mê Thuột đang mịt mù khói lửa.
“Ta là đàn chim bay trên mấy xanh, khi nhìn qua khói những kinh thành tan… Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh…”
Bài ca hùng tráng Không Quân hành khúc mơ hồ văng vẵng đâu đây… Tôi chợt chạnh lòng nhớ đến người em gái mà tôi đã quen tại thành phố đất đỏ thủa nào, không biết giờ đây em đã trôi lạc về nơi đâu? Tên nàng là Nguyệt. Nàng có làn da thật trắng, mịn màng trên khuôn mặt trái xoan thật đẹp. Hằng đêm tôi thường đến Hội quán Biên Thùy nơi nàng làm việc để giải trí vui chơi cho quên đi những nhọc nhằn đã qua, và tìm thêm sức lực để tiếp tục những ngày dong duỗi, ngược xuôi trên những mặt trận nóng bỏng. Một kỷ niệm khó quên mà mỗi lần nghĩ đến, tôi vẫn còn cảm thấy hồi hộp vì hành động liều lĩnh nếu không nói là ngông cuồng của tuổi trẻ, và có thể nói dù xấu hay tốt nó cũng là những nét chấm phá trong cuộc đời vẫy vùng thỏa chí tang bồng hồ thỉ.
Buổi sáng hôm ấy tôi thức dậy sớm như thường lệ, sửa soạn trở vào biệt đội. Nguyệt, người bạn gái tôi lục đục sửa soạn thức ăn sáng sau nhà. Đang thưởng thức ly cà phê nóng, tôi nghe tiếng Nguyệt vọng lên từ bếp:
- Anh chờ tí nghe..em làm đồ ăn sắp xong rồi…
Tôi mỉm cười, cảm thấy vui trong lòng vì biết mình đã được may mắn và sung sướng hơn những người bạn tại biệt đội, có được một người bạn gái dễ thương và một tổ ấm nho nhỏ để trở về sau những phi vụ căng thăng mệt mỏi trên chiến trường.
Nguyệt trong bếp bước ra để dĩa trứng gà ốp la và khúc bánh mì lên bàn:
- Xong rồi đây, anh ăn lót lòng rồi đi. Nguyệt nói tiếp:
- Này anh…chút nữa em theo anh đi chơi nghe.
Vừa đưa ly cà phê lên miệng nghe Nguyệt nói tôi bỏ vội xuống bàn, nhìn nàng:
- Nè, em nói chơi hay thiệt đó. Em có biết anh bay trực thăng võ trang không? Anh chỉ chở súng đạn chứ không chở người đâu.
- Anh cứ nói, cho em đi một lần cho biết nha…anh hứa hoài à. Chịu chưa, em đi thay đồ…
Nói xong, nàng bước đến gần tôi, tay vỗ ngang hông tôi như thúc dục. Chiếc vòng ngọc xanh biếc đeo trên cổ tay nàng vô ý đập vào bá súng “rouleaux” tôi đang đeo ngang hông, vỡ toang rơi xuống sàn gạch bông. Không ngờ chuyện xui xẻo xảy ra quá đột ngột, Nguyệt đứng sững nhìn xuống, hai miếng ngọc nằm lăn lóc trên sàn gạch bông. Nguyệt cau mặt, thoáng nét thất vọng:
- Tại anh đó…
- Anh làm gì mà tại anh.- Để an ủi Nguyệt tôi nói tiếp. – Thôi đừng tiếc nữa, để coi…, anh mua cái khác đền cho. Cái vòng này có đắt tiền lắm không?
- Khỏi đi anh, cho em đi bay với anh thì anh khỏi đền, chịu không? Em đi thay đồ nghe…
Phân vân suy nghĩ tôi chưa biết quyết định thế nào, thật khó nghĩ. Ngày hôm nay làm việc cho Trung Đoàn 45 tại Đức Lập, nếu tôi cho Nguyệt đi theo thì tôi phải thả nàng xuống đó trước khi đi đổ quân. Không muốn nàng buồn, nhất là sau chiếc vòng ngọc yêu quý đã bị bể, tôi đành liều.
- OK..thay đồ nhanh lên, anh phải đi gấp, trể rồi.
- Anh ăn vài miếng đi, chờ em thay đồ. Nói xong nàng chạy biến vào phòng ngủ.
Hoa, người bạn gái ở chung nhà với nàng đang lục đục trong phòng tắm, nghe nói thò đầu ra:
- Cho em đi với Nguyệt cho có bạn nhe anh.
Có chở một hay hai người đi theo cũng giống nhau thôi. Tôi trả lời:
- Em nữa, thôi được, thay đồ mau lên nghe, gần đến giờ rồi …
Tại phi trường L- 19 một quang cảnh khác thường xảy ra, hàng chục toán lính trang bị súng ống đầy đủ đang ngồi trên bãi cỏ kế bên những chiếc trực thăng đậu hàng dọc, kế đó những sĩ quan bộ binh trên tay cầm bản đồ lăng xăng chạy lui tới. Ở đằng xa, Trung Tá Phi Đoàn trưởng Thần Tượng Khưu Văn Phát bay chiếc C@C, đang đứng nói chuyện với một cấp tá Bộ Binh. Tôi nhủ thầm, hy vọng hợp đoàn sẽ ghé Trung Đoàn 45 tại Đức Lập tôi sẽ có cơ hội thả hai người bạn gái xuống.
Chiếc xe Jeep chở tôi và hai cô bạn gái ngừng ngay hai chiếc trực thăng võ trang đang đậu dọc phi trường. Nhảy xuống xe tôi vẫy tay gọi người xạ thủ đang check tàu gần đấy:
- Kiệt…, có gì lạ không bạn? Bữa nay tàu mình có khách đi theo chơi nghe. Nhờ bạn kiếm giùm hai thùng đạn để cho hai cô ngồi.
Kiệt nghe nói xong gật đầu, miệng cười tủm tỉm tôi chẳng hiểu lý do gì.
Cho Nguyệt và Hoa leo lên tàu. Những người lính ngồi trên bãi cỏ kế bên đang đợi lên tàu đi hành quân, trố mắt nhìn về phía chiếc tàu trực thăng võ trang, tò mò, bàn tán trước một cảnh tượng lạ lùng.
Tất cả tám chiếc trực thăng quay máy cùng lượt, tiếng động ầm ĩ vang động khắp phi trường. Chiếc Charlie của Trung Tá Phát rời mặt đất theo sau năm chiếc chở đầy quân. Tôi cho con tàu ra phi đạo, cắm đầu chổng mông lướt nhanh trên mặt đất, chạy dài tới cuối sân bay, tôi kéo nhanh cần lái con tàu vươn mình lướt qua bìa rừng cây cao su. Thành phố Ban Mê Thuột đang còn ngái ngủ trong sương mai, con tàu lên cao thành phố nhỏ dần… Gió lồng lộng thổi vào khoang tàu kêu phần phật, hòa lẫn với âm thanh của tiếng động cơ và tiếng cánh quạt gió. Lên cao độ, hai bên tàu cửa mở toang phơi bày khoảng không gian mênh mông trên vùng rừng núi trùng điệp. Tôi quay người ra sau, Nguyệt ngồi trên thùng đạn miniguns sau lưng ghế bay người hoa tiêu phụ, tóc nàng xỏa bay lòa xòa trên trán. Tôi vói tay nắm lấy tay Nguyệt bóp nhẹ như để trấn an nàng. Hai người mê vô và xạ thủ ngồi sau khoang tàu tò mò nhìn, nhếch mép cười.
Hơn hai mươi phút bay hợp đoàn đã đến địa phận Đức Lập.
- Khoảng năm phút nữa sẽ đến bãi đáp. Mãnh Hổ theo Charlie vào “clear” bãi đáp. Tôi sẽ thả trái khói.
Đột ngột nghe tiếng nói của Trung Tá Phát trên tần số, tôi toát mồ hôi hột. Như vậy là chương trình thả hai người bạn gái xuống Trung Đoàn 45 đã bị “trật đường rầy”.
Hợp đoàn đang hạ cao độ chuẩn bị đáp. Đằng trước, không xa, một trảng cỏ xanh lá mạ vây bọc xung quanh rừng cây cao, một làn khói vàng đang vươn lên. Không còn có sự chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục thi hành phi vụ, tôi cố quên đàng sau khoang tàu có hai cô gái đang ngồi. Tôi cho hai chiếc gun kẹp sát hai bên hông hợp đoàn, bắt đầu cuộc oanh kích yểm trợ.
Xoẹt…Xoẹt…Những trái hỏa tiễn bất thần rời dàn phóng, rít lên những âm thanh chói tai, tiếng súng mini- gun sáu nòng quay vù rống lên nghe đinh tai nhức óc, vỏ đạn rơi rào rào trên mặt sàn, mùi thuốc súng khét lẹt quyện lẫn trong không khí… Hai cô gái không hiểu chuyện gì đang xảy ra, hoảng sợ, hai tay bịt tai, mắt nhắm nghiền co rúm người run rẩy trên hai thùng đạn…Chiếc trực thăng quay trở ngược lại, thân tàu nặng nề rung bần bật, vũ trụ quay cuồng điên đảo. Vài phút kinh hoàng trôi qua, cuộc oanh kích yểm trợ hợp đoàn chấm dứt, những chiếc tàu thả quân đã làm xong nhiệm vụ rời bãi đáp. Cuộc đổ quân trôi chảy êm đẹp, không một bóng dáng cũng như một tiếng súng nào của địch được phát hiện.
- Hợp đoàn về đáp Đức Lập, Charlie về sau.
Nghe chỉ thị của Trung Tá Phát tôi mừng thầm trong bụng, chuyển hướng lấy hết tốc độ về phía Đức lập. Chừng mười phút bay sau, hai chiếc gunships đáp xuống bãi đất đỏ trong vòng đai phòng thủ Trung Đoàn 45. Vừa tắt máy, tôi cởi vội dây seatbelt nhảy xuống đất, trên sàn tàu Nguyệt và Hoa ngồi yên không nhúc nhích, mặt mày tơi tả, tóc tai rối bời.
- Xuống đi mấy cô…vào đây nghỉ ngơi tí xong ăn cơm trưa.
Tôi đứng dưới đất đưa tay đỡ Nguyệt xuống tàu, bụng nghĩ thầm hai cô bạn không ói mữa là hay lắm rồi.
Từ chiếc trực thăng Hổ hai đậu cách đó không xa, Thành “râu” bước tới, nhe nụ cười bất hủ dưới bộ râu đậm, lắc đầu:
- Tao hết ý kiến với mày. Nếu mày bị bắn trên vùng thì hết đỡ.
Tôi phân trần:
- Ê, Thành, đây là ngoài ý muốn của tao…, tao tính là sẽ thả mấy cô này xuống đây trước đâu có ngờ bị bay thẳng ra vùng luôn.
Nói xong tôi quay qua nhìn Nguyệt:
- Em thấy chưa, tại em đòi đi nên anh phải chìu, không ai chở người yêu đi hành quân như anh đâu, có chuyện gì là anh lãnh búa, anh Thành mới “chửi” anh em thấy không? Thôi nói vậy chứ không sao đâu em, lâu lâu xui xẻo lắm mới đụng trận em à… Bây giờ hai em bớt mệt chưa? Mình ở đây chờ, nếu có bốc quân thì em ở tại đây, chiều anh sẽ chở em về.
Hình như trong lòng hơi phấn khởi và nhất là có hai người đẹp đi kế bên, tôi hứng chí nói tiếp:
- Kể ra cũng nên để mấy em đi bay với anh một lần cho biết mặt thật cuộc đời của những người pilot như tụi anh, sống chết như thế nào ngoài mặt trận. Tụi em ở thành phố không biết gì cứ nghĩ mấy ông Không Quân chỉ biết ăn chơi bay bướm…
Bốn đứa chúng tôi bước đi theo con đường đất, hướng về căn lều của bộ chỉ huy. Ngang qua một khẩu đội pháo 105 ly đang khai hỏa, nổ đùng đùng. Hai cô bạn hoảng sợ, ôm chầm lấy tôi, mấy anh pháo thủ đang chuyền nhau trên tay những quả đạn, há hốc mồm nhìn, không biết đã bao lâu rồi họ mới thấy lại bóng hồng xuất hiện trên vùng đất địa đầu giới tuyến này.
Bước tới căn lều bộ chỉ huy, gặp Trung Tá Quang đang đứng với một viên Trung sĩ:
- Chào Trung Tá…Bữa nay tôi đưa mấy em gái hậu phương lên thăm Trung Tá nhân dịp cho mấy em “ủy lạo” anh em chiến sĩ luôn. Nói xong tôi nở nụ cười cầu tài.
- Chào mấy em, vừa đổ quân xong hả. Ngồi nghỉ đi…., nước uống cho khỏe, chút ăn cơm với Trung Tá luôn. Tôi hơi ngạc nhiên khi Trung Tá Quang không hề quan tâm tới hai cô gái cùng bước vào lều với tôi.
Tiếng trực thăng phành phạch bên ngoài, bụi đỏ tung mù mịt, chiếc Charlie của Trung Tá Phát, Phi Đoàn trưởng Thần Tượng vừa mới đáp xuống gần đây. Tôi ghé tai nói nhỏ với Trung Tá Quang:
- Chút nữa Trung Tá Phát vào đây nếu có hỏi hai em này ở đâu thì nhờ Trung Tá nói là người quen của Trung Tá lên đây, và bây giờ muốn theo trực thăng về Ban Mê Thuột nghe.
Trung Tá Quang nổi tiếng là chịu chơi, không một chút thắc mắc, trả lời liền:
- Chuyện nhỏ không sao đâu, để Trung Tá lo…, nhưng mấy em lần sau ghé đây phải đem một con nai tặng Trung Tá như kỳ trước, nghe chưa?
Dòng tư tưởng miên man đến đây, tôi bỗng bật cười lớn, Thạch đang cầm cần lái ngạc nhiên quay đầu nhìn tôi hỏi:
- Có gì vui mà cười vậy?
- Không có gì, chỉ nhớ tới chuyện xưa lúc chở người bạn gái đi bay gunship mà cười thôi. Nguyệt đó, Thạch biết mà, không biết bây giờ em đang ở đâu, tội nghiệp quá.
Thạch nghe xong không nói gì, nét mặt có vẻ đăm chiêu, rồi đột ngột hỏi tôi:
- Không biết tụi mình còn lên làm việc vùng này nữa không, tôi thấy tình thế có vẻ nặng nề quá. Vợ tôi đang ở Nha Trang một mình tôi đang lo đây.
Nghe Thạch nói xong tôi chợt liên tưởng đến gia đình cha mẹ anh em tôi cũng đang còn ở Nha Trang. Sau bao năm trên chiến trường lửa đạn, những chiến công thu lượm trên mặt trận đều vô nghĩa khi đối diện với thực trạng ngày hôm nay, những chiến thắng của quân ta trong năm tháng trước hình như không còn ảnh hưởng đến cuộc chiến hiện tại, ngọn gió đã đổi chiều. Một cảm giác chán nản đang xâm chiếm tâm hồn, bất giác tôi lắc đầu, trước mặt những làn khói thuốc đang tan loãng vào hư vô. Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng quân sau mấy ngày giao tranh ngắn ngủi, Pleiku “phố núi cao” đã bỏ ngõ cho địch, trên liên tỉnh lộ 7B, nối liền Pleiku và Tuy Hòa, một cuộc rút quân hỗn loạn, vô tổ chức đang diễn ra. Hằng trăm ngàn dân vô tội cùng cả trăm ngàn binh sĩ đang xô đẩy, chen lấn cố chạy về Tuy Hòa, đằng sau Bắc quân bám sát. Phòng tuyến quan trọng cuối cùng tại ngọn đèo Khánh Dương này hình như không đủ sức để ngăn chận làn sóng Đỏ đang lan tràn, con đường vào vùng đồng bằng duyên hải, cửa ngõ tiến thẳng vào miền Nam đã mở rộng…
Hai chiếc trực thăng võ trang Thần Tượng trên đường trở về căn cứ, từ cao độ thành phố Nha Trang hiện rõ dần, im lìm sưởi nắng bên bờ biển cát trắng, những ngọn sóng bạc đầu nô đùa rượt đuổi nhau trên mặt biển xanh, vô tri vô giác…
Vĩnh Hiếu
https://hon-viet.co.uk/VinhHieu_NgayTanCuocChien1.htm - Ngày 11 tháng 3 năm 1975
Ngày Tàn Cuộc Chiến - II - Tuy Hoà Và Con Lộ Máu
-
Ngày Tàn Cuộc Chiến - II -
Tuy Hoà Và Con Lộ Máu
________________________
Riêng tặng cho cố Trung Tá Khưu Văn Phát, nguyên Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 215, Thần Tượng, người đã đề nghị và khuyến khích tôi viết bài Tuy Hòa và Con Lộ Máu khi anh đang còn hiện hữu trong cuộc đời nầy.
Một nén hương thắp đến cho vong hồn anh được an vui nơi vùng trời miên viễn.
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215, Thần Tượng
Phần Mở Đầu:
Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 14 tháng 3 năm 1975, trong cuộc họp khẩn cấp của các tướng lãnh cao cấp và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Cam Ranh đã đưa đến quyết định triệt thoái tất cả chủ lực quân của Quân Đoàn II và tất cả chiến xa, pháo binh cũng như máy bay ra khỏi Pleiku và Kontum. Lệnh triệt thoái được giữ kín trong vòng bí mật giữa những cấp chỉ huy Quân Đoàn, để tránh sự hoang mang cho tầng lớp hành chánh cũng như dân chúng địa phương. Phần còn lại của các lực lượng Địa Phương Quân và các cơ sở hành chánh vẫn tiếp tục làm việc với cấp tỉnh trưởng cũng như các cấp quận trưởng, như không có gì thay đổi (!).
Con đường cho cuộc triệt thoái lịch sử này đã được chọn là con đường hoang phế Liên Tỉnh Lộ 7B.
Từ Pleiku theo con Quốc Lộ 14 về hướng Ban Mê Thuột khoảng bốn mươi cây số sẽ gặp đầu mối đường Liên Tỉnh Lộ 7B. Ngã ba đường này thường được gọi là “chĩa ba” Mỹ Thạnh. Từ đây, con lộ 7B dài hơn hai trăm cây số xuyên qua vùng rừng núi hiểm trở, đi ngang qua thị xã Phú Bổn (Cheo Reo) và huyện Phú Túc trước khi đến Tuy Hòa. Con đường đất này uốn lượn theo những ngọn đồi cao, đôi khi ôm dài theo mé bờ sông hay băng ngang những con suối cạn; có những đoạn, đường đã bị sụp lở vì bị mưa xoi mòn hay cây cối chắn ngang lối đi. Ba chiếc cầu chính trên con lộ này là Phú Thiện (50m), Lê Bạc (600m) và Cà Lúi (40m), lâu ngày không sửa chữa tu bổ, hư hao, gãy đổ…và đây là con đường cho hàng trăm ngàn người và gần bốn ngàn chiếc xe đủ loại, đủ cỡ, ngay cả cho những chiếc chiến xa M- 48 nặng gần năm chục tấn đi ngang qua.
Đêm 16 tháng 3/ 75 tất cả lực lượng của Quân Đoàn II hơn cả trăm ngàn quân nhân đủ mọi thành phần cùng hàng ngàn quân xa và chiến xa hạng nặng được lệnh di chuyển. Cuộc triệt thoái âm thầm bất ngờ được êm xuôi trong đêm đầu tiên cho đến sáng hôm sau. Khi tin đồn về cuộc lui quân tới tai quần chúng địa phương, dân chúng hoang mang, hốt hoảng tột cùng, cả thành phố vội vã ùa chạy theo đuôi đoàn quân với bất cứ phương tiện di chuyển nào sẵn có trong tay. Một cuộc triệt thoái hỗn loạn bắt đầu…
Nguyên tắc căn bản của một cuộc lui quân, phần đoạn hậu tối thiểu phải có một lực lượng đủ khả năng chặn đường truy kích hoặc làm chậm bước tiến của địch quân nếu bị truy đuổi, để bảo vệ cho sự an toàn của đoàn quân. Mỉa mai thay, phần đuôi của đoàn quân này là hàng trăm ngàn người dân vô tội, tất tả bám theo mang trên tay chỉ là những gói áo quần hay những đồ cần thiết tối thiểu.
Con đường lộ hiểm trở, đổ nát này đã thành một con lộ kinh hoàng, một dòng sông của xác người và máu. Những cái chết kiệt lực vì đói, khát, thời tiết ngày nóng đêm lạnh, của những trận mưa pháo, địch quân ngày đêm rót vào đoàn người không ngưng nghỉ.
Một ký giả lão thành, Nguyễn Tú đã viết lại:
Thật thương tâm khi phải mục kích cảnh người dân không có khả năng di tản bằng xe hơi, xe vận tải, hay bất kỳ phương tiện chuyên chở nào có được. Họ thật cơ cực, phải di tản bằng đôi chân, và họ chiếm đa số, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người lớn tuổi, đi tất tả như chạy, không được dù chỉ một giọt nước để làm dịu cơn khát như cháy cổ. … Không thể nào đếm được bao nhiêu trẻ em đã ngã xuống trên đường đi, bao nhiêu cụ già bơ vơ phải đứng lại dọc đường, không còn cất bước đi được nữa, và còn bao nhiêu người khác phải chịu đựng đói khát trên suốt chặng đường tìm đến Tự do và Dân chủ. Một sĩ quan biệt động bảo tôi: “Lần này, tôi không thể nào còn nhìn thẳng vào mặt đồng bào mình lần nữa.” Một anh binh nhì nói: “Thật khốn kiếp, chúng ta rút lui không hề kháng cự. Tôi thà chiến đấu, rồi chạy trốn nếu thua và tôi chấp nhận như vậy.” Một Đại Úy Không Quân than: “Thật thảm thương, nhất là khi nhìn lại Pleiku, giờ chỉ còn là một thành phố bỏ hoang. Chỉ còn thấy lửa cháy khắp nơi. Tôi buồn quá. “ Tôi ngạc nhiên quá. Hãy nhìn những con người này, những trẻ em này. Thật khốn khổ, đáng thương quá!”, một người lính khác nói thêm. …
Dưới ngòi bút của nhà văn Phan Nhật Nam đã mô tả:
Cuộc di tản lớn quá, mối đau thương dài đặt trên hai trăm cây số đường núi với hai trăm ngàn người dân thường đi từ Kontum, Pleiku… Trời Cao Nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt người, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi, lo âu, tuyệt vọng, lính gục ngã trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ trên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời? Còn biết kêu vào đâu? Với ai?
Nhà văn Phạm Huấn đã viết:
Liên Tỉnh Lộ 7 Pleiku- Phú Bổn- Phú Yên con đường máu dài 300 cây số đã là nơi chôn vùi hàng ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô tội. Thật kinh hoàng, khủng khiếp. Biển người và biển máu.
Và sau cùng một nhân chứng trong đoàn người khốn cùng đó đã viết về những chiến sĩ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa:
10 phi tuần phản lực A 37 đánh bom CBU và Napalm yểm trợ cho đoàn quân triệt thoái ngày 24- 3- 1975 sau đó đã được thực hiện đúng như Đại Tá Thảo, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Không Quân Phan Rang “hứa” với Tướng Phú. Những phi công anh hùng đã khắc phục, chế ngự mọi hiểm nguy, mọi trở ngại kỹ thuật, thời tiết và sự an toàn cho chính bản thân mình; để cứu đồng bào và các chiến hữu anh em. Những phi công cảm tử anh hùng của QLVNCH đã bay xuất trận hôm ấy trong tinh thần của những hiệp sĩ. Trên vùng trời Phú Yên lúc 17 giờ ngày 24- 3- 1975, khi những cánh đại bàng xuất hiện “họ” thật sự là những cứu tinh, là những người đã mang theo sự sống cho Đoàn người, Đoàn quân phía dưới. Như hàng trăm ngàn đồng bào và các chiến hữu khác có mặt hôm đó tại Liên Tỉnh Lộ 7, tôi muốn được bày tỏ sự kính phục đặc biệt và ca ngợi những phi công anh hùng này.
Những điều đã được mô tả chỉ là một giọt nước mắt trong đại dương thống khổ của tất cả những ai đã đi trên con lộ này. Hàng vạn người dân vô tội đã bỏ mạng cũng như hằng vạn những chiến sĩ đã gục ngã dưới lằn đạn địch quân mà chưa hề có cơ hội để chống trả. Tất cả đó là hậu quả của một quyết định vội vã, sai lầm của cấp lãnh đạo.
Súng Đạn và Bánh Mì
Tám giờ sáng, tại Không Đoàn 62 Chiến Thuật những chiếc máy bay đủ loại bận rộn chuẩn bị rời phi trường. Vừa cất cánh chiếc trực thăng võ trang ra khỏi phi đạo, tôi cho con tàu giữ ở cao độ thấp bay dọc theo ven biển Nha Trang hướng về phía bắc, trực chỉ thành phố Tuy Hòa. Sáng hôm nay nắng đẹp, những giải mây như lụa trắng nhẹ nhàng treo lơ lững trên bầu trời trong xanh. Trên mặt biển mênh mông lấp lánh như một tấm gương bạc khổng lồ, những chiếc thuyền đánh cá cỏn con nuối đuôi nhấp nhô hướng về phía chân trời. Ngoài khơi lác đác vài hòn đảo một màu xanh thẩm đang im lìm tắm nắng mai.
Ngồi trên chiếc ghế bay từ căn phòng lái tôi lặng yên thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời của miền duyên hải, chiêm ngưỡng một không gian diễm lệ trữ tình của quê hương. Trong tiếng nổ đều đặn của động cơ cùng tiếng chém gió của cánh quạt quen thuộc từ khoảng không gian nhỏ bé này, tôi cảm thấy mình như là một cánh chim tự do đang xỏa cánh bay lượn trên vòm trời thân yêu. Cho dù mỗi ngày phải đương đầu với hiểm nghèo, với cái sống chết, với phong sương gian khổ tôi thấy mình vẫn còn được may mắn và hạnh phúc hơn nhiều người trai cùng thế hệ. Nhưng từ khi Ban Mê Thuột đột nhiên rơi vào tay địch quân, tâm tư tôi bắt đầu lo ngại và hoài nghi về cuộc chiến, viễn ảnh chiến thắng quân thù mỗi lúc một xa vời. Thời thế đã đổi thay quá nhanh, tôi vẫn chưa chấp nhận được tình huống của thực tại, những tư tưởng bi quan, yếm thế thường lẩn quẩn trong đầu óc tôi. Rít dài hơi thuốc phà vào khoảng không gian trước mặt, tôi trầm ngâm, suy tư…
- Chút nữa mình đáp Tuy Hòa hay bay thẳng ra vùng luôn vậy?
Trong intercom đột nhiên câu hỏi của Thiếu Úy Nguyễn Đức Liên đưa tôi trở lại với hiện tại. Tôi quay qua nhìn người bạn đồng nghiệp, rồi trả lời:
- Chắc mình ghé phi trường Đồng Tác đổ thêm xăng và liên lạc với Bộ binh xem thử có phi vụ nào không, sau đó mình sẽ bay tới vùng thả bánh mì cho đồng bào sau cũng được.
Từ khi tuyến phòng thủ của Liên Đoàn 3 Dù tại Khánh Dương trên Quốc Lộ 21 nối liền Ban Mê Thuột và Nha Trang bị Bắc Quân áp đảo lung lay, Phi Đoàn Thần Tượng đã được lệnh thay đổi vùng hành quân, chuyển hướng qua yểm trợ cho cuộc rút quân của Quân Đoàn II tại Pleiku về Tuy Hòa. Hằng ngày nhiều phi vụ đơn độc của Phi Đoàn 215 được biệt phái ra vùng đồng bằng Phú Yên hổ trợ cho đoàn người di tản trên con lộ 7B. Ngoài mục đích tiếp tế, rải thức ăn của tiểu khu Tuy Hòa cho đồng bào, mục đích chính yếu của những chiếc trực thăng là bốc tất cả những ai có thể chở được từ con lộ 7B đem về tập trung tại vài trung tâm tiếp cư như phi trường Đồng Tác, một phi trường khổng lồ của Mỹ đã bỏ lại, nằm phía nam Tuy Hòa chừng năm bảy cây số.
Trong thời gian rối loạn này với những biến cố dồn dập, những phi vụ ít được kiểm soát, công việc của những hoa tiêu được đặt nặng trên tinh thần tự giác và trách nhiệm của mỗi người. Như ngày hôm nay, tôi được chỉ thị ra vùng hành quân trên chiếc trực thăng võ trang, không có chiếc C@C (Command and Control) đi dẩn đầu để tiếp xúc với Bộ binh, không có chiếc Hổ hai (chiếc võ trang số hai) theo sát cánh như bao ngày qua. Một mình một ngựa lên vùng, tùy cơ ứng biến. Gunship bay vào vùng hành quân đơn độc là trái với chiến thuật và nguyên tắc căn bản của trực thăng võ trang. Nhưng đây là lệnh của cấp trên, tôi không có sự chọn lựa nào hơn là cố chu toàn nhiệm vụ được giao phó.
Tôi tiếp tục cho con tàu bay thật thấp trên đầu con Quốc Lộ 1. Gió biển mát lạnh lộng vào khung cửa mở toang, phía sau khoang tàu hai nguòi mê vô xạ thủ đang ngồi bên nhau trên chiếc ghế sát cửa, nhìn xuống con đường trải nhựa đen chạy viền theo bờ biển cát trắng. Những ghềnh đá nằm sát bên đường, sóng vỗ tung lên trắng xóa. Vài chiếc xe hàng, trên nóc chất đầy hành lý, chạy ngược chiều, những cánh tay vẫy chào khi chiếc trực thăng bay ngang. Một vài chiếc xe hai bánh đang phóng nhanh trên đường, trên xe mang nặng những bao bị, vội vã rời xa vùng lửa đạn hướng về nơi an toàn. Sau sàn tàu, những bao vải lớn nằm chất đống chứa đầy bánh mì tôi đã mua đem theo, kế bên, ông anh rể tôi tháp tùng theo từ sáng sớm đang thích thú quan sát cảnh vật chạy lùi phía dưới bụng chiếc trực thăng.
Hôm qua khi cả nhà đang quây quần trong bữa cơm chiều, sau một vài câu chuyện qua lại trong ngày, bỗng Me tôi chợt nhìn tôi rồi hỏi:
- Này con…, Me thấy hình như con có điều gì không vui phải không? Con đang có vấn đề gì không?
Tôi ngập ngừng chưa trả lời, nhưng vì không muốn để cho bà lo lắng tôi nói:
- Dạ…, đâu có vấn đề gì, con chỉ hơi mệt vì bay hơi nhiều…, thêm vào đó…ngày hôm nay con đã gặp nhiều đồng bào mình chạy loạn, đói khát khổ sở, thấy tội nghiệp cho họ quá.
Ông anh rể tôi đang ngồi ăn kế bên với bà chị ruột của tôi, nghe câu chuyện xen vào hỏi:
- Nè…, mấy hôm nay tôi đọc báo thấy tin về vụ rút quân trên Pleiku về Tuy Hòa, có phải em bay trên vùng đó không?
Tôi gật đầu:
- Đúng rồi…, hằng trăm ngàn người bỏ chạy, thiếu thốn cực khổ…, không có ai giúp đỡ gì cả. Tụi Việt Cộng pháo kích và bắn loạn xạ vào dân lành không phân biệt già trẻ, đàn bà con nít. Chết nhiều lắm.
Tôi nói tiếp:
- Hồi trưa nay tôi có gặp một nhóm người nhỏ chạy vào trong rừng trốn đạn rồi bị lạc luôn, tôi đáp tàu xuống bốc tất cả về Tuy Hòa. Nguyên phi hành đoàn lấy bánh mì ăn trưa của mình cho họ ăn, làm cả ngày tụi này đói meo.
Nghe nói tới đây, Me tôi chắc lưỡi, lắc đầu:
- Tội nghiệp quá…, vậy mình có thể làm gì được để giúp họ không con?
- Dạ…, con đã có ý định mai mua bánh mì đem theo thả cho họ đó. Con biết đó chỉ như là muối bỏ biển thôi, nhưng có lẽ mình giúp được người nào hay người nấy. Vả lại con nghĩ một ổ bánh mì cũng có thể làm cho một người bớt đói một ngày để họ có sức tiếp tục đi tới nơi.
Tôi nói tiếp:
- Nhưng chỉ có một mình con nên hơi khó khăn vì không biết làm sao chở được nhiều bánh mì vào Phi Đoàn được?
Nghe tôi nói xong, mọi người im lặng. Tôi chợt nhìn ông anh rể rồi đột ngột nói:
- Này…, anh Lộc…, ngày mai đi bay với tôi không?
Bất ngờ bị hỏi, anh rể tôi lúng túng nhìn qua bà chị tôi đang chăm chú theo dõi câu chuyện.
- Tôi à…, tôi đi theo để làm gì hả?
- Anh đi theo tôi ngày mai để phụ tôi mua và chở bánh mì đem vô phi trường thôi, rồi anh có thể về nhà sau đó hay là đi bay với tôi luôn thì tùy anh.
Nghe tôi nói xong, anh Lộc ngập ngừng rồi xoay qua nhìn vợ nói:
- Sao em…, em nghĩ sao? Có để cho anh đi theo giúp hay không?
Bà chị tôi nuốt xong miếng cơm trong miệng, lúng búng trả lời:
- Này…, đi bay có nguy hiểm không vậy? Chứ giúp đồng bào mình trong lúc này thì là chuyện nên làm, anh muốn thì cứ đi, tùy ý anh thôi.
Được sự đồng ý của bà chị tôi, anh rể tôi quyết định:
- Được, mai anh sẽ đi giúp em.
Me tôi nghe tới đó chen vào:
- Còn vấn đề tiền bạc, con có nhiều tiền đâu mà mua, để Me đưa phụ cho con mua bánh mì thêm. Con cần bao nhiêu cứ nói.
Nghe tới đây miếng cơm trong miệng tôi chưa kịp nuốt, bỗng dưng bị nghẹn lại, tôi không ngờ Me tôi dám để đứa con rể cưng độc nhất cũng như chị tôi dám để cho người chồng mới cưới, một ông thầy giáo mạo hiểm ra một mặt trận nóng bỏng như thế này.
- Anh chắc chưa?… Suy nghĩ cho kỹ đó, sáng mai tôi sẽ đánh thức anh dậy, tối nay đi ngủ sớm đi nghe.
Tôi nhắc lại cho ông anh rể trước khi đứng dậy rút lui về phòng mình. Sáng hôm sau thức dậy sớm hơn mọi khi, trời còn tờ mờ tối tôi gõ cửa phòng ông anh rể. Anh đã dậy từ lúc nào, áo quần sẵn sàng đang ngồi uống trà nóng chờ tôi. Tôi đưa cho anh chiếc áo bay của tôi bảo anh mặc để vào cổng phi trường khỏi bị hỏi giấy.
Hai anh em đèo bồng nhau trên chiếc xe Honda 90 già nua của tôi chạy ra lò bánh mì ở chợ. Khả năng xe chỉ chở được bốn bao bố bột mì nhét đầy những ổ bánh mới ra lò. Tôi cột từng cặp hai bao lại với nhau, đeo hai bên xe rồi chạy thẳng vào Phi Đoàn. Xe phóng ngang cổng Long Vân, mấy anh Quân Cảnh quen đưa tay chào rồi chỉ vào mấy bao bánh mì, có lẽ tò mò về những cái túi vải lớn treo hai bên chiếc xe.
Vào tới Phi Đoàn, tôi dựng xe trước cửa bảo ông anh rể đứng chờ, xong hấp tấp chạy ngay vào phòng Phi Đoàn trưởng. Trước cửa Phi Đoàn một đám hoa tiêu nai nịt gọn gàng tay xách túi nón bay, đang đứng nói chuyện hút thuốc lá chờ xe chở ra bãi đi bay, tò mò nhìn tôi đưa tay chào. Bước vào phòng Phi Đoàn trưởng, tôi gặp ngay Trung Tá Khưu Văn Phát đang ngồi sau bàn giấy.
- Chào Trung Tá, hôm nay tôi đi bay phi vụ ở Tuy Hòa, nhân tiện chở theo một số bánh mì thả giúp đồng bào, xin hỏi ý kiến Trung Tá trước.
Trung Tá Phát mở mắt lớn nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, ngần ngừ một lúc rồi nói:
- À…, chuyện đó cũng tốt thôi…, nhưng anh bay gunship nặng đi thả bánh mình thì nên cẩn thận.
- Không sao đâu Trung Tá đừng lo. Tôi chêm vào
- Tôi chỉ nhắc cho anh biết thôi, tốt nhất là sau khi bắn đạn dược hết rồi thì làm gì cũng an toàn hơn. Hôm qua Phi Đoàn mình có một chiếc đáp chở đồng bào bị “over run” nặng quá cất cánh không nổi bị “crash” anh có biết không? Thôi…, tôi nói vậy anh nên cẩn thận.
Tôi nghe xong, đưa tay chào rồi vội vã trở lui. Vừa ra khỏi phòng gặp ngay Thiếu Tá Phi Đoàn phó Sơn Thái Huyền đang bước vào. Vị Thiếu Tá này là một huyền thoại trong Phi Đoàn 215, gốc người Miên, da ngăm đen và nhỏ con. Nghe anh em nói rằng Thiếu Tá Huyền rất tin tưởng vào bùa ngải, thần chú. Có một lần đi bay với Trung Úy Tôn Thất Kim trên một mặt trận lớn đang bùng nổ, bị phòng không bắn như pháo bông xung quanh tàu. Trung Úy Kim ngồi trên ghế bay mặt xanh như tàu lá chuối, rút người trong chiếc áo giáp mang trước ngực liếc mắt nhìn qua ghế bên cạnh, Thiếu Tá Huyền đang cầm cần lái, tỉnh bơ không hề có một phản ứng, nhưng miệng thì đọc to những câu thần chú khó hiểu. Lạ lùng thay, không biết vì sự mầu nhiệm huyền bí của những lời thần chú đó hay là vì số mạng lớn của phi hành đoàn, hôm đó tàu không hề bị một miểng đạn nào cả.
Chạy ra tới chiếc xe Honda, ông anh rể đang đứng chờ bên bốn bao bánh mì, tôi vội nói:
- Tôi nghĩ mình nên gửi bánh mì tại đây, rồi chạy ra lò bánh làm một chuyến nữa còn kịp giờ, tàu còn trống lắm.
Một khoảng thời gian sau, chiếc trực thăng võ trang đơn thương độc mã cất cánh rời thành phố Nha Trang hướng về Tuy Hòa chở đầy súng đạn hỏa tiễn và những bao bánh mì nóng hổi.
Sau hơn hai mươi phút bay dọc trên Quốc Lộ I, con tàu vừa tới trên đầu một vườn dừa xanh tươi bao la nằm kế bên bãi biển Đại Lãnh hình vòng cung cát trắng phau. Trước mặt không xa là đèo Cả cao ngất, tôi kéo con tàu vươn lên cao, mặt đất rời xa, con đường lộ và vườn dừa xanh nhỏ dần. Trước mặt tôi, dãy núi Đại Lãnh chạy dài ra ngoài biển theo hình dáng một cái móc câu bao bọc một vùng nước xanh, tạo thành một vùng vịnh lý tưởng, đó là vịnh Vũng Rô. Tại đây, Cộng Sản Bắc Việt lợi dụng địa thế kín đáo này đã dùng làm địa điểm tiếp nhận vũ khí của những tàu từ ngoài bắc vào. Ngày 16 tháng 2 năm 1965, Không Quân Việt Nam do hai phi công “Phượng Hoàng Kim Cương” và Trung Úy Chánh bay hai chiếc A- 1 đã đánh đắm một chiếc tàu của địch đang bỏ neo tại đây chứa đầy vũ khí đạn dược.
Chiếc trực thăng bắt đầu vào vùng vịnh Vũng Rô. Con tàu đột nhiên chao đảo, rung chuyển, nhồi lên rớt xuống như chiếc ghe con bồng bềnh trên giòng nước lũ. Đằng sau khoang tàu ông anh rể tôi ngồi trên thùng đạn, mặt mày hốt hoảng nhợt nhạt, tôi ghì cần lái cố giữ cho con tàu bớt rung. Chiếc trực thăng đang đi vào một vùng “nổi tiếng” về không khí nhiễu loạn (turbulence), nhiều phi hành đoàn thường tránh bay qua vùng này, nhất là trực thăng bay ở cao độ thấp.
Cách đây mấy năm, Thiếu Úy Sơn, với cái tên Sơn “phu gạo” vì một thân thể “vai u thịt bắp” của anh, là một hoa tiêu trong phi đội trực thăng võ trang của tôi, trên đường từ Phù Cát về Nha Trang, phòng Hành Quân Chiến Cuộc đã được báo cáo vị trí của Sơn đang ở trên Vũng Rô và từ đó phi hành đoàn cùng chiếc trực thăng biệt vô âm tín. Suốt một tuần lễ sau, mỗi ngày Phi Đoàn đều cử một phi vụ đặc biệt đến vùng này tìm chiếc tàu mất tích, nhưng không ai hề thấy một dấu vết nào của chiếc trực thăng này. Riêng tôi còn nhớ, trong phi vụ đi tìm chiếc tàu của Sơn “phu gạo”, tôi suy luận rằng nếu chiếc trực thăng bị rơi xuống biển thì một vài ngày sau xác của phi hành đoàn sẽ nổi lên và trôi dạt vào bãi cát hay một ghềnh đá nào đó. Sau hơn một tiếng đồng hồ bay ở cao độ để mắt tìm kiếm sục sạo dọc theo bờ biển hay mõm đá, bỗng trước mũi tàu dưới thấp, xuất hiện hai vật màu đen nho nhỏ nằm kế bên nhau nổi bật trên bãi cát vàng sát mé nước, hình thù như hai xác người bị cháy đen trôi dạt lên bờ.
Vừa mừng vừa hồi hộp, tôi chỉ cho người hoa tiêu phụ và hai anh mê vô xạ thủ xem. Tất cả chồm lên phía trước chăm chú nhìn, trong lòng phấn khởi hy vọng đã tìm được xác phi hành đoàn. Tôi hạ cao độ, khi con tàu chỉ còn chừng một vài trăm bộ trên mặt biển, trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, hai “xác chết” cháy đen bỗng dưng di động về mé biển rồi biến mất dạng dưới làn nước trong. Tò mò tôi cho chiếc trực thăng xuống thấp, bay vòng nhìn xuống mặt nước. Qua làn nước trong vắt hai “chú” kỳ đà khổng lồ đen đủi như hai con cá sấu lớn đang nằm sát bên nhau dưới đáy cát, im ru bất động. Vừa ngạc nhiên lẫn thất vọng, tôi kéo con tàu lên cao, khi vừa đủ năm bảy trăm bộ, đột ngột tôi quay đầu trở lại mở nút rockets “on” rồi chúi mũi “dộng” hai trái hỏa tiễn xuống ngay chỗ hai con kỳ đà “vô tội” sát mé biển. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng nổ tung, hai cột nước trắng xóa phụt lên cao xao động cả vùng biển đang êm ả.
Ba người trong tàu có vẻ ngạc nhiên trước hành động bất ngờ không lý do của tôi, nhưng không ai nói một câu gì, cho đến khi tôi quay đầu chuyển hướng bay thì người xạ thủ lên tiếng:
- ”Ông Thầy”…, sao mình không xuống coi thử có con nào chết không? …Tôi nghe nói mấy con kỳ đà biển này thịt ăn ngon lắm.
Trong lòng đang bực dọc, không vui và nhất là khi liên tưởng tới hình dạng xấu xí của con vật, tôi im lặng không trả lời tiếp tục bay thẳng, trong lòng phân vân tự hỏi về những hành động hung hăng hay háo sát vô lối của mình vừa qua, không biết có phải là do bản chất hay là do hậu quả của những ngày tháng vào sanh ra tử?
Con tàu đi quá Vũng Rô, tôi cho chiếc trực thăng băng qua rặng núi cao án ngữ trước mặt chia đôi hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, dưới thấp đèo Cả ngoằng ngòeo giữa vùng núi xanh. Đèo Cả không hùng vĩ như đèo Hải Vân, nhưng là một nơi có nhiều di tích lịch sử. Nhiều trận chiến giữa hai nhà Nguyễn, Tây Sơn và Nguyễn Ánh trong ba thập niên nội chiến (1771- 1802) đã xảy ra tại đây, và ngọn đèo này được coi như là “Đệ nhất Hùng Sơn”. Bên phải tôi, ngọn Núi Đá Bia sừng sững, một trong những danh lam thắng cảnh của miền Trung. Khối đá to lớn, trơ trụi cao hơn 80 mét tọa lạc ngay trên đỉnh núi cao sát phía đông ngọn đèo Cả, ở xa hàng chục cây số vẫn nhìn thấy rõ. Khối đá này người Phú Yên thường gọi là Linga, biểu tượng của thần Siva theo tín ngưỡng Chămpa (Chàm) là sinh thực khí của nam giới. Lúc xưa khi công phá Chiêm Thành, theo truyền thuyết năm 1471, Vua Lê Thánh Tông đã cho khắc chữ vào khối đá của ngọn núi này, nên được gọi là núi Đá Bia, tuy nhiên đời sau này chưa ai có được cơ may để đọc những dòng chữ đó, có lẽ thời gian đã xóa mất dấu tích.
Vượt qua đèo Cả, trước mũi tàu hiện ra một vùng đồng bằng tỉnh Phú Yên bao la bát ngát, đây là một vựa lúa lớn nhất của miền Trung phần được bồi bổ bởi nước sông Đà Rằng chảy qua trước khi ra cửa biển. Sông Đà Rằng theo tiếng Chàm có nghĩa là “con sông lau sậy”, mạch máu chính của nền kinh tế thị trấn Tuy Hòa, rất rộng lớn và có độ dốc cao nên mùa khô nước cạn trơ ra những cồn cát vàng nằm giữa lòng sông, hai bên bờ mọc đầy lau sậy. Phần thượng lưu của con sông này thường được gọi là Sông Ba.
Hướng về phi trường Đồng Tác nằm sát bờ biển, một phi trường khổng lồ của quân đội Mỹ bỏ lại, cách Tuy Hòa khoảng bảy cây số phía nam, tôi cho tàu giảm cao độ chuẩn bị đáp lấy thêm nhiên liệu. Từ trên tàu nhìn xuống phi trường một vùng đất mênh mông bỏ hoang còn lại chỉ là phi đạo chạy dài, đa số nhà cửa đã bị tháo gở hết chỉ còn chừa những nền xi măng. Cho con tàu chạy dọc theo taxiway, từ xa tôi có thể thấy hai tòa nhà hậu trạm quân đội, bên ngoài hàng ngàn người đang tụ tập gồm những những nguòi tỵ nạn hoặc những quân nhân vừa mới được trực thăng bốc về từ con lộ 7B cùng với thân nhân đến hỏi thăm hoặc chờ đợi tin tức người nhà. Đây cũng là trung tâm hoạt động của những cơ quan cứu giúp người tỵ nạn và cũng là nơi dùng cho những ban điều hành Bộ binh phối hợp với những phi vụ trực thăng của Không Quân.
Tôi cho tàu đến trạm đổ xăng dã chiến gần đó, bên những bọc cao su đen khổng lồ căng phồng đựng JP- 4 (xăng máy bay phản lực). Trong khi chờ đợi, tôi mở cửa bước xuống đất làm vài động tác cho giãn gân cốt thì một chiếc xe Jeep vừa đến đậu sát bên tôi, trên xe viên Đại Úy tay áo mang phù hiệu đầu con cọp đen của Biệt Động Quân bước xuống, tay xách một cái máy radio FM. Sau khi đưa tay chào viên Đại Úy hỏi tôi:
- Đây có phải là trực thăng võ trang của Phi Đoàn Thần Tượng biệt phái cho Tiểu Khu Tuy Hòa không? Hiện tại một đơn vị của chúng tôi trên đường lộ 7 tại Phú Túc bị một nhóm chốt của tiền sát của tụi VC pháo kích súng cối và đang cần sự yểm trợ của trực thăng võ trang. Mình có thể đi ngay bây giờ hay không?
- Đại Úy chờ đổ xăng xong rồi mình sẽ đi. Nhân tiện tôi có đem theo một số bánh mì trên tàu để giúp đồng bào trên đường chạy loạn về đây, sau khi yểm trợ xong tôi sẽ bay đi thả bánh mì xuống cho họ, nói cho Đại Úy biết trước.
Người sĩ quan này quay đầu nhìn vào khoang tàu tỏ vẻ ngạc nhiên rồi trả lời:
- Vâng, tôi sẽ phụ với phi hành đoàn làm chuyện này.
Viên Đại úy vừa nói xong thì từ xa một người đàn ông ngoại quốc cỡ trung niên trong bộ đồ kaki bốn túi vội vã chạy đến, trên người đeo mấy cái máy ảnh. Gặp tôi đứng dưới đất kế bên cửa cockpit, anh ta bắt tay tôi và tự giới thiệu bằng tiếng Anh:
- Tôi là Richard Blystone*, đặc phái viên của thông tấn xã AP (Associated Press). Tôi đang làm việc tại vùng này, nếu có thể được xin anh vui lòng cho tôi đi theo tàu, cám ơn anh rất nhiều.
Chuyện xảy ra hơi bất ngờ, tôi chưa trả lời, im lặng nhìn người đàn ông ngoại quốc này một lúc, thấy ông ta có đeo tấm thẻ ký giả trên túi áo, tôi gật đầu đồng ý xong mở cửa leo lên ghế bay.
Con tàu đã đầy xăng, tôi chuẩn bị cất cánh. Trên sàn tàu chiếc trực thăng võ trang là một hỗn hợp lạ lùng: một viên Đại Úy Biệt Động Quân, một anh ký giả ngoại quốc, một ông thầy giáo, hai anh phụ tá và một đống bánh mì chất cao ngay giữa sàn. Chiếc trực thăng chúi mũi rời mặt đất bay về hướng Tây, trước mắt con sông Đà Rằng lững lờ uốn quanh những cồn cát vàng và những bãi lau sậy.
Sau hơn hai chục phút bay, tàu đã đến khu vực huyện Phú Túc nằm kế con lộ 7B nơi đơn vị Biệt Động Quân đang đụng độ với đám tiền quân Cộng Sản. Viên Đại Úy chồm lên trên cockpit chỉ cho tôi ngọn đồi kế con sông nơi Cộng quân đặt súng pháo xuống con lộ phía dưới. Dưới chân đồi chạy dài ra là bãi cỏ lau mọc song song với bờ sông rồi đến bãi cát kế dòng nước.
Đang quan sát địa thế trước khi ước định vị trí tác xạ, bỗng tôi giật mình nghe tiếng người xạ thủ bên cánh phải la hốt hoảng trong intercom:
- Việt Cộng…, Việt Cộng…, a…ngay bờ lau…, hướng ba giờ…tụi nó đang chạy trong bụi lau.., đó..đó… Tôi nghiêng đầu nhìn xuống dưới, qua tấm thép sắt chắn đạn, sát bãi cát ba bốn bóng đen nhỏ nổi bật trong đám lau đang vạch cỏ chạy nhanh hướng về cái miễu nhỏ. Ở trên cao cái miễu trông nhỏ xíu như con tem, mái nâu đậm tường gạch vàng nhạt chỉ cách những bóng người đang chạy chừng vài chục mét. Tôi tức thời chỉ cho viên Đại Úy đang chồm sau lưng tôi. Viên Đại Úy nhìn theo qua khung cửa và trong một cử chỉ vội vã ghé tai tôi hét:
- Bắn đi…, bắn đi…, tụi nó đó…mau lên…coi chừng tụi nó chạy mất…
Vừa nghe xong câu nói, mạch đập tim tôi đột nhiên tăng vọt, tôi tức khắc vòng con tàu ra xa để lấy trục tác xạ đồng thời hạ chiếc máy nhắm hỏa tiễn đem xuống trước mặt, nheo mắt nhìn vào hồng tâm. Cái máy nhắm bị cháy bóng đèn, tắt ngúm không xử dụng được. Tôi nghiến răng bực mình chửi thầm trong bụng, đẩy nhanh cái máy vô dụng về vị trí cũ. Chợt nghĩ đến ổ bánh mì nhét dưới túi quần bay, tôi thò tay xuống mò mẫm móc ra một một mẩu ruột nhỏ vo tròn lại xong ịn vào mặt kiếng chắn gió trước mặt làm điểm chuẩn để tác xạ. Không còn thì giờ để chậm trễ tôi đẩy con tàu chúi mũi xuống mục tiêu. Mấy tên Việt Cộng chạy vào ẩn náu bên trong chiếc miễu con vẫn còn đó, tin chắc chúng chưa bị phát giác. Tôi đưa viên bánh mì nhỏ dán trên tấm kiếng vào cái miễu con đang hiện rõ dần trước mặt, khi mẩu ruột bánh mì vừa vào đúng ngay trên mục tiêu tôi bấm nút…Xoẹt…trái hỏa tiễn đầu tiên rời dàn phóng lao xuống nổ tung ngoài bãi cát, cách xa cái miễu cả trăm thước. Mẩu bánh mì gắn quá thấp! Tôi tiếp tục đẩy cần lái về phía trước, chiếc trực thăng chúi mũi xuống mục tiêu gia tăng tốc độ, bắt đầu rung lên bần bật, lắc lư như chiếc võng, tôi cảm tưởng trục cánh quạt có thể gãy lìa bất cứ lúc nào…Xoẹt…xoẹt…xoẹt…Ba trái hỏa tiễn nối đuôi nhau lao xuống mục tiêu, một trái chui ngay vào mái ngói đen nổ tung khói mù mịt.
Trong khóe mắt tôi, Thiếu Úy Liên ngồi im bất động hai tay đang bấu chặt vào thành ghế bay, bỗng nhảy chồm lên reo to:
- Hay quá!…Hay quá!…
Trong đám khói bụi đen đang bốc lên cao, một bóng đen đang bò lết ra hướng bờ cỏ lau…Con tàu quẹo lại, rung chuyển. Tay bật qua nút minigun tôi hét lên trong intercom:
- Minigun!…minigun!…
Người xạ thủ bên phải nhoài người ra hẳn bên ngoài bóp cò súng, khẩu minigun quay vù, rống lên âm thanh nhức nhối, hàng ngàn viên đan tua tủa bắn xuống vào đám bụi mù, đất cát văng lên khắp nơi. Thoáng đâu đây trong những tiếng động hỗn độn, tôi nghe tiếng cóc…cóc…của khẩu AK- 47 bắn trả. Tôi quẹo gắt con tàu lấy lại cao độ, vội vàng bay ra khỏi vùng, trong đầu tôi thần kinh vẫn còn căng thẳng. Đây là lần đầu tiên trong những ngày chinh chiến tôi đã vào vùng địch một mình, không có chiếc gun số hai theo sau yểm trợ. Điều này đã làm cho tôi cảm thấy rất bất an trong lòng.
Quay người lại phía sau tôi nhìn ông anh rể giáo sư của tôi ngồi trên sàn tàu kế bên những bao bánh mì, mặt mày thất thần, chưa hoàn hồn, còn anh ký giả ngoại quốc tóc tai rối bời vì gió lộng, đang hí hoáy viết, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ta chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra trong vài phút ngắn ngủi vừa qua. Vói tay ra hiệu cho vị sĩ quan Biệt Động Quân đang liên lạc với quân bạn bên dưới trên tần số FM, tôi nói:
- Đại Úy…, tôi muốn đi thanh toán mấy bao bánh mì này cho xong, sợ không đủ xăng. Sau đó trên đường về tôi sẽ tống hết đạn dược xuống ngọn đồi này, nếu Đại Úy đồng ý.
Nói xong không đợi câu trả lời tôi quay mũi về hướng bắc bay dọc theo dòng sông Ba đang ngoằn nghòeo uốn khúc giữa vùng rừng cây rời rạc.Chỉ dăm ba phút sau, từ xa vài cây số tôi đã thấy đoàn người chạy giặc chen chúc trên con lộ, phần đầu của đoàn người dừng lại tại bờ phía bắc đầu cầu sông Ba. Chiếc cầu một phần giữa bị sập, một nửa nhịp chìm dưới đáy sông cạn. Xung quanh đó, một nhóm công binh đang xúm lại nối cây cầu. Từ xa trên cao tôi thấy một chiếc trực thăng Chinook đang bay đến, dưới bụng treo “tòng teng” (sling) tấm sắt rất lớn trông như một nhịp cầu.
Tại đây đoàn người đang dậm chân tại chỗ. Đàng sau cả hàng cây số những người chạy nạn cùng hàng ngàn chiếc xe vẫn tiếp tục đi tới, dồn cục càng ngày càng đông tràn ra hai bên phía bìa rừng. Đủ mọi loại xe, cam nhông nhà binh, chiến xa M-113, xe hàng, xe ba bánh và cả hàng ngàn chiếc xe hai bánh của dân chúng chất chứa đèo bồng tất cả những gì có thể mang theo được. Nhìn hàng vạn người nối đuôi nhau chen chúc đói khát bên dưới, năm bảy bao bánh mì trên sàn tàu của tôi như một giọt nước nhỏ bé trên bãi sa mạc mênh mông nắng cháy, sự hăng say phấn khởi trong lòng tôi buổi sáng hôm nay tự nhiên tan biến tự lúc nào.
- Chắc mình phải đem thả nơi nào có ít người, chứ thả đây người ta đạp nhau đủ chết. Tiếng người mê vô phía sau tàu đề nghị.
Thấy hợp lý, tôi cho tàu rời con đường lộ, bay dọc theo bãi cát bên bờ sông.
- Phía sau sẵn sàng nghe, mở hết mấy bao bánh mì ra đi, khi nào tôi bảo thì mọi người bắt đầu thả xuống – Tôi nói cho hai anh mê vô xạ thủ – Nhờ mấy người kia thả phụ cho nhanh.
Tại bờ sông cạn kế trên những cồn cát, từng nhóm người đang tắm rửa, hoặc lấy nước uống. Tôi cho con tàu bay rà xuống thấp, hàng trăm cánh tay đưa lên cao, như van xin cầu khẩn hơn là chào đón. Một số khác, trên tay cầm những xấp giấy hình như là tiền đưa lên vẫy vẫy như mời mọc, “khiêu gợi” chiếc trực thăng đang bay ngang qua đầu. Hình ảnh những xấp tiền trên bàn tay của những người dân chạy giặc, có thể là cả một gia tài mồ hôi nước mắt của họ dành dụm mang theo được, và ngay giây phút này sẵn sàng đánh đổi một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng để bay ra khỏi con lộ máu. Tôi bỗng dưng thấy mủi lòng thương xót cho đồng bào đang đau khổ cùng cực, nhưng đồng thời hành động vô tình của họ đã làm va chạm và tổn thương tự ái của tôi không ít. Tôi quay qua Thiếu Úy Liên ngồi bên ghế trái đang nhìn xuống phía dưới, bất giác cả hai cùng quay lại, không ai nói gì nhưng trong đầu hình như cùng có một ý nghĩ cay đắng và xót xa.
Con tàu lướt qua một đám người nhỏ, tôi bay chậm lại rồi nói vội trong intercom:
- Thả đi…
Hàng chục ổ bánh mì rơi rải rác trên bãi cát vàng, từng nhóm người ùa chạy theo, nhào trên đất vồ vập, chen lấn dành giựt, một vài người già, con nít ngã lăn trên cát. Chỉ trong chốc lát, những bao bánh mì đã sạch nhẵn. Tôi lấy cao độ bay trở về, chợt nghĩ rằng mặc dù tàu còn một số đạn dược và rockets nhưng còn có thể chở được năm bảy người. Tôi bay vòng lại nhìn dọc theo dòng sông, tìm một nhóm người nhỏ, riêng rẽ để có thể bốc họ mà không bị tràn ngập như chiếc trực thăng của Thần Tượng đã bị rơi ngày hôm qua.
Bay qua một vùng rừng cây thấp, tôi thấy chừng năm bảy người đang núp nắng dưới bóng cây, hình như là một gia đình. Tôi lạng chiếc trực thăng xuống thấp và đáp kế bên tàn cây chừng vài chục mét, cát bụi bay mù mịt, nhóm người trong bụi cây ùa ra. Người đàn bà khuôn mặt mếu máo vì khủng hoảng, lấy chiếc nón lá che đứa bé đang ôm trong lòng cúi đầu chạy đến cùng với vài người đàn ông nhảy lên tàu. Phía sau không xa chừng vài chục người đang tràn tới chiếc trực thăng. Không một giây chậm trễ, tôi nhấc tàu quay mũi ra hướng bờ sông cất cánh, để lại sau lưng một đám bụi mù và đám người đứng khựng lại vì thất vọng. Tàu lên cao, gió mát lồng lộng vào khung cửa, khác hẳn với cái nóng hừng hực trên cồn cát nắng cháy. Phía dưới đất, những người tỵ nạn đứng bên những bờ lau sậy đưa tay vẫy vẫy trong tuyệt vọng. Tôi quay đầu nhìn xuống một lần cuối cùng trước khi quyết định rời vùng. Chợt bên mé bờ sông tôi nhìn thấy hai người, đúng hơn là hai cô bé hình như đang giặt áo quần. Nghĩ rằng tàu có thể đủ chỗ cho hai người nhỏ nữa tôi lạng một vòng và hạ con tàu xuống cách hai cô bé chừng vài chục mét. Mọi người trong khoang tàu nhìn ra chờ, anh xạ thủ đưa tay ngoắc, hai cô bé thản nhiên bỏ đi về phía đám người đang đứng dưới những tàn cây đằng xa. Gần đó hai đứa trẻ con đứng tắm sợ hãi bỏ chạy, vấp té ngã lăn trên đám cỏ dại.
Tôi kéo con tàu cất cánh và nói với phi hành đoàn:
- Chắc hai cô bé này đang đi với gia đình, không muốn đi một mình.
Thiếu Úy Liên gật đầu đồng ý. Nhìn đồng hồ xăng đã xuống khá thấp, tôi vội vã hướng về Tuy Hòa. Trong tiếng động ầm ĩ của tiếng động cơ, tôi bỗng nghe tiếng người xa thủ nói rất to sau khoang tàu, hình như đang có gì lộn xộn. Tôi quay qua hỏi người hoa tiêu phụ:
- Liên, coi thử chuyện gì vậy?
- Mấy người mới lên tàu dành nhau vô ngồi giữa, thấy tàu mở cửa họ sợ bị rớt ra ngoài.
Đang suy nghĩ vì con tàu bay qua ngọn đồi lúc nãy, phân vân không biết nên bắn xuống ngọn đồi như đã hứa với viên Đại Úy trong khi tình trạng xăng trên tàu chỉ còn đủ để bay trở về. Tôi hơi bực mình quay qua nhìn Thiếu Úy Liên và nói:
- Liên, bạn giải quyết giùm đi, biểu họ ngồi yên và coi chừng, tôi sắp sửa bắn rockets xuống ngọn đồi này đó.
Nói xong tôi quay lại ra hiệu cho viên Đại Úy Biệt Động Quân biết, rồi quay đầu tàu vòng lại, chúi mũi phóng những trái rockets còn lại xuống ngay lưng đồi. Người xạ thủ nhoài người ra ngoài trút hết những viên đạn cuối cùng xuống đầu địch trước khi con tàu rời vùng. Âm thanh của những trái hỏa tiễn rít lên cùng với tiếng súng sáu nòng minigun rú lên như bò rống đinh tai nhức óc, đứa bé trong lòng người mẹ sau khoang tàu khóc thét lên, còn đứa con trai lớn hơn kế bên, mở trừng mắt, trên khuôn mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngồi chết cứng, mếu máo vì sợ hãi, khóc không ra tiếng.
Tàu đã cạn xăng và đạn dược, tôi phóng nhanh về Tuy Hòa. Bên cạnh, tôi thấy Liên móc gói thuốc mời người đàn ông hút, và hai người nói chuyện rất hăng say. Người đàn ông trong bộ áo quần nhàu nát, xốc xếch có lẽ là chồng của người đàn bà đang ôm đứa bé, trên khuôn mặt gầy ốm, mệt mỏi và xạm đen vì nắng nhưng đôi mắt lộ vẻ sung sướng với nụ cười nở rạng rỡ trên môi. Tôi hỏi Liên:
- Quen à?
- Anh có tin không, đây là thằng bạn học cùng lớp với tôi hồi xưa, em ruột của Thượng Sĩ Kim, y tá Phi Đoàn mình đó. Thật là một chuyện hi hữu, đúng là ý trời.
Trong giọng nói của Liên tôi nghe như đang ẩn chứa một niềm vui bất chợt. Tôi trao cần lái cho Liên rồi móc thuốc ra hút, nghỉ xả hơi sau một thời gian dài căng thẳng.
- Hôm qua bạn làm gì? Tôi hỏi Liên.
- À, tôi bay cho Tiểu Khu Tuy Hòa thả cơm vắt, mía khúc xuống cho dân chạy loạn và bốc người. Có chuyện này tôi quên kể cho anh nghe. Lúc bay ra vùng có một Ma Soeur đi theo tàu để thả đồ tiếp tế của Tiểu Khu Tuy Hòa. Khi tôi đáp xuống bãi cát, một toán người tràn tới leo lên tàu, Ma Soeur lẵng lặng nhảy xuống đất nhường chỗ không lên lại tàu, tôi cứ chần chờ, bà ngoắc tay bảo tôi bay đi. Thấy một đám người đang chạy đến, tôi không thể chờ lâu hơn nữa được phải cất cánh. Trước đó tôi có nghe Ma Soeur nói là muốn được xuống con lộ gia nhập với đoàn người chạy nạn để giúp đỡ họ, nhưng tôi không ngờ.
Liên nói tiếp:
- Anh có biết không, khi chiếc tàu cất cánh, nhìn xuống thấy người nữ tu trong bộ áo dòng đứng chơ vơ, hai tay giữ chiếc khăn bịt đầu trên bãi cát nóng cháy, gió bụi mịt mù như muốn cuốn thổi bay tấm thân nhỏ bé, hình ảnh đó có lẽ sẽ không bao giờ phai nhạt trong trí óc của tôi anh à.
Khi nói tới đây, giọng của Liên đột nhiên như nghẹn ngào vì xúc động. Tôi vội quay mặt nhìn ra ngoài khung cửa, bất giác liên tưởng đến cái gọi là “giải phóng miền Nam” của quân Cộng Sản khát máu và những nổi thống khổ tận cùng mà cả hàng trăm ngàn người dân lành vô tội đang phải chịu đựng trên con lộ máu kinh hoàng này.
Thành phố Tuy Hòa ẩn hiện trước mặt, nằm im lìm bên cửa sông Đà Rằng mênh mông mở rộng. Trên bầu trời trong xanh, những chiếc trực thăng như những con ong dập dìu bay tìm kiếm những người dân trên con lộ Liên tỉnh 7B, chở về trung tâm tỵ nạn. Tôi hạ cánh đáp xuống phi trường Đồng Tác, đám đông bu quanh những bãi đậu trực thăng, ào chạy đến gần nhìn những người trên tàu tôi vừa thả xuống đất, hy vọng sẽ gặp lại được những khuôn mặt thân quen của họ.
Một chiếc xe Jeep chạy đến kế bên tàu, viên Đại Úy tay xách chiếc radio FM nhảy xuống đất leo lên xe rồi đưa tay chào phi hành đoàn. Người ký giả Mỹ còn nấn ná ở lại trên sàn tàu, trong tiếng ầm ĩ của động cơ, anh ta chồm lên từ phía sau ghé vào tai tôi nói lớn:
- Cám ơn anh rất nhiều về chuyến bay vừa qua. Tôi rất muốn giúp đỡ những người chạy loạn nhưng bất ngờ không đem theo nhiều tiền. Tôi chỉ có hơn mười ngàn đồng trong túi, xin gửi hết cho anh để ngày mai mua bánh mì giùm tôi. Nói xong anh dúi vội vào tay tôi xấp giấy bạc rồi nhảy xuống đất đưa tay vẫy chào.
Cầm xấp giấy bạc trong tay, tôi ngỡ ngàng nhìn theo người ký giả biến mất hút vào đám đông người …
Đà Nẵng Di Tản và Một Sự Gặp Gỡ Bất Ngờ
Tỉnh đường Tuy Hòa là một tòa nhà lớn nằm trên một vị trí đẹp nhất thành phố, kế bên bờ biển, mặt đông khu vườn cỏ nhìn xuống bãi cát vàng, phía nam nhìn ra cửa sông Đà Rằng mênh mông bát ngát. Từ trên cao nhìn xuống sân cỏ rộng của tỉnh đường đã có bảy tám chiếc trực thăng tắt máy đậu sẵn. Tôi lượn một vòng nhìn xuống, thấy có chỗ trống vừa đủ cho một chiếc trực thăng, tôi hạ cao độ và chen vào đáp. Trên bãi cỏ của tỉnh đường, đứng lố nhố những phi hành đoàn và nhiều người ngoại quốc đủ mọi quốc tịch, trên người đeo đầy máy ảnh chạy lui chạy tới rất là bận rộn. Có lẽ họ là những nhà báo khắp thế giới đến săn tin tức về mặt trận đang sôi động tại chiến trường vùng II. Tắt máy tàu, mở cửa bước xuống sân cởi chiếc áo giáp nặng chịch trên người, trước mặt tôi đậu những chiếc trực thăng lẫn lộn của nhiều Phi Đoàn mang đủ loại phù hiệu như Hoàng Ưng, Thiên Ưng, Song Chùy v…v… từ Đà Nẵng di tản vào. Một chiếc trực thăng tản thương của Phi Đoàn 257 Cứu Tinh vừa đáp xuống, bụi mù tung lên, những người ký giả chạy ùa đến săn tin tức.
Ngày 27 tháng 3 năm 75, Cộng quân gia tăng áp lực vào thì trấn Đà Nẵng, phi trường bị pháo kích liên tục. Tất cả máy bay được lịnh cất cánh lên trời để tránh thiệt hại. Pháo kích kéo dài không ngưng, tất cả trực thăng được lệnh rời bỏ phi trường Đà Nẵng đáp xuống phi trường Non Nước đậu qua đêm. Đây là một phi trường nhỏ của Mỹ bỏ lại cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng năm cây số hướng đông nam. Suốt đêm đó tất cả phi hành đoàn đều ngủ tại những “bunker” hoặc giao thông hào của những đơn vị Thủy Quân Lục Chiến trú đóng tại đó, đang chờ các tàu Hải Quân trên đường cập bến di tản tất cả lực lượng tại đây.
Sáng hôm sau, tình thế tại Đà Nẵng rất nguy ngập, Cộng quân tiến sát vào thành phố. Trong tình thế hỗn loạn đó, tất cả trực thăng của các Phi Đoàn đậu tại phi trường Non Nước được lệnh cất cánh di tản về Phù Cát. Thời tiết ngày đó rất xấu, trần mây thấp không hơn năm trăm bộ che kín bầu trời (overcast). Tất cả hoa tiêu trực thăng cất cánh tại phi trường Non Nước về căn cứ Phù Cát, Bình Định có hai giải pháp phải chọn lựa, một là bay trên trần mây mù mịt, hai là bay thấp dọc theo bờ biển. Đa số trực thăng tối hôm qua bay chờ khá lâu trên trời để tránh pháo của địch đã tiêu thụ một số xăng khá nhiều, bây giờ bình xăng không còn đầy để có thể bay xa. Nếu phải chọn con đường bay trên trần mây, và khi đến phi trường Phù Cát không tìm được khoảng trống để đáp xuống thì tàu có thể rớt vì hết xăng. Cũng nên biết rằng, đa số trực thăng không được trang bị những khí cụ hay máy móc để bay trong mây hay thời tiết xấu, cho nên đối với những hoa tiêu trực thăng bay trên trần mây không thấy được mặt đất là một điều tối kỵ. Giải pháp thứ hai bay thấp dưới trần mây, dọc theo bờ biển, nhưng những chiếc trực thăng phải đối phó với hỏa lực phòng không của địch qua nhiều vùng đã bị chiếm đóng. Cả hai giải pháp đều là nan giải cho những phi hành đoàn trong hoàn cảnh nguy ngập đó.
Một trong những hoa tiêu của Phi Đoàn tản thương Cứu Tinh 257 đang đậu tại phi trường Non Nước là Trung Úy Phạm Mẫn, cựu hoa tiêu Phi Đoàn Thần Tượng 215, đã chọn con đường thứ hai, bay thấp dưới trần mây về Phù Cát. Trên tàu khi đó chở đầy những quân nhân Không Quân cũng như một số dân sự. Để tránh những súng nhỏ có thể bắn từ những làng mạc đã bị địch chiếm đóng, Trung Úy Mẫn bay con tàu cách xa bờ biển chừng nửa cây số. Trên đường đi, trong tần số radio, những hoa tiêu liên lạc với nhau, kêu nhau ơi ới. Những chiếc trực thăng bay thấp bị đủ mọi loại súng của địch từ những ngôi làng dọc theo Quốc Lộ I bắn tới tấp, những chiếc máy bay bay trên cao thì trần mây mù mịt không tìm được đường xuống. Tình trạng rất bi đát.
Riêng Trung Úy Mẫn, sau chừng nửa tiếng đồng hồ bay, khi vừa đi ngang quận Dục Đức, từ trong bờ một tràng đạn phòng không cỡ lớn nổ liên tục nhắm vào chiếc trực thăng đang bay thấp trên mặt biển. Một viên đạn trúng tàu nổ tung, một số người chết ngay trên sàn tàu, Trung Úy Mẫn cố lết con tàu bay sát mặt biển tới được gần đèo Phù Củ thì rơi xuống bãi cát sát bờ nước. Từ phía sau đuôi của chiếc trực thăng, một nhóm Việt Cộng từ một làng sát mé biển chạy đến. Những người nào còn sống sót trên tàu mạnh ai nấy chạy. Mẫn bị một vết thương ngay chân, lết ra khỏi tàu chạy về phía trước dọc theo bờ biển, những tiếng súng AK- 47 nổ dòn vang vọng đàng sau. Chạy được chừng ba bốn cây số thì trước mặt khoảng năm bảy trăm mét, chừng bốn năm tên đầu đội nón cối chạy ngược lại chận đường, biết là không còn đường thoát, trong một hành động tuyệt vọng Trung Úy Phạm Mẫn nhảy xuống biển bơi vòng ra khơi, hy vọng sẽ lẩn tránh được quân thù. Trên bờ mấy tên Việt Cộng vừa tới nơi đứng dương súng chờ đợi. Sức người có hạn, sau một chặng đường dài chạy trên biển với vết thương ngay chân, anh đã kiệt lực và đành buông xuôi giao thân cho địch. Anh bị trói thúc ké dẫn đi vào hướng đất liền, giữa một vùng bụi cây thấp mọc dọc theo ven biển. Trên trời cao những chiếc trực thăng của Phi Đoàn 243 Mãnh Sư tại căn cứ Phù Cát được lệnh bay ngược về hướng Đà Nẵng, hy vọng cứu cấp những phi hành đoàn bị rơi rớt dọc đường. Một chiếc trực thăng của Phi Đoàn Mãnh sư vừa bay ngang, tiếng động cơ và tiếng cánh quạt kêu ầm ỉ, bên dưới Trung Úy Mẫn bị mấy tên Cộng Sản xô chúi nhủi vào một bụi rậm, dí súng AK- 47 vào đầu không cho anh nhúc nhích. Trong giây phút dưới áp lực của mũi súng quân thù, Mẫn* vẫn còn đủ bình tĩnh để ngửng lên nhìn chiếc trực thăng đang bay qua đầu, lòng thầm biết ơn những người hoa tiêu bạn trong giây phút tận cùng của cuộc chiến vẫn “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, đúng như tinh thần bất diệt của quân chủng Không Quân.
- Ê…, Mãnh Hổ!
Đang đứng hút thuốc kế bên tàu tôi nghe tiếng ai kêu từ phía sau. Tôi quay lại. Một hoa tiêu mang phù hiệu trực thăng của Phi Đoàn 239 Hoàng Ưng đang đứng sau lưng nhìn tôi cười. Tôi nhíu mắt nhìn. Khuôn mặt rất quen thuộc, tôi cố moi lại trong trí nhớ.
- Mày quên tao rồi à, Nguyễn Hào đây!
- Hào.., trời đất…, Hào “gàn” phải không? Mẹ…, lâu ngày quá.
Vừa nói xong tôi mừng rỡ ôm choàng lấy người bạn thân cùng khóa bay. Từ lúc chia tay nhau sau khi du học ở Mỹ trở về nước, mỗi thằng đi một vùng chiến thuật, chưa bao giờ chúng tôi có cơ hội gặp lại nhau. Hình ảnh của thằng bạn có giọng nói Bắc kỳ Hà Nội chậm rãi, ngọt ngào như mía lùi lại ẩn chứa một tánh tình “ngang tàng” nếu không nói là có tí “ngông”, trên một khuôn mặt rất là “boyish” đã trở lại trong tâm trí tôi. Những ngày bên trường bay vào những buổi đi học về, trong khi mấy anh “hoa tiêu học trò” vội vã chen nhau xuống chiếc xe buýt thì Hào lửng thửng một tay xách túi bay, một tay đút vào túi quần chậm rãi đi từng bước một về phòng, hình như chưa bao giờ tôi thấy anh ta vội vã cả.
- Chuyện gì đã đưa đẩy bạn lưu lạc nơi phương trời này vậy,… Hào? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Thì lúc Ban Mê Thuột bị tụi nó chiếm, từ Đà Nẵng tao tình nguyện biệt phái dẫn năm chiếc tàu lên Pleiku cho phi vụ không vận Sư Đoàn 23 về tái chiếm Ban Mê Thuột. Chừng hai ngày sau thì phi vụ đó bị “xù”, tụi tao bị “xỉ” về vùng này bốc dân. Mấy lần tao nghe tiếng mày trên tần số mà chưa có cơ hội để gặp. Này, mày bay gunship phải không, tao có chuyện này muốn nói với mày.
- Có gì quan trọng không? Vừa nói tôi vừa móc ổ bánh mì dưới túi bay rồi hỏi:
- Mày ăn chưa?
- Tao ăn rồi, mày ăn đi. Lúc nãy tao đi chở dân về, gần tới Tuy Hòa bên mấy thửa ruộng hoang tao thấy hai ba con bò đang đứng ăn cỏ, tao định xuống “dớt” một con đem về cho lính mình ăn, tao thấy nhiều lính bộ binh đi lạc trong rừng được bốc về phi trường Đồng Tác tơi tả, tội nghiệp quá. Một mình không có gunship “cover” tao hơi ngại, bây giờ gặp mày đây tao mới hỏi mày đi bay yễm trợ cho tao “dớt” con bò về được không?
- Chuyện nhỏ thôi, nhưng coi chừng, nhiều lúc là bò của dân đó mày.
- Dân đếch gì, xa tuốt trong rừng, giờ này dân chạy hết rồi, để lại cho tụi Việt Cộng ăn cũng vậy thôi.
Cầm ổ bánh mì trên tay tôi vừa ăn vừa nói:
- OK, làm gì thì làm để tao “thanh toán” ổ bánh mì này cho xong đã rồi đi đâu thì đi.
Hơn mười phút sau hai chiếc trực thăng bắt đầu quay máy, tôi cất cánh chiếc trực thăng võ trang nối đuôi theo chiếc Hoàng Ưng của Hào rời bãi đậu. Hai con tàu lấy cao độ hướng ra phía bờ sông. Trên cao nhìn xuống, từ cửa sông Đà Rằng chạy dài về phía tây, cửa sông trông giống như đầu của một con bạch tuột với những sợi râu nằm giữa vựa lúa lớn nhất miền Trung phần, những mảnh ruộng hình vuông con con màu vàng cỏ rạ, nối tiếp nhau từ bờ sông chạy dài đến gần chân núi Đại Lãnh. Nhìn thằng bạn thân cắm đầu bay trước mặt, trên tần số riêng tôi gọi:
- Hào…, mày còn nhớ chỗ không đó?
- Yên chí đi…, cứ theo tao, năm phút nữa sẽ đến, cách con sông vài cây số ngay bìa rừng tao nhớ rõ.
Đúng như lời Hào nói, chỉ trong vài phút bay tôi thấy chiếc trực thăng trước mặt nghiêng cánh, hạ cao độ. Từ trên cao nhìn xuống, tôi có thể thấy một vùng ruộng bỏ hoang, không canh tác, cỏ vàng úa mọc đầy, nằm kế bên bìa rừng, ở giữa là một con suối cạn uốn éo, cỏ mọc xanh hai bên bờ.
- Hổ, mày thấy chưa…bãi ruộng gần con suối, cách đây hai tiếng đồng hồ tao đã bay qua đây rồi.
Tôi nhìn theo nôn nóng:
- Biết rồi…, mấy con bò đâu không thấy?
- Từ từ đừng nóng, lẩn quẩn đâu đây thôi…
Hào bay dưới thấp chừng vài trăm bộ, tôi giữ vị thế cao hơn để quan sát tình hình, theo dõi tàu của Hào trong trường hợp có biến cố nào tôi có thể phản ứng kịp thời. Bỗng tôi nghe tiếng Hào trong tần số, giọng nói phấn khởi:
- Đây rồi…, đây rồi…, ba “chú” đang ăn cỏ đây.
Nhìn xuống dưới thấp, tàu Hào đang bay bỗng quay vòng lại, cánh quạt chiếc trực thăng chấp chóa, ba con bò đang đứng thản nhiên gặm cỏ trên một bãi ruộng hoang, kế bên một đám cỏ tranh vàng úa.
- Hổ…, mày trên cao cover nghe, tao xuống đây. Hào nói.
Tôi hạ cao độ, bay vòng rộng quanh chiếc tàu phía dưới, quan sát tình hình. Xung quanh đều là đồng không mông quạnh, không có dấu vết gì khả nghi cả, trừ đám rừng xa xa khoảng vài cây số. Chiếc trực thăng của Hào bay chậm lại và ngừng lại trên đầu ba con bò màu nâu đang bình thản đứng kế bên nhau. Bên hông cửa tàu của chiếc trực thăng phía dưới tôi có thể nhìn thấy khẩu đại liên đang khạc đạn, phóng ra những làn khói trắng nho nhỏ. Một con bò nhỏ nhất trong đám ngã quỵ xuống, hai con kia tức thời phóng chạy.
- Hổ, tao đáp xuống đây…coi chừng dùm tao nghe…
Quay qua khung cửa, tay cầm cần lái, mắt tôi chăm chú theo dõi tất cả mọi diễn tiến bên dưới. Chiếc trực thăng đáp kế con bò đang nằm trên mặt đất , cách đó một khoảng gần là một đám cỏ tranh cao tới ngực. Hai người mê vô xạ thủ nhảy xuống đất đồng thời một bên cánh cửa cockpit mở ra, người hoa tiêu phụ nhảy xuống theo. Ba người chạy đến kế bên con bò. Từ trên cao tôi theo dõi một hoạt cảnh ngoạn mục, ba anh phi hành trong bộ đồ bay, người mặc áo giáp, đội nón helmet ì ạch kéo con bò không nhúc nhích. Mấy ông mê vô xạ thủ và ông anh rể tôi ngồi sau sàn tàu chồm ra ngoài cửa hồi hộp nhìn xuống phía dưới theo dõi. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thầm nghĩ con bò quá nặng không thể nào ba người có thể đủ sức đem nó lên sàn tàu. Đúng như tôi đã dự đoán, trên tần số tiếng nói của Hà
- Nặng quá tụi nó kéo không nổi, Hổ…, tao xuống phụ với tụi nó…, cover cho tao nghe…
Hào nói xong chưa chờ tôi trả lời, mở cửa nhảy xuống, chạy đến bên con bò. Bốn người xúm nhau, tiếp tục kéo. Cho con tàu bay thấp vài trăm bộ tôi nghiêng đầu theo dõi. Bỗng dưng cách chiếc trực thăng đang đậu phía dưới chừng vài chục mét, tôi phát giác một bóng người bận đồ đen vừa mới đứng lên giữa đám cỏ tranh mọc cao ngang ngực. Tôi la lớn cho mấy anh mê vô xạ thủ tôi nghe thấy để chuẩn bị:
- Có người…, đằng sau.., coi chừng…
Người xạ thủ hình như cũng thấy như tôi đã thấy, đến chụp khẩu minigun chỉa xuống ngay chỗ đám cỏ tranh. Phía dưới là chiếc tàu của Hào đang nổ máy hoàn toàn không có người nào ở trên tàu, tôi không biết làm cách nào để thông báo cho phi hành đoàn bên dưới biết tình trạng đang xảy ra. Tôi sà con tàu xuống thấp bay ngang đầu chiếc trực thăng đang đậu dưới đất, bay vòng thật nhỏ như để báo hiệu cho bạn mình biết để đề phòng có người lạ khả nghi đang ở gần đấy.
Một cuộc diễn tiến bất ngờ xảy ra phía dưới như một cuốn phim đang quay chậm. Bóng người đang đứng giữa đám cỏ tranh bỗng vạch cỏ bước hẳn ra ngoài, tiến về hướng chiếc trực thăng đang đậu kế con bò, hai tay cầm khẩu AK- 47 đưa cao lên khỏi đầu. Bốn người đang hì hục kéo con bò, bất ngờ ngưng lại, quay mặt về phía bóng người đang bước tới. Tôi thấy Hào rút khẩu “rouleaux” chỉa về phía người lạ. Hình như có một cuộc đối thoại ngắn đang xảy ra, tôi đoán vậy…Hào bước đến gần tay vẫn chỉa súng vào người lạ, tay kia vói giật khẩu AK- 47. Bây giờ một người xạ thủ của Hào đã tỉnh hồn, nhảy lên tàu chĩa khẩu đại liên M- 60 về phía “nhân vật” mới xuất hiện. Hình như cuộc đối thoại vẫn đang còn tiếp diễn… Đột nhiên trước sự ngạc nhiên, nếu không nói là sửng sốt của tất cả mọi người trên tàu tôi, “nhân vật” mới cùng phi hành đoàn bốn người của Hào xúm nhau lại kéo con bò lên sàn tàu. Nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra, chờ khi Hào đã an tọa trên ghế bay, tôi la trên tần số:
- Hào…, chuyện gì vậy…, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Trong hơi thở hổn hển có lẽ vì quá mệt sau khi khiêng con bò lên sàn tàu, tiếng nói của Hào đứt đoạn:
- Thằng…Việt Cộng…, nó muốn hồi chánh…, nó xin tao chở về Tuy Hòa…
Tôi ngắt lời:
- Mày có chắc không? Coi chừng đó…
- Không sao…đâu.., tao lấy súng nó rồi… Nó là dân du kích địa phương…có gia đình ở Tuy Hòa…
Nghe xong tôi thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ tên Việt Cộng này đang chăn bò, thấy trực thăng đến chạy núp trong đám cỏ tranh, và sau khi thấy chiếc gunship quần trên đầu tưởng là đã bị phát giác nên ra đầu hàng. Tôi gọi Hào:
- Mày làm tao hú hồn, thôi… chở con bò về phi trường Đồng Tác giao cho bộ binh và nhân tiện giao thằng Việt Cộng luôn.
Rồi tôi nói tiếp:
- Nhớ cắt một cái đùi tối về Nha Trang tụi mình nhậu nghe.
Vĩnh Hiếu
https://hon-viet.co.uk/VinhHieu_NgayTanCuocChien2.htm
Hồi Ký: Trận Đánh tại Chi Khu Thiện Giáo – Tháng 4, 1975
-
Hồi Ký:
Trận Đánh tại Chi Khu Thiện Giáo
– Tháng 4, 1975
_________________________
Trần Kim Bằng
Sau hồi ký “Vượt biên đường bộ”, 2015, Bằng được ủy thác, vinh dự góp tay viết về trận đánh tại quận Thiện Giáo, thuộc tỉnh Bình Thuận trong tháng 4 năm 1975 theo lời kể của một vị sĩ quan Quân Lực – Việt Nam Cộng Hòa (QL- VNCH).
Bài viết được trình bày qua hình thức hồi ký. Tác giả cho biết sau nhiều đề nghị từ các anh em đồng đội từng sát cánh chiến đấu, các con cháu, luôn yêu cầu ông nên kể lại. Ngoài mục đích di sản cho thế hệ sau về những chiến thắng oai hùng của cha ông trong công việc gìn giữ, bảo vệ đất nước, chống lại sự xâm lược của cộng sản (cs.) vô thần, ông còn mong như đóng góp nhỏ trong việc phản bác những lời nói vô trách nhiệm của cựu Tổng thống Hoa Kỳ, George W. Bush (Junior)* khi cho rằng QL – VNCH không chịu chiến đấu, thay vì ông ta nhìn nhận để miền nam tự do rơi vào tay cộng sản đa phần là do các chính trị gia Mỹ. Phát biểu nông cạn thực đáng trách của ông Bush tạo ra những bực bội cho nhiều người lính của chúng ta, dù cuộc chiến đã tàn từ lâu.
Cá nhân ông và các đồng đội đã hy sinh tuổi thanh xuân, chiến đấu hết mình cho tới khi miền nam thân yêu bị bức tử, vận nước chấm dứt.
Câu truyện đồng thời cũng ước mong như những đóa hoa thơm, thân thương gởi đến các chiến sĩ Địa Phương Quân - Nghĩa Quân (ĐPQ & NQ) của QL - VNCH trên mọi miền giới tuyến, đã nhiều phen đóng góp xương máu cho đất nước... nhưng luôn bị lãng quên, ít được đề cập tới.
*
- Về chiến thắng Thiện Giáo, dẫu muộn màng, nên được kể và ghi lại trong trang sử liệu đấu tranh can trường của QL-VNCH. Trận chiến này ngoài ĐPQ & NQ thuộc tiểu khu Bình Thuận, còn có thêm ít binh lính từ các binh chủng khác như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, TQLC, ... di tản về sát nhập chung, tình nguyện chiến đấu. Ở vào thời điểm khi vùng 1, vùng 2 tan rã, tình hình nhiều tuyệt vọng. Chi khu TG. cho gia đình binh sĩ, vợ con quân nhân các cấp di tản trước, riêng các chiến binh, những người chồng, người cha ở lại sẵn sàng chờ địch tới. Dù biết có thể phải hy sinh bản thân, mọi người quyết bảo vệ vùng trách nhiệm được giao phó. Nghĩ lại, thật hãnh diện. Theo nhận xét của người viết, mặc dù ngoài 80, nhưng với trí nhớ minh mẫn, nhiều chi tiết tường thuật rõ ràng vì chính ông là người tham chiến, giữ trọng trách chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ chi khu. Ông cho hay TĐ 230/ĐPQ được tiểu khu Phan Thiết bố trí ngăn địch tại tuyến đầu tức chi khu Thiện Giáo và cuộc đụng độ nặng cuối cùng nổ ra trong tháng tư, chống trả lại 2 trung đoàn việt cộng, trận đánh rất ác liệt và kéo dài khoảng 3 ngày. Với quân số chỉ hơn 1 tiểu đoàn, các chiến sĩ ĐPQ & NQ đã anh dũng, chặn đứng, đẩy lui nhiều đợt tiền pháo hậu xung của địch, và rất may mắn chỉ một vài người bị thương nhẹ, cả tiểu đoàn hầu như vô sự. Chiến thắng đầy tự hào cuối đời binh nghiệp này cũng đã được ghi lại trong trí nhớ của nhiều người dân Bình Thuận. Ông “Anh Ba”, ở cương vị chỉ huy trưởng chiến trường, mặt trận Thiện Giáo, cung cấp thêm nhiều chi tiết về trận đánh này.
– Tiểu sử về U-80, “Anh Ba”, tức Đại úy Mai Vi Thành, nguyên quán Sa Châu, huyện giao Thủy, Nam Định, xuất thân khóa 4 Đồng Đế, ra trường ông phục vụ tại các đơn vị tác chiến quân khu II. Qua nhiều thăng trầm, vào thời điểm trước tháng tư 1975, vì là lính trận chuyên nghiệp, được giao lại quyền Tiểu đoàn trưởng (TĐT)- TĐ 230/ĐPQ kiêm Xử Lý Thường Vụ Chi khu trưởng Thiện Giáo. Sau khi tan hàng 30-4, vc. thù dai, liệt ông vào thành phần “ác ôn”, và chuyển giao ông ra bắc, ở tù qua các trại như Hoàng Liên Sơn, số 5 Thanh Hóa… từ 1975- 1982, vượt biên định cư Hoa Kỳ 1983. (See note update)
- Anh Ba cũng là con nuôi cũa Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, QL - VNCH, vị tướng công chính thanh liêm, người đã tuẫn tiết trong ngày 30-4-1975 tại bản doanh, căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho.
*
Vào truyện…
- “Giọt mưa Cali rớt vào ký ức
Lăn hồn ta về với núi với rừng
Gặp lại anh em tháng ngày thao thức
Hể hả cười… cùng khói lửa rưng rưng”
Thơ Trạch Gầm (Theo mưa đến thăm cà phê lính)
Trận đánh Thiện Giáo (TG.) tháng 4, 1975.
Khoảng đầu tháng 4, 1975, sau khi Ban Mê Thuật thất thủ, quân đoàn 2 hầu như tan rã và sát nhập vào quân đoàn 3 theo lịnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mục tiêu quân sự của Hà Nội đã quá rõ ràng, cánh quân Duyên Hải, Trung đoàn 18 thuộc Quân đoàn 2 cộng sản đang tạo áp lực, chuẩn bị tấn công Phan Rang từ phía đông bắc, sau đó dọc theo đường Quốc lộ (QL) số 1 tiếp tục hành quân về phía Nam, với mục tiêu kế tiếp tiến vào địa bàn tỉnh Bình Thuận, xuống chiếm lấy tiểu khu Phan Thiết. Tuy nhiên vì tình hình dân chúng từ vùng I và II bắt đầu di tản ngày càng đông trên quốc lộ 1, có thể không hẳn thuận lợi về mặt chiến thuật nên địch mở thêm mặt trận từ hướng tây, phía bắc tiểu khu Phan Thiết, nhằm khai thông đường tỉnh lộ 8. Nỗ lực ở mặt này, thì bằng mọi giá, phải dứt điểm Chi khu Thiện Giáo, vì đây là cứ điểm phòng thủ quan trọng để vào Phan Thiết. Cùng lúc, nơi mặt tây nam, tiến đánh Định Quán, rồi từ QL. 20 để vào mặt trận lớn hơn là tiểu khu Long Khánh, vòng đai phía bắc, nơi sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo phòng ngự, bảo vệ cửa ngõ Sài Gòn. Riêng mũi tấn công vô Thiện Giáo, vì là mặt trận then chốt, hầu như địch tập trung toàn lực lượng vũ trang quân khu 6 trên các cao nguyên Lâm Đồng, Bảo Lộc đưa xuống đồng bằng, đem vào trận.
Trận đánh tại chi khu TG. bắt đầu lúc 3 giờ sáng, khoảng ngày 11, 12 tháng 4 năm 1975, và trong 3 ngày giao tranh, với nhiều đợt tấn công biển người, việt cộng (vc.) đều bị chặn đứng và đánh cho tan tác trên các cứ điểm, có thể nói là thảm bại, thiệt hại nặng mặc dù quân số và vũ khí vượt trội gấp 5, 7 lần. Ghìm được chân lực lượng lớn của địch tại đây là niềm tự hào, của tiểu đoàn 230/ĐPQ & NQ, cùng tất cả quân dân cán chính thuộc chi khu TG. Nhưng khi đất nước lâm nguy, lãnh thổ hỗn loạn, rồi miền nam bị bức tử! chiến thắng này lại ở giai đoạn gần… đứt phim, nên theo dòng thời gian đi vào quên lãng, hầu như không ai nhắc tới, chỉ được truyền thông để ý đến cách hời hợt, chung chung sau này.
*
Thiện Giáo nằm trên tỉnh lộ 8, phía Tây Nam sát mật khu Tam giác, phía đông là quốc lộ 1 và mật khu Lê Hồng Phong, tây bắc có dãy Trường Sơn và mật khu Đăng Gia, phía nam là thị xã Phan Thiết. Quận TG. có hơn mười xã như Tân An, Bình An, Hòa Tân, Tân Thành... ngoài 1 xã hay khu trù mật của người bắc di cư với tinh thần chống cộng cao được thành lập từ thời Tổng thống Diệm, thì tất cả những xã khác đều là vùng xôi đậu. Chi khu Thiện Giáo, theo tầm nhìn chiến thuật là cứ điểm quan trọng, cái gai phải nhổ của vc. để tràn xuống phía nam, nên không bao giờ yên ổn, nơi đây với nhiều trận đánh đẫm máu liên miên của cả hai phía, lớn có, nhỏ có, không ngưng nghỉ. Có câu:” Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”, cọp thì không thấy nhưng ma quỷ là bọn giặc du kích thì đầy, chúng từ các mật khu luôn ra uy hiếp, quấy rối, giành dân, có nơi một vài xã, vc. đã thành lập được cả cơ sở nằm vùng. Nhiều đời quận trưởng TG. đã bị tử nạn bởi phục kích, bị pháo, đánh lén, đánh úp**. Thiện Giáo hiền hòa, nhỏ bé, nhưng như một khiêu khích quá hiển nhiên, lộ liễu với các anh mật khu bao quanh nên thường bị đặc công quấy rối. Vấn đề an ninh thiệt ớn óc! Bởi vậy, cầm sự vụ lệnh trong tay về bình định quận TG. vị chỉ huy cần có mưu lược tài trí. Có lẽ chỉ có 2 loại người: loại to gan, lớn mật, và loại sau, thê thảm hơn, bị… đì.
*
Lực Lượng và phối trí: VNCH. (khoảng 1,200 quân)
TĐ 230/ĐPQ có 5 Đại đội (ĐĐ) cơ hữu. gồm 1 ĐĐ chỉ huy công vụ, 4 ĐĐ tác chiến và 2 ĐĐ biệt lập (tăng phái), thêm 7 trung đội nghĩa quân. Ghi chú thêm về NQ. của tiểu khu Phan Thiết, đặc biệt chi khu TG. là trong khoảng thời gian dài 20 năm ròng rã, sống mái với việt cộng để bảo vệ địa phương của họ, những người lính nghĩa quân nơi đây dạn dày kinh nghiệm và rất thiện chiến, họ đã nhiều phen gây tổn thất nặng cho đối phương, ghi nhiều chiến công.
1 trung đội Cảnh sát dã chiến.
1 đoàn cán bộ Xây Dựng Nông Thôn (lực lượng áo đen)
Chỉ huy trưởng mặt trận là Tiểu đoàn trưởng (TĐT) - Tiểu đoàn (TĐ) 230/ĐPQ kiêm xử lý thường vụ chi khu trưởng chi khu Thiện Giáo, Đại úy Mai Vi Thành, tức Thành Râu, tuy nhiên các chiến hữu và dân chúng Phan Thiết hầu như ai biết ông, đều thân thương gọi "Anh Ba". Anh Ba vốn là cựu TĐT- TĐ 202/ĐPQ đóng tại Cây Táo, trên Quốc lộ 1, nhưng theo yêu cầu của các binh sĩ TĐ 230, được tiểu khu điều động về thế người tiền nhiệm là Thiếu Tá Thổ Thiêm, người gốc Chàm, một vị đức độ, can đảm, chỉ huy giỏi, nhưng phải giải ngũ sau 3 lần lưu ngũ.
- Tiểu đoàn phó 230/ĐPQ là Đại úy Trần Đăng Thiệt, vì 230 phải chuyển sang phòng ngự, bảo vệ khu vực nên ngoài các Đại đội trưởng, phó, tương đối còn đầy đủ nhân sự các phòng ban 1,2,3,4,5 và truyền tin.
Phía địch: Theo nhiều tin tình báo ở thời điểm này, tuy không đủ thời gian kiểm chứng chính xác, nhưng qua khai thác tù binh được biết, quân số ước lượng vào khoảng 2 trung đoàn của lực lượng vũ trang quân khu 6, hơn 5,000 quân? Với toàn bộ du kích miền cao nguyên 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, trong đó Trung đoàn 812 là nỗ lực chính, và 1 trung đoàn tân lập, được điều động vào trận nhằm dứt điểm quận Thiện Giáo, xóa sổ TĐ 230. Ngoài pháo binh với đầy đủ đạn dược tiếp vận từ mật khu, loại xe tăng V100 được ngụy trang thành T54 khá đe dọa tâm lý, mặc dù sau đó người lính ĐPQ - NQ. TĐ 230 đã chứng tỏ cho thấy dù địch có xe tăng nhưng cũng không làm khó được họ.
Phối hợp: Chi khu Thiện Giáo phối hợp hàng ngang với chi khu Định Quán, địa đầu của tỉnh Xuân Lộc. Địch tấn công Định Quán cùng lúc với chi khu TG. Thiếu Tá Lê văn Chánh, cũng là người bạn thân của anh Ba, nắm quận trưởng kiêm chi khu trưởng Định Quán đã anh dũng tử trận. Việt cộng dùng pháo 100 ly trên xe tăng T59, bắn trực xạ vào hầm chỉ huy sau khi chúng loa gọi nhưng ông thà chết không hàng. Thiếu Tá Chánh hy sinh lúc đang liên lạc vô tuyến với trưởng chi khu TG.
Sơ đồ phòng thủ Chi Khu Thiện Giáo
* Lúc 3 giờ sáng khoảng ngày11, 12. Với quyết tâm “giải phóng” TG. hay cứ điểm Ma Lâm, vc. mở màn bằng trận pháo mù mịt vào tất cả mọi vị trí, công sự các đại đội, đặc biệt quả pháo 155 ly đầu tiên rót vào bộ chỉ huy tiểu đoàn, được báo cáo là chui xuống gầm xe của anh Ba nhưng... không nổ. Sau cơn mưa pháo, địch tổ chức nhiều đợt tấn công biển người, chúng vừa phát loa kêu gọi đầu hàng, vừa ồ ạt đánh vào từ mọi mặt đông tây nam bắc nhằm cắt rời các đại đội ra, không tiếp ứng được nhau. Mặt tây bắc của Đại đội 2 (ĐĐ2) do Trung úy Sanh trách nhiệm chịu áp lực nặng nhất bởi vị trí phòng thủ nằm án ngữ nơi trục giao thông chính của liên tỉnh lộ 8, tuy nhiên, như 1 phép lạ, quân trú phòng vẫn đứng vững sau nhiều phen bị cường tập. Vc. sau mỗi đợt pháo luôn cố gắng tràn ngập nhưng lần nào cũng “chém vè”, phải rút ra với tổn thất không ít về nhân mạng, và cho đến khi tàn cuộc vẫn không chiếm được các cứ điểm. Trong lửa cháy lẫn mùi thuốc súng khét lẹt… Anh Ba nhận định với các ban về những tuyên truyền láo từ chính trị viên cs. nhồi vào đầu cán binh của họ, như tinh thần hốt hoảng, lo sợ, mất bình tĩnh của các chiến sĩ ĐPQ & NQ, QL - VNCH sẽ tiếp tục tháo chạy khi nghe tin “quân giải phóng” đến, đã không xảy ra giống như ở ngoài vùng 1, 2. Ông cười cho biết, chúng đâu ngờ quân dân Bình Thuận của chi khu TG từ quan đến lính, đã rất tỉnh táo, kỷ luật, súng đạn đầy đủ, nghiêm chỉnh chờ sẵn. Địch vào đến đâu bị đốn ngã như sung tới đó. Chiếc tank đầu tiên của vc. nhằm uy hiếp tinh thần bị người lính ĐPQ dùng M72 bắn cháy được thông báo cho nhau làm nức lòng mọi người”.
Nhiều người dân TG., sau này kể lại trận đánh tháng tư vẫn hả hê, cho đây là 1 trận thắng lớn, để đời của các chiến sĩ ĐPQ - NQ của QL - VNCH, vốn bị chế diễu là lính "Địa...phao câu", lính... vườn.
Anh Ba cho biết trận TG, với quyết tâm cao độ, ai cũng kiên cường, thà chết để bảo vệ khu vực trách nhiệm của mình cách thần kỳ, mọi người đã anh dũng chống trả, bẻ gãy mọi mưu toan, và đứng vững sau nhiều xung phong cảm tử của địch. Chiến thắng này cho thấy người lính ĐPQ và NQ của chi khu Thiện Giáo xứng đáng được nhận huân chương tiêu biểu, vinh danh cho truyền thống bảo vệ làng xã trên toàn lãnh thổ.
Trận đánh kéo dài cho tới ngày thứ 3, dù tất cả những vị trí, công sự hư hại nặng nhưng người lính ĐPQ & NQ, QL - VNCH tinh thần vẫn cương quyết một lòng, điềm tĩnh tử thủ khi giờ phút thứ 25 đang cận kề.
Tin từ các nơi gọi về...
- Trình Đại bàng, tụi nó chết la liệt, nhiều lắm, có thâu lượm chiến lợi phẩm không?
- Chỉ thu lượm súng đạn, trang bị ngược lại cho mình.
Sau nhiều vô vọng liên lạc về bộ chỉ huy tiểu khu, cuối cùng Anh Ba cũng được biết dân tị nạn từ phía bắc đã về tới thị xã Phan Thiết? toàn bộ tiểu khu Phan thiết với 6 tiểu đoàn đã di tản chiến thuật? Bằng tàu hải quân, một số ra đảo Phú Quý, số khác về Vũng Tàu. Một trung sĩ trước khi cúp máy cho biết không còn bất cứ giới chức nào để ra lệnh, dĩ nhiên không tiếp vận, không yểm trợ, và thẩm quyền phải tự xoay sở lấy... Cánh quân của TĐ. 230/ĐPQ như vậy đã chiến đấu đơn độc ngay trên đầu tuyến, “nhất kiếm trấn ải” trực diện với quân số vượt trội hơn nhiều lần của cs., để làm chậm bước tiến địch?
Đơn độc nhưng lẫm liệt, hào hùng!
Thời điểm ngày cuối, vc. sau nhiều lần tấn công thất bại, với tổn thất nặng nề, chúng ngưng tấn công, đánh giặc nước miếng! vác loa réo liên tục, yêu cầu, đích danh tên người chỉ huy "anh Ba" và các binh sĩ "ngụy": ”các anh đã bị bao vây, mau buông súng, trở về với ... nhân dân, cách mạng sẽ khoan hồng!” (sic).
Kinh nghiệm cho ông biết chúng đang tập họp, chỉnh đốn hàng ngũ, bổ xung cho 1 đợt cảm tử mới, nhất quyết dứt điểm?
Trong khi giao tranh, ban 4 nhận lệnh tổng kết đạn dược, cho biết trang bị cho 1 người chỉ còn giới hạn không đủ để bảo vệ chính mình. Tình hình bi đát, sớm muộn sẽ bị tràn ngập? Anh Ba đã ra lệnh cho 4,5 mũi thăm dò để thoát ra, hầu hết đều bị khóa! lúc này chung quanh chi khu TG. việt cộng đông như đàn kiến, áp lực dày đặc từ mọi hướng. Tuy vậy, cuối cùng, một toán trinh sát cũng tìm được sinh lộ cho toàn quân. Trong âm thầm, tất cả các đại đội được lệnh len lỏi, triệt thoái về phía đông, băng ngang qua QL.1, xâm nhập thẳng vào... mật khu Lê Hồng Phong của địch. Ông đã binh pháp đúng, "tìm đường sống nơi tuyệt lộ", có cách nào tuyệt vời hơn để dưỡng sức cả nghìn quân ngoài chính mật khu của việt cộng, sự tiên đoán chính xác sau khi thẩm định các tin tức tình báo về việc lực lượng cộng sản đã hối hả rời khỏi mật khu Lê Hồng Phong, dốc toàn lực nam tiến, nương rẫy vắng bóng, chúng để lại mọi thứ hầu như nguyên vẹn, người lính tìm được ít lương khô dán mác tàu cộng, đủ để nuôi quân ta được khoảng...1 ngày.
Đạn dược và thực phẩm luôn là thứ cần thiết nhất.
Sau đó, tất cả mọi người được lệnh rời khỏi mật khu, theo đường chim bay, tiếp tục triệt thoái về phía nam.
Giải tán: Khoảng 2 ngày sau đoàn quân về tới tiểu khu Phan thiết, anh Ba bàn bạc với các cấp chỉ huy tiểu đoàn và đi đến quyết định cuối cùng. Trưa ngày 18 tháng 4 ông ra lệnh cho mọi người buông súng, tan hàng, ai về nhà nấy. Lý do, hết lương thực, đạn dược.
Đoạn kết: Sau ngày 30-04-1975, truyền đơn rải từ quận Hàm Thuận, Phan Thiết xuống tới Khu rừng lá ở Hàm Tân, cây số 25 tỉnh Bình Tuy, vào đến Ngã ba Dầu Giây thuộc tỉnh Long Khánh, kêu gọi đồng bào và các cựu quân nhân đầu quân, tìm vào chiến khu "Rừng Lá" để kháng chiến, tiếp tục chiến đấu chống cs. Tờ truyền đơn ký tên Đại tá Ngô Tấn Nghĩa và Đại úy Mai Vi Thành như một xác tín nhằm kêu gọi phục quốc. Dù thật hay giả hoặc phản gián, những tờ truyền đơn này đã trực tiếp vinh danh "Anh Ba", người hùng Bình Thuận, người đã gây cho du kích cộng sản nhiều khiếp đảm, kinh hoàng qua trận đánh cuối cùng tại Thiện Giáo. *** Anh Ba còn cho biết thêm, khi TĐ 230/ĐPQ về tới Phan Thiết, việc đầu tiên là tìm đến kho đạn của tiểu khu để bổ xung vũ khí, trang bị... trong đầu ông đã hình thành một tuyến phòng thủ mới, chuẩn bị ngăn địch vào thị xã, nhưng khốn thay, cả kho đạn cũng đã được di tản? Ông bất lực, ngao ngán nhìn thị xã Phan Thiết lúc đó coi như đã hoàn toàn bỏ ngỏ, và địch thì vẫn chưa vô tới! Thiệt tình!
Sau khi toàn quân ”giải tán”. Anh Ba và mấy người anh em thân thương, tìm ra phía biển...
- “Mai về đâu mảnh cơ đồ,
Các Anh gian khổ cam go giữ gìn?”
Thơ Ý Nga (Trận tàn, ta vẫn chưa thua)
Ghi lại theo lời tường thuật của “Anh Ba”, Tiểu đoàn trưởng – TĐ 230 Địa phương quân, Đại úy Mai Vi Thành. Ở vào tuổi này, ông chỉ mong lớp con cháu, hậu duệ luôn nhớ đến cha ông, một lần kia đã chiến đấu kiêu hùng để bảo vệ miền nam thân yêu. Mỗi năm, khi tháng tư về, dành đôi phút, cùng nhau tưởng niệm đến những chiến sĩ VNCH đã “vị quốc vong thân”, những đồng bào đã hy sinh vì lý tưởng Tự Do, được vậy là quý lắm.
Tháng tư, mùa quốc hận, 2018.
Trần Kim Bằng
Chú thích:
* Cựu Tổng thống Bush phát biểu trong một cuộc phỏng vấn.
** Như đã nói, các vị được chỉ định về nắm quận trưởng TG. thời gian này đều... rét vì 3,4 vị tiền nhiệm TG. khi về nhậm chức đều bị tử thương hay hy sinh ngay khi còn tại vị. Thiện Giáo với nhiều làng xã xôi đậu nên địch biết mọi chuyện phía ta, chúng có sẵn “đề lô” trong dân và pháo từ bên kia sông cứ rót vào bộ chỉ huy chi khu quận, sau đó rê chạy, các quận trưởng cựu hay mới về TG. tuổi thọ chỉ là may mắn. Quận trưởng quanh năm uống cà phê...dưới hầm. Anh Ba vốn gốc tác chiến nên coi đây là chuyện nhỏ, ông chỉ thị cho 2 trung đội trinh sát và tình báo giả dạng du kích vc., vác AK lẻn qua bên kia sông trà trộn chung với chúng, vài ngày là giải quyết xong vụ nổ pháo chạy. Khi ông về xử lý thường vụ chi khu TG. thế cho Thiếu Tá Nguyễn văn Lợi (bị thương vì pháo địch, về dưỡng thương ở Tổng Y viện Cộng Hòa), chỉ cần vài tuần là bình định, yên ổn.
*** Điểm qua sách báo việt cộng về trận Thiện Giáo, chỉ thấy có 1 bài vinh danh 1 người đại đội trưởng vc. đánh thắng trận nào đó rất chung chung ở khu 6, Phan Thiết, và thậm chí không nhắc đến tên Thiện Giáo trong những bài viết. Một số chi tiết về lực lượng, tên gọi (quân đoàn, khu…) cộng sản được tham khảo và trích từ báo SGGP cũ, nguồn VTV, nhưng hiện nay các nguồn link gốc của họ đã hết xử dụng được.
- Bản họa đồ vị trí đóng quân của ta và các mũi tấn công của địch.
- Hình ảnh internet (minh họa): Các chiến sĩ xây dựng nông thôn, và 2 người sĩ quan Địa Phương Quân (dưới).
https://trankimbang.wordpress.com/2018/ ... -kim-bang/
https://hon-viet.co.uk/TranKimBang_Tran ... Tu1975.htm - “Giọt mưa Cali rớt vào ký ức
Re: Ngày Tàn Cuộc Chiến - III - Vĩnh Biệt Nha Trang
-
Ngày Tàn Cuộc Chiến - III -
Vĩnh Biệt Nha Trang
________________________
Lời tác giả:
Đây là một hồi ký chiến trường ghi lại những biến chuyển cũng như những giây phút cuối cùng về cuộc di tản của phi đoàn trực thăng 215 Thần Tượng trú đóng tại Nha Trang, Không Đoàn 62 Chiến thuật, cùng với những kỷ niệm của một hoa tiêu trong những tháng năm phục vụ tại thành phố này.
Những chi tiết cũng như tên tuổi trong bài hồi ký này đã được viết lại hoàn toàn trên sự thật, vì thế nếu có gì sai trái thì xin tất cả các Niên Trưởng cũng như các chiến hữu và độc giả tha thứ.
Bài này để tưởng nhớ đến anh Trần Văn Vân, một người bạn thân, một khóa sinh xuất sắc đã tử nạn tại trường bay Fort Hunter, Georgia, trong một phi vụ huấn luyện.
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215, Thần Tượng
Vài Dòng Sơ Lược:
Khi thành phố Ban Mê Thuột thất thủ ngày 13 tháng 3 năm 1975, toàn bộ vùng Cao Nguyên hầu như đã lọt vào tay của CSBV. Hai Sư đoàn F10 và Sư đoàn 320 của Cộng quân thừa thắng, tiến quân dọc theo Quốc lộ 21 về hướng đông. Mục tiêu kế tiếp của Bắc quân là tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Hai trung đoàn của Sư Đoàn 23 Bộ Binh đóng quân tại Pleiku tức tốc được không vận xuống quận Phước An cách Ban Mê Thuột 12 km hướng đông bắc, để làm bàn đạp phản công tái chiếm. Cuộc chuyển quân đang tiến hành tốt đẹp thì được lịnh hủy bỏ, cùng với quyết định rút tất cả chủ lực quân của Quân Đoàn II từ Kontum và Pleiku về vùng duyên hải, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu họp khẩn cấp với các tướng lảnh tối cao tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975.
Để ngăn chận sự bành trướng của Bắc quân từ vùng Cao Nguyên, Quân Đoàn II chỉ thị Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tăng viện cho Trung Đoàn 40/SĐ22 Bộ Binh và hai tiểu đoàn Địa Phương Quân, trải dài tuyến phòng thủ từ quận Khánh Dương đến đèo Phượng Hoàng, dọc theo QL- 21, con đường nối liền hai tỉnh Đắk Lắt và Khánh Hòa.
Cuối tháng 3, 1975 nút chặn chiến lược này bắt đầu lung lay dưới sức áp đảo dồn dập của địch quân với một quân số đông đảo gấp bội phần, trang bị đầy đủ xe tăng, pháo binh hạng nặng. Mặc dù được trấn thủ bởi một đơn vị thiện chiến nhất của QL/VNCH nhưng vì thiếu hụt đạn dược, vũ khí nặng cũng như lương thực, mãnh hổ nan địch quần hồ, phòng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã hoàn toàn tan vỡ ngày 2 tháng 4/ 1975. Hơn ba tiểu đoàn thiện chiến nhất của quân đội miền Nam, quân số khoảng vài ngàn người chỉ còn lại hơn năm ba trăm người rút lui được bằng đường bộ về tới Nha Trang.
Mục tiêu đã mở rộng trên đường tiến quân của Bắc quân. Nha Trang hầu như bỏ ngõ cho bước chân của đoàn quân xâm lược, không một đơn vị chủ lực quân nào còn lại được chỉ thị để phòng thủ, bảo vệ. Con đường tiến chiếm trọn miền duyên hải của CSBV, cũng như những phần đất còn lại chỉ còn là yếu tố thời gian…
- Nếu một mai ra đi không trở lại
Nha Trang ơi, xin vĩnh biệt cùng người.
Đời phi công vẫy vùng trong bão lửa
Đứa ra đi …đứa gãy cánh ngang trời.
M.r.
Con Đường Rộng Mở …
Làm thủ tục tắt máy tàu xong, tôi gỡ chiếc nón bay ra khỏi đầu treo sau lưng ghế bay, đẩy tấm thép chắn đạn lùi về phía sau mở cửa nhảy xuống đất. Trên mặt bãi đậu trực thăng được lót bằng những tấm vỉ sắt ghép lại, hơi bốc nóng lên dưới ánh nắng chói chan ban trưa tạo thành một ảo tưởng của một tấm gương lung linh, sinh động. Cách chỗ tôi đứng không xa là chiếc trực thăng võ trang số hai của phi đoàn Thần Tượng đang đậu, cánh quạt còn quay chầm chậm, chưa ngừng hẳn. Thấy Trung Úy Thành “Râu” trên đang miệng phì phà điếu thuốc lá cùng người hoa tiêu phụ vừa mở cửa bước xuống tàu, tôi bước nhanh tới chỗ hai người.
- Này Thành…, tao vào thăm ông anh một chút, nghe nói ổng phục vụ tại Dục Mỹ này mà tao chưa có dịp ghé. Mày chờ ngoài này, nếu cần cất cánh gấp thì cứ quay máy trước, tao chạy ra ngay.
- OK,… đi đi …
Nghe Thành trả lời xong, tôi quay người bước vội vã ra khỏi bãi đậu trực thăng, chạy băng qua bãi đất trống trước mặt, đến con đường nhựa dẫn tới một cái cổng gác lớn, bằng xi măng quét vôi trắng, trên tường viết: Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân. Tôi tiến đến gần một người lính đang đứng gác.
- Chào anh…, anh có biết Trung Tá Vĩnh Nguyên hiện đang ở đâu không anh?
Người lính gật đầu, xong đưa tay chào rồi quay người chỉ về phía trong trại.
- Ổng đang ở căn trại thứ ba, đằng kia kìa.
Tôi chào cám ơn rồi cắm đầu bước nhanh qua cổng trại theo con đường trải nhựa đen. Trong trại im lặng và vắng vẻ một cách bất thường, một vài người lính rảo bước đây đó. Hàng dương liễu trồng thẳng tắp bên đường, soi bóng mát xuống một dãy barrack tường sơn màu vàng, mái lợp tôn nằm sát bên nhau. Đến căn trại thấy cửa chính hé mở, tôi đẩy nhẹ bước vào. Một người đàn ông tóc húi cua trong bộ đồ rằn ri Biệt Động Quân, trên cổ áo mang hai bông mai bạc, đang ngồi im lặng bất động sau một bàn giấy thật rộng giữa căn phòng trống trải. Tôi nhận ra ngay người anh chú bác ruột đã bao năm không gặp.
- Anh Nguyên!
Ông anh tôi ngẩng đầu lên chau mày nhìn. Có lẽ đã nhận ra tôi, anh bước tới miệng nở nụ cười hai cánh tay dang rộng.
- Trời…, em.., ngọn gió nào đã thổi em đến nơi này?
Đứng trước mặt là một là một khuôn mặt quen thuộc tôi còn nhớ rõ khi tôi đang còn là một học sinh, anh trở về thăm nhà từ mặt trận bận bộ đồ trận đeo phù hiệu đầu cọp đen nhe răng, hai bông mai vàng sáng chói trên cổ áo. Nghe nói sau một thời gian tác chiến cho binh chủng Biệt Động Quân, anh đã được biệt phái về Cảnh Sát Đô Thành theo nhóm của Tướng Nguyễn Ngọc Loan, giữ chức vụ khá quan trọng nào đó tại Sài Gòn. Sau vụ thất sủng của Tướng Loan trong vụ xử bắn tên đặc công Việt Cộng “Bảy Lốp” tại Chợ Lớn trong vụ biến động Mậu Thân, anh được chỉ định về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ này. Từ đó cuộc đời binh nghiệp của anh coi như là “dậm chân tại chỗ”. Tôi nhìn khuôn mặt của anh bây giờ có vẻ rắn rỏi, dày dặn sương gió hơn nhưng vẫn còn giữ được nét phong độ như ngày nào.
- Dạ…, em đáp đây chờ phi vụ yểm trợ cho tiểu đoàn Dù đóng trên đèo Phượng Hoàng, nhân tiện em ghé thăm anh. Anh Nguyên, lâu quá em chưa được gặp lại anh, anh vẫn mạnh khỏe chứ?
- Cám ơn em, anh vẫn thường. Chú thím có khỏe không em?
- Dạ…, vẫn khỏe anh ạ.
Tôi chưa kịp nói tiếp thì anh đột ngột hỏi tôi:
- Này, em đi bay trên vùng thường chắc rõ, nghe nói tình hình trên Khánh Dương bi đát lắm phải không?
- Đúng như vậy, chắc không xong rồi anh ạ…. Ba bốn ngày trước Tiểu Đoàn 5 Dù bị đánh tan hàng ở Khánh Dương rồi. Hiện tụi nó đã đến sát chân đèo Phượng Hoàng ở cách đây có mấy chục cây số thôi. Em ghé vào đây cũng có mục đích là hỏi anh có muốn rời khỏi đây không? Theo em nghĩ là anh phải tính trước đi, coi chừng kẹt lại đó. Hay là anh theo tàu em về Nha Trang lo cho hai bác và mấy anh chị? Nếu anh đồng ý chút thì nữa xong phi vụ em sẽ ghé đón anh.
Anh mỉm cười, đượm trong ánh mắt tôi thoáng thấy phảng phất một nỗi buồn xa vắng. Anh bước tới choàng vai tôi rồi lắc đầu:
- Không được đâu em,… anh phải chờ lệnh cấp trên, không phải dễ dàng như em nghĩ đâu. Em về gấp lo cho chú thím đi, cho anh gủi lời thăm tất cả nghe. Nhắn dùm hai bác là anh vẫn bình thường, đừng lo cho anh.
Chợt có tiếng trực thăng bay vù ngang trên đầu cùng với tiếng o…o…của mấy chiếc tàu đang quay máy…
- Chắc em phải đi rồi, anh ở lại.., ráng cẩn thận nghe anh.
Vừa dứt câu, tôi ôm choàng người anh họ siết chặt trong vòng tay, cố nén cơn cảm xúc đang dâng trào, tôi quay người vội vàng bước ra khỏi cửa, sải bước về hướng của hai chiếc trực thăng võ trang đang chờ.
Tại bãi đậu, hai con tàu đã quay máy, cánh quạt vùn vụt thổi bụi mù mịt. Tôi phóng lên ghế bay cánh cửa đã mở sẵn. Vừa choàng chiếc áo giáp nặng nề lên người, chưa kịp gài giây an toàn và đội nón bay lên đầu người hoa tiêu phụ đã vội vã kéo tàu rời mặt đất. Trong tiếng động ầm ĩ của con tàu tôi hét với người hoa tiêu phụ:
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Charlie (chiếc trực thăng chỉ huy) chở Bộ Chỉ Huy Dù cất cánh trước rồi, mình lên vùng gặp Charlie sẽ có chỉ thị.
Hai chiếc trực thăng võ trang nặng nề lướt trên mặt những vỉ sắt một khoảng ngắn rồi rùng mình vươn lên cao. Tôi quay mặt qua khung cửa nhìn xuống những dãy nhà mái tôn đang nằm im lìm núp bóng bên hàng dương xanh, hy vọng được thấy lại hình bóng của người anh họ tôi một lần cuối. Tàu đã lên cao, gió lộng qua khung cửa luồn vào chiếc áo bay ướt đẫm mồ hôi trên lưng. Đàng sau tôi, Trung Úy Thành “Râu” bay chiếc võ trang số hai đang bám gót ở cao độ thấp hơn, cánh quạt chấp chóa dưới ánh mặt trời. Dưới chân, con Quốc Lộ 21 đang uốn éo leo lên triền dốc của dãy núi cao trước mặt.
Vài phút sau tàu đã lên cao gần năm ngàn bộ, tôi nghiêng mình nhìn xuống con đường đèo trải nhựa đen chạy ngoằng ngòeo dọc theo sườn núi. Bên dưới là ngọn đèo Phượng Hoàng được tử thủ bởi hai Tiểu Đoàn 6 và 2 của Dù. Ngọn đèo chiến lược này còn được gọi là M’Drak, tên của một huyện lỵ nằm bên QL- 21, đa số dân cư là người dân tộc thiểu số gốc Ê đê.
Hiện tại phòng tuyến này đang bị áp lực nặng của hơn hai trung đoàn của CSBV thuộc hai Sư đoàn 968 và 320 đang trên đà chiến thắng, mở đường tràn xuống miền đồng bằng duyên hải.
Trong trận đánh bốc lửa vừa qua tại Khánh dương, địch quân đã ngang nhiên sắp hàng giữa ban ngày, hơn chục chiếc xe tăng T- 54 tấn công vào tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, không cần che dấu, ngụy trang. Những phi tuần A- 37 xuất phát từ căn cứ Phan Rang, Không Đoàn 92 Chiến Thuật, đã nổ lực yểm trợ nhưng không đủ sức ngăn cản bước tiến của một lực lượng địch quân quá đông đảo.
Trận chiến đã bùng nổ trong một hoàn cảnh hoàn toàn thất lợi cho miền nam Việt Nam, thiếu hẳn sự hậu thuẩn của đồng minh Hoa Kỳ, cán cân quân sự nghiêng hẳn về phía Bắc quân. Trên bình diện lớn hơn của cuộc chiến, ở cương vị của một hoa tiêu, tôi không đủ yếu tố để hiểu rõ nguyên nhân của những sự thất bại liên tục đang xảy ra ngoài sức tưởng tượng của tôi. Có những khi bay cao trên vòm trời nhìn xuống quê hương mịt mù khói lửa, tâm tư tôi hỗn loạn, hoang mang lo âu cùng cực khi nghĩ đến những gì sẽ xảy ra cho vận mạng của Tổ Quốc trong những ngày sắp đến.
Trong giây phút này, dưới chân tôi là một mặt trận cấp sư đoàn của địch, tôi tự hỏi hai chiếc trực trăng võ trang chậm chạp này được gủi đến đây để có mục đích thiết thực gì hơn là một phi vụ “tượng trưng”, chỉ để nâng cao tinh thần những chiến sĩ Dù đang trên đà bị tràn ngập bởi Bắc quân?
- Mãnh Hổ,… Charlie gọi,…trả lời? (Mãnh Hổ tên gọi của trực thăng võ trang phi đoàn 215, Thần Tượng).
Nghe tiếng của Đại Uý Huỳnh Râu bay chiếc C@C (tàu chỉ huy) trên tần số, tôi ngước mắt nhìn. Một chấm đen nhỏ đang bay vòng tròn mãi tít trên cao.
- Nghe…nói đi Charlie…
- Hổ cho biết vị trí.
- Đang ở trên đầu đèo Phượng Hoàng, cao độ năm ngàn bộ… nghe rõ trả lời.
- Nghe năm…, hai bạn “hold” trên đầu quân bạn, đừng bay quá chân đèo hướng bắc. Chờ chỉ thị…
Nghe Huỳnh Râu nói xong trên tần số, tôi hướng ánh mắt dưới thấp về phía trước. Xa xa hướng chân đèo, một đoàn công voa chừng sáu bảy chiếc xe nhà binh, nhỏ tí tẹo như những đồ chơi trẻ con đang nằm ngổn ngang, rải rác bất động dọc theo lề đường, hình như đã hư hại hoặc cháy đen.
- Charlie…, đây Mãnh Hổ, … đoàn xe dưới chân đèo của phe ta phải không?…
- Hổ…, đúng rồi…, đừng đến gần…, đoàn xe tiếp tế của Dù bị phục kích tối hôm qua…
- Mãnh Hổ…, thấy đám rừng nằm trên sườn đồi phía đông đoàn công voa không?… Tác xạ xuống đám rừng trên sườn đồi…, nghe rõ. Đừng vào gần quá coi chừng SA- 7…Lúc nào sẵn sàng tác xạ cho biết…nghe rõ?
Coi chừng SA- 7! … Tất cả giác quan trong cơ thể tôi bừng dậy như vừa chạm phải một luồng điện mạnh, sau câu nói của Huỳnh Râu. Cách đây khoảng hơn hai tuần lễ, một chiếc võ trang của phi đoàn 219 King Bee đã lảnh nguyên trái SA- 7 nổ tung khi đang bay yểm trợ cho cuộc đổ quân tái chiếm phi trường Phụng Dực, gần Ban Mê Thuột. SA- 7 (Strela- 2) do Nga Sô chế tạo là một loại hỏa tiễn địa- không cá nhân, bay với tốc độ siêu thanh và tầm sát hại từ năm bảy chục bộ cho đến khoảng hơn năm sáu ngàn bộ, đuổi theo hơi nóng phát xuất từ động cơ máy bay, cực kỳ hữu hiệu, nhất là đối với những chiếc trực thăng tốc độ chậm ở cao độ thấp.
- Hổ…, tin tình báo cho biết địch quân dàn quân rất đông gần chân đèo, “hold” trên đó…đừng bay về hướng bắc. Coi chừng,…cẩn thận…
Trong giọng nói của Huỳnh Râu chứa đựng một sư lo ngại và quan tâm tới sự an toàn của hai phi hành đoàn, cũng như một lời nhắc nhở của một người bạn thân đã từng chung chia hung hiểm ngọt bùi qua những năm tháng chiến đấu bên nhau. Huỳnh có khuôn mặt bậm xị, hàm râu mép dày và một thân hình khá nặng nề. Tuy là một phi công nhưng anh thích bận bộ đồ hai mảnh “nomex”, đầu đội mũ vành, vải dù. Trông Huỳnh có cốt cách của một người lính biệt kích hơn là một hoa tiêu. Anh là một trong những phi công nòng cốt, lì lợm của phi đoàn Thần Tượng trong phi đội tải quân, đã vào sinh ra tử bao nhiêu phen trên chiến trường miền Tây Nguyên. Huỳnh có một thói quen đặc biệt tôi vẫn nhớ là anh không bao giờ xài ví da. Tiền bạc giấy tờ luôn luôn bỏ trong bao ni lông. Mỗi khi cần tiền, anh lục đục móc trong túi quần lấy bao ny lông xếp hai ba lớp ra, lôi ra xấp tiền xẹp dí vì bị ngồi đè lên. Tôi tò mò hỏi anh tại sao không xài ví thì anh thản nhiên trả lời: “Tụi mình ở trên trời suốt ngày, không biết lúc nào bị bắn, nếu lỡ có… rớt xuống nước thì tiền khỏi bị ướt”. Nghe qua, không ai khỏi bật cười vì lý sự ngộ nghĩnh của anh ta.
Tôi cho con tàu bay trở lại, vòng trên cao của ngọn đèo. Dưới chân đèo hướng đông, bên phải của đoàn xe công voa nằm bất động, mảng rừng xanh đậm từ chân núi kéo dài lên đến gần tới lưng chừng rồi tiếp nối bằng trãng cỏ tranh màu vàng úa lên tới đỉnh núi, nhiều chỗ cháy nám đen vì bom đạn của những phi tuần khu trục.
Những mảnh nắng chiếu loang lổ xuống mặt rừng núi yên tĩnh, không một vật di động, ngoài những cột khói đó đây đang còn âm ỉ cháy… Con đường đèo chạy quanh co, không một chiếc xe, không một bóng người, lãng vãng đâu đó hình bóng của tử thần đang rình rập. Tất cả im lặng, bất động trong một tư thế sẵn sàng bùng nổ.
Trận chiến hình như đang bước vào giờ thứ hai mươi lăm, sự liều lĩnh táo bạo thiếu tính toán của tôi trong giai đoạn này là một hành động vô ích nếu không nói là rồ dại. Khi quỳ gối dưới lá Cờ- Vàng- Ba- Sọc- Đỏ để lãnh nhận bộ quân phục mang lên người, tất cả chúng ta đều tâm nguyện sẵn sàng hy sinh tánh mạng mình để bảo vệ Tổ Quốc, Quê Hương. Tuy nhiên theo tôi nghĩ, sự hy sinh đó cần phải cân nhắc, suy tính để đánh đổi xứng đáng công ơn của đất nước đã đào tạo cho chúng tôi được trở thành như ngày hôm nay. Tôi cần phải đặt tính mạng của hai phi hành đoàn trực thăng võ trang, những người chiến sĩ đã từng vào sanh ra tử với tôi bao nhiêu năm qua, lên hàng đầu.
Trong khoang tàu, tiếng gió lộng đập phần phật qua khung cửa mở rộng cùng tiếng máy của động cơ bán phản lực nổ đều đặn, hai người mê vô xạ thủ già dặn kinh nghiệm chiến trường đang ngồi yên trên hai thùng đạn đặt kế bên hai khẩu mini- gun sáu nòng, hai tay thủ chặt súng chỉa xuống bên dưới. Không ai nói một lời, nét mặt khẩn trương, căng thẳng. Người hoa tiêu phụ ngồi bên ghế trái, mắt nhìn vào đồng hồ phi cụ, tay phải để trên nút vặn của hộp điều hành vũ khí (armament control box) ở giữa hai ghế bay.
Kim đồng hồ cao độ đang chỉ khoảng năm ngàn bộ. Theo địa thế hiện tại, chúng tôi thực sự chỉ ở cao độ gần ba ngàn bộ đối với mặt đất, trong tầm sát hại của hỏa tiễn địa không SA- 7.
Theo kinh nghiệm đã qua với địa thế này chỉ còn một con đường độc nhất là bay sát trên đầu quân bạn, ẩn núp sau những triền núi quanh co.., oanh kích từ xa đến. Chiến thuật này tương đối an toàn, tuy nhiên hơi khó khăn cho hai chiếc trực thăng phải xoay xở tránh né trong một khoảng không gian khá nhỏ hẹp, nằm kẹp giữa hai sườn núi dốc cao.
Không có sự lựa chọn nào hơn, tôi thông báo cho chiếc số trực thăng võ trang số hai đang theo sau.
- Hổ hai đây Hổ một…
- Nghe…, nói đi…
Tiếng nói của Trung Úy Thành Râu bay chiếc Hổ số hai nghe trên tần số. Thành là một wingman (chiếc bay theo sau) gần gũi nhất của tôi trong phi đội trực thăng võ trang của phi đoàn Thần Tượng. Chúng tôi rất biết ý nhau, nói ít hiểu nhiều.
- Thành,…mình sẽ bay “low level” sát trên đường đèo đánh xuống nghe rõ.
Tôi chỉ nghe tiếng xè trong tần số của Thành trả lời.
- Hổ hai.., nhớ sau khi tác xạ, phải quẹo gắt 180 độ, đừng bay lố khỏi đèo…, coi chừng đụng núi…nghe rõ?…
- Hai nghe năm…
Hổ hai vừa trả lời xong, tôi đè mạnh cần cao độ, đẩy tay lái, con tàu đầy xăng và đạn dược nặng nề chúi mũi quay vòng trôn ốc, rơi nhanh như hòn đá cuội, đường đèo cùng vách núi dâng lên vùn vụt. Trong khoảng khắc, chiếc trực thăng đã lài sát mặt đường nhựa đen. Những chiếc thiết vận xa cắm đầy cành lá xanh, ẩn núp dưới tàng cây, sau tảng đá, những hố cá nhân còn phơi màu đất đỏ mới toanh, dần hiện rõ cùng với những người lính Dù lấp ló trong những công sự dọc theo con đường đèo. Cho tàu bay thấp ngang mặt đường, trên thung lũng giữa hai triền núi về hướng chân đèo. Sau lưng trên cao, chiếc Hổ hai đang xoắn ốc giảm cao độ.
- Charlie!…Hổ sẵn sàng…
Thông báo cho chiếc tàu chỉ huy xong, tôi kéo hết tốc độ, con tàu chúi mũi lao nhanh về hướng mục tiêu. Cảnh vật bên dưới thân tàu cùng con suối cạn, oằn èo trong thung lũng hẹp lùi vùn vụt về phía sau. Trong khoảng khắc trước mũi tàu, hiện rõ đoàn xe cháy nám đen trên đường dưới chân đèo cùng với những xác người nằm vương vãi. Kéo con tàu vươn lên vừa đủ, tôi chúi mũi phóng tất cả hỏa lực về hướng địch. Những trái hỏa tiễn vội vã rời dàn phóng, rít lên những âm thanh chói tai, lao xuống mục tiêu nổ bung. Những cụm khói trắng xám vương lên trên mặt rừng xanh. Tai nghe nhiều tiếng nổ lốp đốp của địch bắn trả, tôi kéo hết cần lái về phía trái, con tàu nghiêng mình quẹo lại 180 độ, lài sát trên mặt rừng cành lá cây xanh trên triền núi. Người xạ thủ nhoài hẳn người ra ngoài, hai tay trên khẩu súng bóp cò. Khẩu súng mini- gun sáu nòng quay tít, kêu như bò rống. Ở một góc độ quá nghiêng của thân tàu, những viên đạn lửa tua tủa bay vào khoảng không hướng lên trời. Thần kinh tôi căng thẳng tột độ khi con tàu nghiêng mình quay đầu đưa đuôi về hướng địch, ống thoát (exhaust pipe) của máy phản lực nóng đỏ trên lưng tàu là miếng mồi hấp dẫn cho mấy hỏa tiễn tầm nhiệt đang ẩn núp, rình rập đâu đó. Trên mặt mồ hôi đổ hột, tôi nhìn chiếc Hổ hai của Thành Râu đang bay ngược chiều ngang mặt đường đèo, trên con suối cạn.
- Hổ hai…, bắn hết tất cả, một “pass” thôi…, coi chừng đừng bay lố…
Nhìn ngang qua tấm thép chắn đạn bên khung cửa tôi thấy vài người lính Dù đang đứng hẳn lên khỏi hố cá nhân, hai tay cầm súng lên khỏi đầu làm một cử chỉ như cổ võ chiếc trực thăng đang bay vèo ngang trước mặt. Tôi đưa tay vẫy chào đáp lễ những người hùng Mũ Đỏ.
Cho con tàu quẹo gắt lại trên đầu con suối cạn kẹp giữa hai vách núi, nối đuôi với chiếc Hổ hai đang lao đầu xuống chân đèo phóng những trái hỏa tiễn xuống mục tiêu bên dưới. Trên mặt rừng xanh, giữa những cụm khói bốc lên cao vì những đầu đạn hỏa tiễn của Thành, một tiếng nổ dữ dội như một trái bom lửa lớn bốc lên cao.
- Charlie!…Hổ một gọi,…Thấy tiếng nổ phụ không Charlie?…Nghe không Huỳnh…, Charlie?
- Chờ chút Hổ một…, OK…, Hổ một nghe không? Hay lắm…, hay lắm…, rockets trúng ổ chứa đạn, hay xe nhiên liệu của địch …, nghe rõ không?
Mắt dán vào đám cháy khói đen tỏa rộng vươn lên cao, tôi cho con tàu lướt tới yểm trợ cho chiếc tàu của Thành đang quẹo lại. Bỗng trên mặt rừng, hai ba cột khói trắng nhỏ như từ đuôi của mấy hỏa tiễn phụt lên cao, tôi hét trên tần số:
- Hổ hai…, Hổ hai.., coi chừng…, SA- 7…, SA- 7,…Break!…, break!….
Vừa dứt lời tôi phóng vội vã những trái hỏa tiễn còn lại xuống hai cột khói trắng đang còn lơ lững treo trong không khí, xong tức thì bẻ lái con tàu quay trở lại. Con tàu nghiêng hẳn, cách quạt đập vào không khí kêu phành phạch, thân tàu rung bần bật như đang lên cơn sốt, lài dọc theo vách núi dưới con đường đèo.
- Ầm…, Ầm…, Ầm…
Nhiều tiếng nổ chát chúa bất thần nổ bung trên hai bên triền núi trước mặt con tàu. Tôi la lớn trên tần số:
- Pháo,…pháo,…pháo kích…
Những mảnh đạn từ những trái đạn đại pháo bay xé không khí rít lên âm thanh khủng khiếp. Bụi mù cùng đất đá, cây lá tả tơi, rơi rào rào xuống mặt đường đèo.
Àm…, Ầm…, Ầm… Tôi ngước đầu lên nhìn hai bên sườn núi cao. Những đạn pháo nổ ầm liên tục rơi dọc hai bên sườn đồi, giữa con suối, trên mặt lộ, rơi như mưa xuống tuyến phòng thủ của quân bạn. Tôi kéo hết tốc lực, chiếc trực thăng cắm đầu bay theo dọc thung lũng về hướng Nam, len lỏi giữa những đám khói đen xám vừa mới bốc lên. Những tiếng nổ ầm liên tục vang vọng từ đàng sau đuôi sau hai con tàu. Địch đã bắt đầu mở cuộc tổng tấn công vào phòng tuyến cuối cùng của Dù. Trên bầu trời cao không còn thấy những chiếc pháo đài bay B- 52 của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đến trải thảm bom như mùa hè đỏ lửa năm 72 nữa. Những người lính Dù đang sắp đối đầu một địch thủ có tầm vóc quá chênh lệch và không hề biết rằng họ sẽ không còn được một sự tăng viện nào từ hậu cứ. Họ phải chiến đấu đơn độc với những gì còn lại và với một lòng dũng cảm vô biên của những người lính trong Binh chủng Nhảy Dù. Máu của họ đã đổ và sẽ đổ xuống trên ngọn đèo ác liệt này cho quê hương một lần nữa, có thể là một lần cuối cùng. Trận chiến đã ngã ngũ trước khi nó sắp bắt đầu.
- Hổ, Hổ…, rời vùng,…về đáp Nha Trang nghe rõ…Hổ?
Tiếng Huỳnh Râu la to trên tần số.
- O K…, Hổ rời vùng…, nghe năm.
Hai chiếc trực thăng của Thần Tượng vừa ra khỏi núi, lên cao độ hướng về Nha Trang. Con lộ QL- 21 dưới chân, một khung cảnh hiền hòa thanh bình khác hẳn, vùng đồng bằng Dục Mỹ hướng về quận Ninh Hòa, vài ngôi xóm nho nhỏ êm ả dưới ánh nắng chiều bên những khóm tre xanh, con suối nhỏ uốn lượn giữa những mảnh ruộng khô vuông vức, bình thản vô tư trước chiến cuộc đang lan tràn trên quê hương.
- Hổ một đây Hổ hai…
Tiếng Thành Râu trên tần số riêng của Mãnh Hổ.
- Hai.., Hổ một nghe….
- Lúc nảy có phải SA- 7 bắn theo Hổ hai không? Thành hỏi.
- Không phải…, tao lầm. Nếu đúng là SA- 7 bắn thì mày không còn mạng tới giờ này đâu… Hổ hai, rockets mày đánh trúng cái gì của tụi nó, nổ lớn lắm thấy không?
Tiếng xạch xè trên tần số xen lẩn tiếng Thành Râu:
- …không thấy…, bắn đại xuống rừng, chắc là chó ngáp phải ruồi…ha ha…Thành Râu cười lớn trên tần số.
Tôi không còn cười nổi, nói tiếp:
- Tình thế không xong rồi. Tao cần về Nha Trang gấp để lo di tản cả gia đình tao đang còn ở đó. Phải lo trước khi tui nó đến không thì muộn, trở tay không kịp. Tao không muốn chuyện xảy ra như mấy thằng bạn ở Đà Nẵng.
- Chuyện gì xảy ra cho tụi nó?
- Chiều về tao kể cho.
Tôi chấm dứt điện đàm với Thành. Lòng nóng như lửa đốt, tôi rít hơi thuốc thật sâu rồi quay đầu thở mạnh ra khung cửa. Bất chợt trong đầu tôi hiện lên hình ảnh thằng bạn cùng khóa mới gặp lại tuần lễ trước đây, Hào Gàn! Tại sao tôi lại quên hẳn thằng bạn thân đang ngồi chờ tôi ở nhà. Tôi nhổm thẳng người dậy, tay vỗ bộp vào đùi. Người hoa tiêu phụ đang cầm cần lái, quay qua nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì vậy anh?
Tôi không muốn người hoa tiêu phụ biết những gì tôi đang nghĩ:
- Không…, đâu có gì?
Cách đây vài tuần lể, Hào, phục vụ cho Phi Đoàn 239 Hoàng Ưng tại Đà Nẵng, dẫn năm chiếc biệt phái cho cuộc không vận Sư Đoàn 23 tái chiếm Ban Mê Thuột. Vài hôm sau cuộc chuyển quân bị hủy bỏ, Hào trong chức vụ biệt đội trưởng, cùng hợp đoàn năm chiếc trực thăng được lệnh về tạm trú tại Không Đoàn 62 Chiến Thuật, ở Nha Trang, yểm trợ cho mặt trận Tuy Hòa. Nhiều ngày sau đó, tình thế càng hỗn loạn, lệnh lạc bắt đầu rời rạc, không còn chặt chẽ như trước, biệt đội của Hào hầu như bị lãng quên. Nhiều ngày anh bạn tôi ngồi không, chờ tại phi trường và chờ…tôi đi hành quân về để hai thằng đi ăn chơi. Hào đã từng nói với tôi nhiều lần rằng biệt đội này bây giờ như cây chùm gởi, không ai kiểm soát, mấy chiếc tàu này trong tay của Hào, muốn bay đâu thì bay. Tôi tin tưởng Hào “gàn” sẽ giúp được gia đình tôi hơn mười mấy người, rời vùng lửa đạn nay mai.
Ngửa người vào lưng ghế bay, tôi phun ra làn khói thuốc dày đặc, những quan tâm lo lắng như đã theo làn khói trắng tan biến trong không gian.
Chuyện gặp lại nhau giữa Hào và tôi tại mặt trận Tuy Hòa sau bao năm biệt tăm từ khi du học Mỹ về là một cái duyên lớn. Hào có một cá tánh ngang tàng, không đội trên đạp dưới nên ít được cấp chỉ huy cảm tình, có lẽ cái tên Hào “gàn” đã nói lên được phần nào chuyện đó và cũng là một trong những nguyên nhân Hào bị thuyên chuyển về Đà Nẵng, khi đang êm ấm gần bên gia đình vợ con tại căn cứ ở Biên Hòa. Một câu chuyện nhỏ sau đây đã xảy ra mấy ngày trước sẽ nói rõ lên cá tánh đó của Hào “gàn”.
Hôm đó tại quán Mộng, một quán ăn lịch sự gần nhà tôi, Hào bận bộ đồ bay đang rung đùi ngồi hút thuốc lá bên ly cà phê đen, chờ tôi đi hành quân về thì có một chiếc xe Jeep ngừng lại ngay cửa, trên xe ba người đàn ông đẩy cửa bước vào quán. Một người trong đồ tennis trắng đi trước, theo sau hai người bận bộ đồ thường phục tay xách khẩu súng M- 16. Hai người đi sau chọn một bàn ngay cửa, người áo quần trắng bước đến ngồi trên quầy rượu, kế bên bàn của Hào. Hình như ông ta là khách quen của quán này, người bồi không cần hỏi tự động bưng ra một chai Cognac Martel VS, trên cổ chai dán hình lưởi liềm bạc có ba ngôi sao. Thấy không dính dáng tới mình, Hào quay mặt ra đường nhìn thiên hạ qua lại.
Vài ba phút sau, người đàn ông tay cầm ly rượu pha sô đa sủi bọt trắng xóa, đưa mắt nhìn Hào và ra dấu như muốn gợi chuyện. Sau vài lần không gây được sự chú ý của Hào, ông ta bèn lấy ngón tay trỏ ngoắt Hào lại trong một thái độ trịnh thượng, kẻ cả. Hào hơi bực mình, cố làm ngơ nhưng không xong. Vị khách vẫn tiếp tục cố gây sự chú ý của Hào. Không chịu được, anh bạn tôi đứng dậy, bước lại gần bar rượu, hai tay chống nạnh đứng trước mặt vị khách, rồi hỏi:
- Ông có chuyện gì muốn nói không?
Người đàn ông trả lời một cách tự nhiên, không một chút suy nghĩ:
- Không có gì cả “chú”, anh chỉ muốn mời “chú” đến uống ly rượu và nói chuyện cho vui thôi.
Đang sẵn bực mình trong bụng vì thái độ của người đàn ông, Hào nổi cơn:
- Xin lỗi, ông tưởng ông là ai mà có thái độ như vậy? Tôi đâu cần uống rượu của ông. Tôi cũng không phải là “chú” của ông. Ông thấy tôi đang mang trên vai cái gì không? Nói xong Hào chỉ vào mấy bông mai gắn trên vai.
Vị khách liền đổi giọng:
- Đừng nóng, “chú” chắc ở nơi xa tới nên không biết anh. Anh là Đề Đốc Châu, anh em thường gọi là Châu “cao bồi”, chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Hải quân ở đây.
Cơn giận chưa nguôi Hào sẵn trớn cao giọng:
- Xin lổi ông, tôi không cần biết ông là cái gì khi ông đang bận đồ dân sự, nhưng lịch sự tối thiểu ông phải kính trọng bộ đồ của tôi đang mặc trên người chứ. Vừa nói “Hào Gàn” vừa chỉ vào bộ đồ bay mình đang mặc.
Ngay lúc đó hai người đàn ông bận đồ dân sự ngồi ngay cửa ra vào đứng dậy, tay xách khẩu M- 16 bước đến gần bàn kế bên. Hào quay đầu lại nhìn hai người mới đến trong một tư thế đề phòng.
Bỗng nhiên, vị Đề Đốc xô ghế đứng hẳn dậy, rồi trong một cử chỉ bất ngờ, bước tới vỗ vai Hào nói:
- Thôi bớt nóng đi em. Anh khen em đó…lỗi ở anh. Anh không trách em, em đã có một thái độ rất đúng. Anh không ngờ em ở xa tới nên mới không biết anh là ai. Anh ở đây rất thích mấy ông đi bay, … Thôi anh em mình ngồi xuống làm vài ly rồi kêu gì nhậu nghe…
Những gì Hào kể lại đã không làm tôi ngạc nhiên. Đề Đốc Châu là một vị sĩ quan cao cấp rất chịu chơi và bình dân, đặc biệt có nhiều thiện cảm với những chàng trai đi mây về gió. Tôi là một trong những người đó và đã nhiều lần ăn nhậu với vị chỉ huy cao cấp chịu chơi này tại Quán Mộng.
Một lần tôi được mời tới nhà Đề Đốc ăn cơm tối. Căn biệt thự rộng rãi, tọa lạc trong một khu vườn cây bóng mát đối diện với bãi biển, ngay góc đường Hàm Nghi và đường Duy Tân. Sau khi ăn cơm xong, tôi cùng Đề Đốc leo chiếc xe du lịch màu xanh đậm mang bản số gắn một ngôi sao bạc đi vũ trường Baccara để giải trí. Một điều “không may” là tôi đã uống quá nhiều rượu chát trong khi ăn cơm, tuy chưa say nhưng bụng tôi căng phình như một con cóc. Khi xe đang chạy ngang một con đường khá đông đúc, tôi bất thần thò đầu ra ngoài xe, miệng kê trên cánh cửa, phun tung tóe ra tất cả những cái gì đã “thồn” vào bao tử xuống mặt đường nhựa. Đằng sau xe của Đề Đốc là một chiếc xe Quân Cảnh Hải Quân đang chạy theo sát nút để hộ tống. Hình ảnh không mấy đẹp này đã in sâu vào trong đầu tôi, và đã làm tôi rất “hổ thẹn” mỗi khi nghĩ đến…
Gió biển mát lạnh đập phần phật vào khoang tàu mở cửa, măn mẳn một mùi vị tanh tanh của nước biển làm tôi tỉnh hẵn người. Hai chiếc trực thăng võ trang đang bắt đầu vào không phận của thành phố Nha Trang. Trước mặt là một vùng đại dương mênh mông một màu xanh biếc, nổi bật những con sóng bạc đầu sủi bọt trắng nô đùa rượt đuổi nhau dọc theo bãi các vàng. Xa về hướng tây ngoại ô thành phố tọa lạc một bức tượng Phật khổng lồ màu trắng nổi bật, đang ngồi thiền tịnh trên đỉnh đồi chùa Phật Học, lặng yên hướng về thành phố, như đang ngậm ngùi thương xót cho chúng sanh sắp đi vào con đường chinh chiến điêu linh…
Tượng Phật ngồi trên đồi chùa Phật học, Nha Trang
Quán Mộng và “những ngày xưa thân ái”
Rời phi trường, tôi chạy chiếc Honda 90 cũ kỹ dọc theo bờ biển trên đường Duy Tân trở về nhà. Trời đã về chiều, những vạt nắng vàng cuối cùng còn vương vấn trên những đọt cây bàng, cây dương liễu hay trải dài trên mặt đường tráng nhựa đen. Gió mát lồng lộng thổi vào người, qua mọi ngõ ngách trong cơ thể, như cuốn trôi đi những bụi bặm chiến tranh tôi đã mang về từ vùng trời mịt mù khói lửa. Dọc theo bờ biển, thưa thớt vắng vẻ khác thường, vài xe bán đồ ăn dọc theo những hàng dừa buồn bã vắng khách. Hình ảnh của một buổi chiều vàng đầy người đi tấp nập trên bãi biển hóng gió, cười nói đùa giỡn không còn tìm thấy nữa. Trên đường cái, xe cộ như đang chen lấn, vội vã tranh nhau chạy đua với thời giờ.
Có lẽ người dân Nha Thành đều linh cảm được những gì sắp xảy đến cho thành phố này. Viễn ảnh của một đoàn quân vô nhân khát máu đang sắp sửa tràn ngập đường phố, qua kinh nghiệm của Tết Mậu Thân đã gây lên nỗi kinh hoàng trong đầu mọi người. Giống như những con cá chen chúc vùng vẫy trong vũng nước bùn, cố thoát khỏi bàn tay của những người đang tát ao, những người dân trong thành phố hốt hoảng đi tìm đủ mọi phương tiện để rời khỏi Nha Trang. Những người có tiền và phương tiện đã cao chạy xa bay từ trước, còn lại những người dân khốn khổ chạy đôn chạy đáo khắp nơi. Từ Quảng Nam cho đến Phú Yên, những thành phố dọc ven biển đã bị nhuộm đỏ, Nha Trang là thành phố kế tiếp.
Chiều hôm nay tôi đã mượn được chiếc xe Jeep của Trung Tá Thông, Trưởng đoàn Phòng thủ phòng vệ KD/62 Chiến Thuật đưa tất cả gia đình vào phi trường giao cho Hào “gàn” để ngày mai anh ta chở vào Sài Gòn. Bây giờ tôi yên trí về nhà. Chạy vào tới trước sân, tôi dựng xe xong bước lên mấy bậc tam cấp vào phòng khách. Căn nhà rộng rãi bây giờ lại càng trống vắng hơn. Tôi đứng yên một mình ngay giữa nhà, tất cả đồ đạc vẫn y nguyên, ngay cả những bức ảnh gia đình đang còn treo trên tường. Một cảm giác bơ vơ lạc lõng kỳ lạ đang dâng ngập lòng, tôi không biết phải làm gì trong giây phút trống vắng này, mọi sự thay đổi quá nhanh. Cả gia đình tôi đã ra đi trên tay mang những áo quần tối thiểu, bỏ lại tất cả những gì đã gầy dựng lại sau lưng. Còn tôi ở lại một mình, làm bổn phận của người lính khi Tổ Quốc lâm nguy. Tuy nhiên tôi vẫn có linh cảm sẽ phải rời xa thành phố thân yêu này, nơi đã che chở, nuôi dưỡng tôi trong bầu không khí trong lành của đại dương suốt thời gian thơ ấu. Tôi sẽ không còn thấy ngôi nhà thân yêu ở gần biển, gần đến độ mỗi mùa biển động tôi có thể nghe tiếng sóng của đại dương vỗ ì ầm vang vọng. Căn nhà tôi đã sống qua bao nhiêu mùa hè rực nắng, đã biến tôi thành một thằng mọi con suốt ngày ngâm mình dưới làn nước trong vắt, đâm cá, bắt cua, bắt sò hến…Bao nhiêu đêm khuya, trải chiếu trên bãi cát cùng với những người thân yêu, bên mặt biển êm ả như mặt hồ thu, lấp lánh phản chiếu muôn ngàn ánh bạc trong đêm trăng vằng vặc, tai nghe tiếng sóng rì rào, vỗ về bờ cát. Những buổi sáng tinh sương, chạy ra biển khi mặt trời vừa ló dạng đỏ ối cuối chân trời. Đứng bên những người dân chài đang “hò dô ta”…kéo lưới trên bãi biển. Trố mắt nhìn những con cá óng ánh đang vùng vẫy trong lưới, chờ đợi để lượm những con cá nhỏ xíu rơi rớt trên mặt cát. Những giờ phút hồn nhiên ngây thơ đó vẫn còn mãi trong tâm trí tôi không bao giờ phai nhạt.
Ngôi nhà của cha mẹ tôi tọa lạc ngay góc đường Biệt Thự dẫn vào cổng trại phi trường. Hằng ngày đứng ngây người chiêm ngưỡng những người hùng trong bộ đồ bay, đeo đầy súng đạn chạy ngang qua đã gieo vào trong đầu tôi một ước mơ: trở thành phi công.
Giấc mơ đã trở thành sự thật, tôi được may mắn trở về lại thành phố thân yêu để phục vụ, gần gia đình và nhất là được sống lại bên bãi cát vàng bên bờ biển xanh, ngày ngày tung cánh chim sắt bay khắp vùng trời lửa đạn, Bảo Quốc Trấn Không như lời nguyền mang trên vai áo khi gia nhập một quân chủng ưu tú của Quân lực VNCH.
Ngồi lặng yên suy tư thẩn thờ trên ghế salon một mình hồi lâu, bên ngoài trời đã tối hẳn. Cảm thấy đói, tôi đứng dậy bước ra sân, lững thững đi bộ đến đầu đường Biệt Thự để kiếm gì ăn lót bụng. Ngoài đường, mọi sự đi lại đã bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng một chiếc xe nhà binh chạy vụt ngang, vội vã… Những cột đèn điện bên đường chiếu xuống mặt đường nhựa ánh sáng vàng vọt. Đang rảo bước bên lề đường, đột nhiên tiếng nói của người bán hàng bên lề làm ngưng dòng tư tưởng đang miên man trong đầu:
- Mở hàng dùm em đi anh…
Ngay dưới chân cột đèn, kế bên đường một người đàn bà khoảng ba mươi, trong bộ đồ bà ba bông, đang ngồi lúi lúi quạt lò than, trên tấm vỉ sắt có mấy trái bắp nướng. Kế bên là một đứa bé gái khoảng năm bảy tuổi ngồi trên chiếc ghế nhựa bé tí, gần cái thúng đựng bắp tươi. Lò than cháy lốp đốp, nổ văng những đốm lửa đỏ bay trong không khí. Cách đó vài thước có hai chiếc xe xích lô đậu sát nhau, hai người đàn ông gầy ốm đang ngồi trên ghế trước đấu láo chờ khách.
Tôi nhìn chị bán hàng lắc đầu:
- Không, cám ơn chị.
- Bắp non ngọt lắm, mua dùng em đi.
Người đàn bà nài nỉ. Tôi đứng lại. Những người đang ở trước mặt tôi vẫn sinh hoạt bình thường để kiếm miếng cơm, manh áo, không hề quan tâm đến biến động của thời cuộc. Chắc họ không có gì để mất và không có gì để lo sợ.
- Chị bán có khá không?
- Ế lắm anh ơi…, giờ này thiên hạ lo chạy, ít người đi ra đường lắm.
- Sao chị không lo kiếm đường chạy mà còn ngồi đây bán? Tôi hỏi.
Người bàn bà, tay phe phẩy quạt lò, tay trở mấy trái bắp cho đều:
- Có đồng “mô” trong túi mà chạy anh, mà không biết chạy đi chỗ “mô”. Còn chồng em thì đi lính mất biệt, mấy năm “ni” không thấy về thăm nhà, “chừ” em cũng không biết anh đang ở chỗ “mô” nữa.
Vừa nói xong người đàn bà gắp một trái bắp nướng còn nóng bỏng trên lò xuống để trên miếng giấy dưới đất trước mặt đứa con gái.
- Ăn đi con.
Tôi lắng nghe người đàn bà nói tiếng Huế trong một âm điệu thật bình thản, hình như cô ta đã quá quen với gian khổ. Khuôn mặt của người đàn bà phản chiếu ánh lửa hồng bập bùng của lò than vẫn còn phảng phất một nét mặn mà duyên dáng của người con gái đất Thần Kinh, cho dù đã sống trong những ngày tháng lam lũ khổ cực. Nỗi cay đắng, xót xa ngập tràn, xót thương cho thân phận của một con người. Tôi liếc nhìn vỉ sắt trên lò than rồi chợt đổi ý, chỉ vào hai trái bắp cháy vàng:
- Này,…chị bán cho tôi hai trái đi…, đừng trét mỡ hành nghe.
Đợi người đàn bà gói xong hai trái bắp trong lá chuối, tôi thò tay móc túi đưa chị tờ giấy bạc xong quay người cất bước không chờ lấy tiền thối.
Đi một khoảng ngắn, tôi đến trước quán Mộng. Quán đã đóng cửa tắt đèn. Tôi nhìn đồng hồ chưa tới tám giờ tối. Chắc mấy cô chủ quán đã rời thành phố rồi. Bước tới gần khung cửa lớn bằng kiếng, ghé mắt nhìn vào trong, những bộ bàn ghế bằng mây, trải khăn trắng toát trông lịch sự đang im lìm trong bóng tối mờ mờ từ ánh đèn đường hắt vào. Hình ảnh một quán ăn quen thuộc, đầy thực khách cùng những tiếng cười nói vui vẻ như đang trở lại trong tiềm thức của tôi. Trong thời gian phục vụ cho phi đoàn Thần Tượng trú đóng tại Nha Trang, tôi đã chia sẻ rất nhiều thì giờ tại quán này, chỉ cách xa nhà tôi chừng vài trăm bước. Tôi có thể coi quán Mộng như là một quán ăn nhà. Nếu ai đã từng phục vụ tại Không đoàn 62 này đều phải biết đến tên đó, trước đây đã mang một tên khác rất tây phương: Cristal Palace. Ban ngày là một tiệm ăn sang trọng, lịch sự, ban đêm biến thành một vũ trường đẹp đẽ, ấm cúng.
Quán Mộng tọa lạc trên con đường mang tên Biệt Thự, một con đường rất quen thuộc đối với hầu hết anh em Không Quân, chỉ dài chưa hơn nửa cây số, chạy từ cổng trường Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ra đến bờ biển. Chính con đường này đã làm mòn giày “bốt đờ sô” cũa biết bao nhiêu chàng phi công tương lai, hằng ngày sắp hàng sầm sập chạy ra biển trong chiếc áo thun trắng tinh và chiếc quần xanh màu cức ngựa, miệng hát vang bài Không Quân Hành Khúc.
Những lúc đi bay về có được “ chiến lợi phẩm” như heo, nai, gà, thỏ, công, nhím hay bất cứ “sinh vật” nào…tôi đều mang đến quán Mộng để nhờ ba cô chủ quán vui vẻ, trẻ đẹp biến thành những món nhậu hấp dẫn, ngon lành. Còn những lúc tắm biển, thả lựu đạn trúng đàn cá nào thì tôi lại xỏ xâu xách đến quán nhà cho tiện việc “sổ sách”.
Nhớ lại một hôm tôi vừa đi bay về, trời đã sẫm tối, đang nằm nghỉ mệt trong phòng, áo bay còn mặc trên người. Bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập…cộc…cộc…cộc.
Đang thiu thiu mơ màng, tôi ngồi nhỏm dậy.
- Ai đó…
- Em đây, mở cửa mau lên…
Vừa mở cửa, trước mặt tôi là thằng bé hàng xóm ở trước mặt nhà.
- Anh ơi, mau lên ra đây em chỉ cái này…, có con gì to lắm. Lúc nãy em đang ở trên sân thượng thì nó bay vù sát trên đầu em. Bây giờ nó đang đậu trên cột điện trước mặt nhà em đó.
Nghe thằng bé nói xong tôi vội vã xách khẩu súng M- 18 bước ra khỏi phòng, nhưng chợt suy nghĩ sao tôi quay trở lại đổi khẩu súng trường “Carbine” đang treo trên tường – giết gà không cần dao mổ trâu!
Trong khu tôi ở, rất nhiều con nít cỡ mười mấy tuổi coi tôi như “thần tượng”. Chắc vì bộ đồ bay trên người, cọng thêm khẩu súng đeo ngang hông còn khoác thêm cái áo lưới (survival vest), tôi trông giống như là cái gì “ghê gớm” lắm dưới đôi mắt của tuổi thơ.
Chạy theo thằng bé ra tới đầu đường. Một đám con nít cỡ mấy chục đứa đang bu quanh dưới chân trụ điện cao thế. Tôi ngước đầu lên nhìn, trên nền trời sẫm tối, hình thù một con gì đang đậu to gần bằng bên cục biến điện kế bên. Tôi chưa đoán ra loại chim gì quá lớn như vậy. Tôi nghĩ thầm: sau viên đạn này thì sẽ rõ. Đưa khẩu súng carbine lên nhắm kỹ càng sợ lạc đạn vào cục biến điện sát bên. Xung quanh đám con nít đang nín thở theo dõi “thần tượng” của chúng “biểu diễn tài năng”.
- Cạch…
Sau tiếng nổ nhỏ của viên đạn được chế biến lại của tôi, con vật đậu trên cột điện lộn nhào xuống đất đánh rầm.
Cả đám con nít hết hồn, nhảy lùi ra sau tránh… Tôi bước đến gần nhìn con vật. Trong ánh sáng chập choạng vừa sẩm tối, trước sự ngạc nhiên của tôi, một con gà tây bự tướng đang nằm xõa cánh bất động trên mặt đất.
Chiều hôm sau, khi đang ngồi quây quần tại quán Mộng với mấy người bạn cùng mấy em gái bên những món gà Tây đủ kiểu, cô chủ vừa sắp đồ ăn vừa cười tủm tỉm ghé tai nói nhỏ với tôi:
- Nè, để nói cho nghe, sáng hôm nay có Vĩnh Hy…, anh chú bác của anh ở gần nhà anh đó. Ổnh đến đây ăn sáng và ổng than phiền với tôi vừa mới mất con gà tây hôm qua, không biết thằng nào cả gan dám chui vào nhà ổng ăn trộm. Ổng dọa rằng nếu tìm ra thằng nào dám ăn cắp con gà tây của ổng thì sẽ biết tay…
Nghe cô chủ nói xong, miếng thịt gà tây tôi vừa mới nuốt chưa xuống như muốn mắc nghẹn…ngang cổ họng.
Làm chủ quán Mộng này là ba chị em ruột. Tất cả đều có “chủ” cả rồi. Cô lớn nhất là “sở hửu chủ” của một vị sĩ quan cao cấp trong ngành an ninh Không Quân của Không Đoàn 62 CT. Cô kế thì “dưới quyền” một anh bạn thân của tôi, Đại Uý Nguyễn Khoa Hoạt, tự nhận là Hoạt “đầu” (ma đầu?) trưởng đoàn chuyển vận Trung Tâm Huấn Luyện, em ruột của Đại tá Nguyễn Khoa Điềm, Chỉ huy trưởng Không Vận của Không Quân. Và cô chủ nhỏ nhất thì được sự “bảo trợ” của Đại Uý Trần Ngọc Đoan, trưởng phòng kiểm tục Cảnh Sát Nha Thành. Tất cả vị trên là “bộ chỉ huy hậu cứ” của quán Mộng, bao che mọi khía cạnh từ quân đội đến dân sự cũng như phương tiện chuyển vận. Riêng tôi thì được phong chức C.O.O. (Chief Operating Officer), sĩ quan quản lý mấy em “ca ve” làm việc cho vũ trường ban đêm, một công việc rất là “mệt mỏi” và “bận rộn”. Ngoài ra, ban quản trị “ngầm” này được sự yểm trợ của một số huấn luyện viên trường Phi Hành Nha Trang, như Đại Uý Huấn luyện viên Nguyễn Hữu Phúc với thân hình mảnh mai trên chiếc xe Lambretta bất hủ, Thiếu Tá Liễn cùng Đại Uý Đặng Minh Sơn, tự là Sơn “hèm”, đặc biệt phụ trách săn sóc “sức khỏe” của chị “tài pán” trong quán. Nói tóm lại, Quán Mộng được coi như là một hội quán làm nơi hẹn hò, ăn nhậu của đa số phi công cũng như những sĩ quan cao cấp tại thành phố Nha Trang.
Trong đó thấy sự có mặt thường xuyên Hải Quân Đề Đốc Châu, tự là Châu “cao bồi”, coi Trung tâm huấn luyện Hải quân Nha Trang; Chuẩn Tướng Lượng chỉ huy trưởng căn cứ Nha Trang; Đại Tá Đặng Duy Lạc sếp sòng Không Đoàn 62/CT; Trung Tá Tôn Thất Lăng, Chỉ huy trưởng liên đoàn khóa sinh SVSQ của Trung tâm huấn luyện Nha trang, cũng là ông chủ của quán cà phê Liz lịch sự; Trung Tá Thông, Chỉ huy trưởng phòng vệ phòng thủ KD62/CT v…v…
Sau khi hiệp định hòa bình tại Paris được ký kết 27 tháng 1 năm 73 tại Ba Lê, tất cả mọi phi vụ hành quân của phi đoàn hầu như ngưng đọng, chỉ còn những phi vụ liên lạc hay những phi vụ linh tinh khác. Vào những lúc buồn và nhớ cầm cần lái, tôi thường lấy những phi vụ huấn luyện, bay vòng xung quanh thành phố hay bay quanh vùng ngoại ô hái những trái thanh long đỏ leo trên những cây rừng cao hay bắt vài con gà con thỏ về quán Mộng làm đồ nhậu. Về phía tây nam sát nách phi trường Nha Trang có một vùng đất trống thường được gọi là “Đồng Bò”, mọc nhiều cây rừng thấp, rời rạc, sống rất nhiều heo rừng, mễnh, gà, thỏ, công, giống như một sở thú nho nhỏ.Một buổi sáng đẹp trời, tôi cùng với anh bạn là Trung Úy Thái Hồng Đảnh, bạn bè chọc là Đảnh “chích” vì nước da men mét như người ghiền hút, bay chung một phi vụ duy trì khả năng. Trung Úy Đảnh “chích” là một hoa tiêu già dặn trong phi đội tải quân, bị phi đoàn nghi ngờ đã làm những chuyện bất hợp pháp trong những phi vụ liên lac, đã “khóa tay” anh ta bằng cách “đì” anh qua làm hoa tiêu phụ cho phi đội võ trang của tôi. Trong giai đoạn này Trung Úy Đảnh “chích” đã yêu cầu được bay chung với tôi thường trực để tránh tình trạng khó xử phải ngồi làm co- pilot cho một hoa tiêu đàn em. Có lẽ điều này những người trong nghề bay điều hiểu rõ. Buổi sáng hôm đó, sau gần hai tiếng đồng hồ bay lượn trên trời, tôi cho con tàu bay vòng lại gần dãy núi cao chót vót phía tây phi trường chừng năm sáu cây số, tiếp giáp với vùng Đồng Bò. Đột nhiên Đảnh “chích” chỉ lên sườn núi:
- Coi kìa, hình như có cái gì trên núi…, đó đó…
Theo tay của Đảnh, trên sườn núi cỏ xanh có một bóng đen nho nhỏ đang vạch cỏ leo lên đỉnh núi cao.
- Ờ thấy rồi.., à…, người hay con gì vậy?…
Đảnh “chích” chêm vào:
- Hình như người,… có khi nào là… mấy thằng tiền sát viên cho tụi Việt cộng pháo kích vào phi trường Nha Trang không?
Nghe bạn tôi vừa nói xong, không suy nghĩ tôi đẩy vội con tàu về hướng sườn núi. Khi chiếc trực thăng đến gần chừng vài trăm bộ, thì ra là một con gấu chó đen thui cao gần bằng người, đang ì ạch leo lên đỉnh núi. Hai đứa tôi trố mắt nhìn, ngạc nhiên không ngờ tại vùng này lại có gấu. Vốn tánh đã quen thói bắn giết, tôi liền đưa cần lái cho Đảnh “chích”.
- Mày lái đi. Tới gần gần một chút để tao “thịt” nó. Gió lắm đó coi chừng…
Lúc này trên tàu không có ai ngoài hai đứa tôi và một khẩu P- 38 tôi đang đeo ngang hông. Một vũ khí độc nhất, tôi không có quyền chọn lựa.
Chiếc trực thăng bay xề ngang như con cua, đưa hông trái sát dần vào sườn núi. Tiếng chém gió phành phạch vang dội cả vùng yên tĩnh. Con gấu thấy động, hốt hoảng chồm người phóng nước đại, hướng lên đỉnh núi. Thần kinh bị kích động trước con vật lạ lần đầu tiên được gặp, tim tôi đập thình thịch. Tôi ra dấu cho bạn bay gần hơn. Khi chiếc tàu chỉ còn cách con vật chừng mười thước, đột nhiên con gấu chó ngừng lại, quay người đứng hẳn lên, hai chân đưa cao trước mặt như làm một cử chỉ đe dọa. Hai hàm răng trắng lởm chởm nhe ra, miệng sủi bọt mép… Trong một động tác máy móc, tôi rút bên hông khẩu rouleaux, thò tay ra khỏi cửa bắn liên tiếp sáu viên đạn vào đầu con vật. Con gấu đáng thương phản ứng, đưa hai chân trước phủi loạn xạ lên mặt, giống như đang phủi những con ong mật tấn công khi chúng bị động ổ. Chỉ một giây sau nó té nhào, lăn lông lốc như trái banh, xuống tận gần chân núi rồi ngừng lại sau khi vướng vào một tảng đá to. Tôi đút vội khẩu súng lục vô hông, giật cần lái của Đảnh nghiêng cánh quạt lài theo triền núi, đến trên đầu con vật đang nằm ngửa đưa bốn chân lên trời, kế bên tảng đá.
Đang phân vân chưa biết sẽ phải đối phó như thế nào thì Đảnh “chích” đột ngột quay qua hỏi tôi:
- Này, …bây giờ… “thầy” định “xử trí” thế nào với con gấu này vậy?
Cái danh xưng “thầy” hay được những thằng bạn thân trong phi đoàn chúng tôi dùng, phần như để chọc ghẹo, đôi khi cũng có ý thán phục vì một hành động nào đó, đôi khi lại có ý mai mỉa, châm chọc… Những người ở trong quân ngũ, nhất là đã từng vào sanh ra tử mới có thể hiểu trọn vẹn được ý nghĩa của danh xưng này.
Câu hỏi bất ngờ của Đảnh “chích” làm tôi lúng túng không biết trả lời như thế nào. Đem con gấu lên tàu là một chuyện không thể làm được với độ dốc này cũng như với sức lực của hai chúng tôi. Chợt nghĩ đến ông bạn Hoạt “đầu”, “chỉ huy phó” quán Mộng, tôi liền có ý nghĩ nhờ anh phụ trách việc “thâu hồi” con gấu đang nằm kín đáo trên mõm đá này. Nhìn đồng hồ xăng đã gần cạn, tôi quay tàu rời sườn núi, đánh một vòng qua rừng dừa hoang kế cận cửa Bé, một làng chài ở gần Cầu đá, xong hướng mũi về phi trường chỉ cách chưa tới một phút bay.
Cho tàu bình phi khoảng năm trăm bộ xong, tôi định móc điếu thuốc lá ra hút xả hơi, đột nhiên thấy con tàu mất hẳn cao độ, đang rơi xuống như tàu vừa mới bị tắt máy. Tiếng động cơ vẫn nổ bình thường. Tôi chỉ có vừa đủ một giây ngắn ngủi để liếc thấy chiếc kim RPM trên đồng hồ vòng quay cánh quạt (rotation per minute indicator) đang xuống dần. Không còn thời giờ để suy nghĩ, đè mạnh cần cao độ xuống tận đáy, hướng con tàu vào bãi trống độc nhất trước mặt – một vũng nước nhỏ như hồ tắm, vây quanh bởi một rừng dừa. Con tàu như chiếc lá mùa thu lài nhanh xuống, rớt tủm ngay chính giữa vũng nước. Một con trâu rừng đen đủi, đang yên lành nằm ngâm mình dưới làn nước mát, tức thời vùng dậy, ba chân bốn cẳng phóng như bị ma đuổi, vừa kịp thời để khỏi bị đè bẹp bởi chiếc trực thăng. Tất cả biến chuyển đã xảy ra không hơn mười giây ngắn ngủi.
Đây là trường hợp trục trặc tương tự như khi xe hơi đang chạy bị bể hộp số, máy vẫn nổ nhưng chỗ nối trục máy với trục quay cánh quạt đã bị tách rời, cánh quạt không còn lực đẩy để quay nữa. Trong trường hợp này, không kịp thời hạ cần cao độ (collective control stick) thì cánh quạt sẽ giảm vòng quay rất nhanh, không phương cứu chữa, con tàu sẽ rơi như hòn đá cuội. Trường hợp khẩn cấp này (short shaft failure emergency) vô cùng nguy hiểm vì hoa tiêu không có đủ thì giờ để tìm hiểu nguyên nhân sự giảm cao độ đột ngột của con tàu.
Nếu biến cố này xảy ra sớm hơn chừng một phút thì con tàu của chúng tôi sẽ rơi ngay trên sườn núi và lăn lông lốc xuống chân đồi như con gấu vừa rồi. Qua nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, tôi thường tự hỏi có phải vị Tử Thần quái ác nào đó chỉ muốn chọc ghẹo hay đùa giởn với tôi, nhưng hình như chưa muốn đem tôi đi vĩnh viễn?
Ngồi kế bên, ông bạn của tôi còn sửng sốt chưa hoàn hồn, lí nhí trong miệng:
- “Thầy”!… may tui bay với “thầy” không thì chết mẹ rồi.
Câu nói của Đảnh “chích” theo tôi hiểu, nặng phần diễn đạt một sự mừng rỡ vừa mới thoát chết hơn là một lời khen tặng.
Trái sang phải:
Vĩnh “gấu”, Huỳnh “râu”, Tr/t Khưu v Phát, Đãnh “chích”, Vĩnh Hiếu
trong một chuyến đi hải đảo.
Đang nôn nóng về đáp cho sớm để ra quán Mộng nhậu một chầu ăn mừng bắt được gấu, bỗng nhiên lại bị rơi tỏm xuống một vũng nước cạn. Trong cuộc sống, có lẽ bất cứ biến cố nào cũng có thể xảy ra trong những giây phút mà mình ít ngờ nhất.
Sau khi báo cáo với Phòng Hành Quân Chiến Cuộc tai nạn đã xảy ra, tôi móc điếu lúc nãy chưa kịp hút, đốt một hơi dài rồi ngã người trên ghế chờ tàu đến đón. Ngồi phì phà điếu thuốc, tôi nhìn xung quanh là một hồ nước cạn ngập tới bụng chiếc trực thăng. Tôi chơt phì cười khi có ý tưởng như mình đang ngồi trên một chiếc “ca nô” câu cá. Điếu thuốc chưa cháy tới phân nửa tôi đã thấy trước mặt một chiếc trực thăng đang lù lù bay tới, trong tiếng chém gió phành phạch quen thuộc. Tàu mang phù hiệu Long Mã của phi đoàn 219, một phi đoàn bạn đồn trú sát nách phi đoàn Thần Tượng.
Chờ cho tàu rescue đến gần tôi mở cửa leo ra, ngần ngừ một lúc rồi nhảy tỏm xuống. Mặt nước lên gần tới háng. Hai thằng lội lõm bõm leo lên sàn tàu cấp cứu. Trên ghế bay của chiếc Long Mã tôi thấy Trung Úy Kim “mập” đang cầm cần lái. Kim là test pilot và anh chú bác của Trung Tá Nghĩa, cựu phi đoàn trưởng 219 Long Mã, người đã bị mất cắp chiếc trực thăng khi đậu tại bờ hồ Xuân Hương, Đà Lạt mới đây. Tôi bắt tay chào Kim, thì anh bạn tôi kéo đầu tôi lại gần rồi ghé miệng sát tôi nói t
- Tao đang bay test gần đây, nghe mày báo cáo với Phòng Hành Quân Chiến Cuộc, liền phóng tới đây “dzớt” mày lên cho lẹ. Mày có làm gì mà Trung Tá Bính biểu tao chở hai đứa mày đáp sân cờ, ổng đang đứng đó chờ tụi mày đó.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra? Bụng phân vân suy nghĩ: hay là đài kiểm báo đặt trên núi gần phi trường nhìn thấy những gì chúng tôi đã làm. Chuyện vô lý, chưa bao giờ xảy ra, tôi la lớn với Kim:
- O K,…Thì mày cứ đáp,… tụi tao đâu có làm cái đ. gì mà sợ.
Tuy nhiên sau khi nói xong, tôi gỡ nguyên dây đạn và súng lục ra đưa cho Kim cất giùm, để chứng minh cho bất cứ ai chúng tôi là những người hoàn toàn “trong trắng”.
Trước sân cờ, Trung Tá Bính, Không Đoàn phó KD/62 và Trung Úy Hiến Phòng Hành Quân Chiến Cuộc đang đứng chờ. Tôi và Đảnh “chích” nhảy xuống đất, tay xách đôi bốt- đờ- sô, tay xách nón, đi chân đất, áo bay ướt lên tới bụng, bước tới chào Trung Tá Bính. Sau khi trả lời Trung Tá Bính một vài câu hỏi về tai nạn, mọi người vui vẻ tan hàng.
Sau vụ rớt tàu này, chúng tôi đã được Không Đoàn 62 Chiến Thuật, ban cho một bằng “ tưởng lục phi dũng bội tinh”- khả năng lèo lái con tàu bị nạn. Không biết sự ban thưởng cái “dũng cảm” của tôi trong phi vụ này có dính líu gì đến vụ bắn con gấu trên sườn núi không?
Một tuần lễ sau, một con gấu chó nhồi bông đã được đặt ngay chính giữa sân khấu quán Mộng để tất cả thực khách có quyền thưởng lãm. Tôi chợt nghĩ đến bằng ban khen của tôi cần phải viết thêm tên Đại Uý Hoạt “đầu” vì có công lao và “can đảm” băng rừng lội suối để đem con gấu về đi nhồi bông.
Một thời gian sau đó, trong buổi sáng chủ nhật đẹp trời, quán Mộng đầy những thực khách, đa số là mấy ông đi bay, đủ mọi thành phần lon lá. Tôi đang ngồi trên quầy rượu ăn tô hủ tiếu Nam Vang nổi tiếng của quán với Đại Uý Đoan, cảnh sát, người “bảo trợ” cô chủ nhỏ nhất trong quán. Kế bên tôi là một cái bàn đặt gần sân khấu, ngồi hai ba vị sĩ quan cao cấp, trong đó đặc biệt có Đại Tá Đặng Duy Lạc, Chỉ huy trưởng Không Đoàn 62 Chiến Thuật, cũng là một phi công phản lực A- 37, rất đáng kính và chịu chơi nổi tiếng trong Không Đoàn tác chiến. Sau khi ăn xong, mấy vị sĩ quan đang uống bia hút thuốc và nhìn con gấu đang đứng nhe răng trên sân khấu chỉ chỏ, bàn tán. Đột nhiên, Đại Tá Lạc quay qua tôi đang ngồi trên quầy kế bên, rồi hỏi với một giọng điệu nửa đùa nửa thật:
- Này anh,…có phải con gấu này “xuất xứ” từ mấy “ông” trực thăng không?
Tôi nở nụ cười cầu tài rồi trả lời liền không hề suy nghĩ:
- Dạ,…thưa Đại Tá, chắc không phải đâu. Tôi nghĩ vùng này làm gì mà có gấu Đại Tá…Có thể bà chủ quán mua của mấy người Thượng trên Ban Mê Thuột đó…Nói xong tôi cúi mặt xuống tô hủ tiếu đã gần cạn, tiếp tục xì xụp ăn như đã bị bỏ đói ba ngày.
Cuốn phim dĩ vãng lần lượt trôi qua trong đầu, giờ đây quán Mộng với “những ngày xưa thân ái” đang nằm im lìm trong đêm khuya vắng lặng. Những ngày khách vào ra tấp nập, những cuộc vui gặp gỡ bạn bè sau những chuyến bay mệt mỏi căng thẳng, những đêm tiếng nhạc trầm bỗng trong tay người bạn gái dưới ánh đèn màu, tất cả đã tan biến vào hư không. Con đường Biệt Thự vắng vẻ dưới ánh đèn đêm, chị bán hàng rong từ hướng biển đi ngược chiều, gánh hột vịt lộn nhịp nhàng kẽo kẹt trên đôi vai gầy guộc. Những bước chân tôi rời rạc trên con đường xưa, bây giờ hình như đã trở thành xa lạ.
Nha Trang biển đầy, tình yêu không có đây
Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát
Chui sâu vào thân xác lưu đầy
Dã tràng ơi! Sao lấp cho vơi sầu này?
Nha Trang lúc rạng đông
Từ quân trường đến chiến trường
Căn nhà tối om không một ánh đèn khi tôi trở về, những cây ăn trái trong vườn im lìm bên những chậu bông hồng ba tôi săn sóc mỗi ngày. Tôi đứng trên vạt sân tráng xi măng trước nhà nhìn lên bầu trời đen hàng vạn ánh sao lấp lánh. Những viên đạn lửa bất chợt xẹt lên cao rồi vụt tắt. Lác đác vài tràng súng văng vẳng đâu đó cùng với tiếng chó sủa đổng trong một không gian im lắng lạ thường.
Đứng một lát, tôi về phòng thay đồ leo lên gường. Nằm trằn trọc mãi không ngủ được, những tư tưởng mông lung cứ quay cuồng trong đầu. Tôi nghĩ đến tương lai rất gần đây, tôi cũng như tất cả muôn ngàn chiến sĩ khác sẽ ra sao khi chiến tranh chấm dứt theo chiều hướng bi đát này. Cuốn phim cuộc đời binh nghiệp của tôi tuy không dài, nhưng đầy những cảm giác cao độ sát cạnh với tử thần cùng với bao nhiêu giây phút thú vị ngao du trên khắp nẻo đường đất nước. Những ngày tung mây lướt gió của tôi trên con tàu quen thuộc sẽ không còn nữa, nghiệp bay bổng là con đường tôi đã chọn và say mê không ngờ sẽ kết thúc quá sớm!
Nằm vắt tay lên trán, tai nghe tiếng thạch sùng chắc lưỡi, điếu thuốc lập lòe trong đêm, những hình ảnh cũ từ lúc chập chững bước chân vào quân trường đến những ngày dong duổi trên vòm trời quê hương chập chờn, ẩn hiện trong tâm trí…
Tôi đã gia nhập Không Quân trong thời gian Quân Đội VNCH bành trướng nhanh. Trung tâm Huấn luyện Không Quân tại Nha Trang không đủ sức để chứa một số lượng khóa sinh quá lớn. Những người khóa sinh mới được gủi đi học giai đoạn căn bản quân sự tại những trung tâm huấn luyện Bộ Binh khác. Đồng Đế là nơi tôi đã được gủi đến để học giai đoạn II căn bản quân sự.
Lúc xưa đây là trường Biệt Động Đội Thể Dục Đinh Tiên Hoàng, sau đổi thành Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Dân địa phương thường gọi là “Trường Đồng Đế Nha Trang” hoặc “Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế” để thay cho nhóm từ ngữ danh xưng trước quá dài. Đây là một quân trường kiểu mẫu, cũng là một lò luyện thép đã cung ứng hàng trăm ngàn chiến sĩ xuất sắc cho chiến trường miền Nam.
Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế nằm phía bắc Nha Trang khoảng bốn cây số, gần cạnh bờ biển, dưới chân núi Hòn Ngang hùng vĩ, nơi có ngọn đèo tên thật là lạ lùng – đèo Rù Rì. Từ xa Hòn Ngang trông giống như một người con gái nằm xỏa tóc đợi người yêu. Ngang lưng chừng núi là tượng của một người lính đang đứng thao diễn nghĩ, sơn màu trắng nổi bật trên nền xanh cây cỏ. Có một câu thơ lưu truyền sau đây đã nói lên ý nghĩa đó:
- Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh!
Mỗi khi ngồi trên chiếc trực thăng bay ngang nơi này tôi không bao giờ quên để mắt nhìn xuống nơi tôi đã từng đổ mồ hôi trong bao nhiêu tháng trường, và đặc biệt bức tượng người lính đứng thao diễn nghỉ sơn màu trắng toát dựng lưng chừng ngọn núi cao chót vót là nơi tôi đã mất hơn nửa ngày và gần một “bi- đông” mồ hôi để leo lên, trên vai vác khẩu trung liên nặng chĩu trong ngày di hành dã trại cuối khóa.
Trở lại giây phút đầu tiên khi cả khóa tôi vừa mới bước chân đến quân trường Đồng Đế, tất cả tập họp ngay trước sân cờ. Một vị Thiếu Tá có một khuôn mặt nghiêm trọng, đứng chống nạnh trước hàng quân, tuyên bố:
- “ ….Các anh nên hãnh diện đã được gủi tới đây để huấn luyện. Đây là một quân trường thép, sẽ đào tạo các anh thành những chiến sĩ can trường dũng cảm. Các anh sẽ gia nhập một quân đội thiện chiến nhất để bảo vệ quê hương xứ sở chống bọn Cộng Sản xâm lăng.
Nghe tới đây, trong đầu óc còn ngây ngô, tôi muốn đưa tay lên nói lớn rằng:” Thưa Thiếu Tá…, xin Thiếu ta đừng quên rằng chúng tôi đã đầu quân để lái máy bay, chớ không phải để đánh giặc trong rừng!”. Nhưng tư tưởng “chống đối” đó chỉ lóe lên trong đầu chưa đến một giây liền tắt ngúm khi nghĩ đến mấy trăm cái hít đất đang chờ đợi.
Vị Thiếu Tá nói tiếp:
- Các anh có thấy gì không? Vừa nói vị sĩ quan vừa chỉ vào bức tượng người lính bằng tượng đồng đen mun, đặt cao trên bục xi măng giữa sân cờ.
- Vài tháng tới, khi các anh rời khỏi quân trường Đồng Đế này, tất cả các anh sẽ trở thành như bức tượng đồng đen này.
Bọn chúng tôi đứng trong hàng quân, ngơ ngác không hiểu ý vị Thiếu Tá nói gì. Có phải là chúng tôi sẽ thành thạo như người lính này hay là sẽ đen thui như tượng đồng đen, hoặc là cả hai?
Giây phút đó, trong đầu óc của những thằng con trai ngờ nghệch, chưa ai hiểu thâm ý của vị Thiếu Tá cán bộ liên đoàn trưởng cho đến khi chương trình huấn luyện bắt đầu. Một chương trình khắc nghiệt, sắt đá gần giống như chương trình huấn luyện của binh chủng Nhảy Dù (!). Trong những lúc thức khuya dậy sớm, tập luyện, có đôi khi quá nhọc nhằn, khổ cực, thân xác bị đày đọa ngoài sức chịu đựng, tôi phân vân tự hỏi con đường tôi đã chọn đây để trở thành một phi công tung mây lướt gió có phải là con đường sai lầm hay không? Nhưng tất cả rồi cũng phải trôi qua, những sự khổ cực đó đã phai mờ, trong tiềm thức tôi chỉ còn sót lại những hình ảnh đẹp, cũng như những giây phút tuyệt vời mà tôi đã có được trong thời gian thụ huấn tại một quân trường tọa lạc bên bờ biển xanh, với hàng dương vi vu trong gió.
Có một giai thoại đã xảy ra trong thời gian thụ huấn về một người bạn thân đã làm tôi nhớ mãi: anh Trần Văn Vân, đã không may tử nạn cùng với một fly- mate (người bay chung) trong một phi vụ “ team solo” ở trường bay Fort Hunter tại Hoa Kỳ, khi chiếc máy bay trực thăng UH- 1 của anh vướng vào một sợi giây điện cao thế nổ tung. Khi mất, anh Vân đã chưa kịp biết đứa con trai đầu lòng của anh đã ra đời hai ngày trước đó. Gia đình còn lại của anh là một mẹ già và một người em gái đang sửa soạn, chuẩn bị chờ anh trở về nước trong hai tuần tới sau khi mãn khóa để cùng đón Xuân. Một điều nên biết anh là một khóa sinh phi công đậu ưu hạng (graduated with honors) tại Fort Wolters, Texas trong thời gian học bay giai đoạn I trước đó.
Trần Văn Vân và Vĩnh Hiếu giai đoạn học sinh ngữ sau khi mãn khóa Đồng Đế
Trong một đêm thực tập hành quân, bên một bờ biển cát trắng dưới ánh trăng rằm vằng vặc. Sau một thời gian bố trí, đào hố cá nhân, phân chia canh gác, đại đội được lệnh tập trung tại bãi biển để điểm danh quân số. Dưới ánh trăng, những tiếng nói lao xao kêu tên điểm danh hòa lẫn với tiếng rì rào của sóng biển. Tất cả quân số đầy đủ, chỉ trừ trung đội tôi thiếu một người. Đếm lui đếm tới, sau cùng cũng vẫn còn thiếu một người. Vị Thiếu Úy cán bộ bắt đầu mất kiên nhẫn. Tất cả đại đội được tung ra lục soát tất cả mọi nơi, từ những bìa cây thấp, đến từng mọi hang hố ngõ ngách cho đến tận chân núi. Sau hơn một tiếng đồng hồ lục lọi chúng tôi đã “tìm ra” người “mất tích”. Khóa sinh dự bị sĩ quan Trần Văn Vân đang nằm ngáy khò khò dưới một hố cá nhân, trên bãi cát dưới tàng cây thấp.
Anh Vân được đem “giải giao” trước mặt vị Thiếu Úy cán bộ. Mặt dù ánh trăng chưa đủ sáng nhưng chúng tôi vẫn thấy rõ được nét “phẩn nộ” hiện rõ trên nét mặt. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, vị cán bộ không hề la mắng hay chửi bới Vân. Ông ta chỉ ra chỉ thị cho anh bạn “thiếu ngủ” của tôi: cứ mỗi ba mươi phút Vân sẽ phải đi xuống biển ngâm mình dưới làn nước “mát lạnh” năm phút. Thi hành ngay. Bắt đầu từ lúc mười một giờ khuya cho đến sáng mai khi đại đội nhổ lều trở về trại. Anh Vân khỏi phải lo dậy đúng giờ để thi hành lệnh phạt, sẽ có người trong ca trực đến đánh thức anh. Có lẽ những ai đã từng ở trong đời lính đều đồng ý rằng, được nhắm mắt ngủ trong giai đoạn huấn luyện tại quân trường là một điều hạnh phúc “tối thượng”.
Những giây phút thú vị nhất của chúng tôi là được đi ứng chiến ở Ba Làng, một xóm chài lưới nhỏ sát mé biển được tạo lập bởi đa số người Bắc đánh cá di cư, chỉ cách quân trường chưa tới một cây số. Tôi không hiểu danh từ “dân ba làng” của một số người Trung thường dùng để ám chỉ những ai quê mùa, hay thiếu phong cách, có phải xuất xứ từ xóm chài này không?
Trong những đêm ứng chiến đó, sau khi treo chiếc võng dưới rặng dương liễu cạnh bãi cát trắng dưới ánh trăng vằng vặc, bốn năm đứa kéo nhau đến quán nhỏ sát bên bờ nước, ngồi trên chiếc bàn gỗ nhìn thẳng ra mặt biển phẳng lặng như nước hồ thu, phản chiếu ánh trăng bạc lóng lánh, cùng chia nhau vài chai bia với đĩa mực tươi rói chấm nước mắm gừng, rồi về nằm đong đưa trên võng hút thuốc lá nói chuyện đời lính, nghe tiếng rì rào của biển cả hòa nhịp với những bài ca trữ tình, văng vẵng từ chiếc radio nhỏ xíu treo đầu võng.
Nhớ lại những buổi chiều vàng, di hành dã trại trên đồi cao, gió biển lồng lộng, thổi phần phật chiếc lều cá nhân vừa được dựng lên. Xung quanh là một rừng ớt, trái chín đỏ rực cả một vùng. Ngồi trong chiếc lều “poncho” với hai ba người bạn thân, chia nhau bửa cơm vắt với thịt kho muối sả đựng trong hộp sữa “gi gô” được Mẹ gói ghém gửi vào, cắn trái ớt vừa tươi vừa cay, mới hái. Nhìn xuống dưới thấp, bờ vực dựng đứng, những con sóng bạc đầu nô đùa rượt đuổi, đập vào bãi sỏi tung bọt trắng xóa. Xa xa là những con thuyền đánh cá nhấp nhô trên mặt đại dương mênh mông xanh biếc một màu. Còn một cảm giác nào tuyệt vời hơn trong lòng của những người trai mới lớn đầy lý tưởng mộng mơ này?
Những giây phút đó, tôi mới thấm thía những bài tình ca của lính do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác, cho dù chưa có một người để yêu, để mộng mơ nhung nhớ.
- Từ khi anh thôi học,
và từ khi anh khoác aó treilli
Từ khi anh xa nhà,
một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây…
Ngày tháng trui luyện khổ cực tại quân trường Đồng Đế rồi cũng qua, tôi đã trở thành một sĩ quan phi hành chưa bao giờ rờ được cái đuôi của chiếc máy bay.
Không biết trường Đồng Đế có biến tôi thành một người lính thiện chiến như vị Thiếu Tá cán bộ đã nói trước hay không, nhưng chắc chắn đã biến tôi thành một tượng đồng, đen mun. Cái đen mun đeo đẳng tôi dai dẵng cho đến khi qua trường bay, cả vài tháng sau mới chịu buông tha.
Khóa sinh Không Quân Bảo “địa” và Minh “mập” khóa 6/68 tại Đồng Đế
“Thao trường đổ mồ hôi chiến trường bớt đổ máu”, một câu mà tôi thấy gắn nhan nhản khắp nơi trong quân trường. Những bài học trầy da tróc vảy, những buổi di hành dã trại triền miên trong rừng sâu núi thẳm cùng những cuộc thao dợt súng đạn, bò dưới hỏa lực của những viên đạn bay vèo vèo trên đầu, hay những phút rứt tim đu giây tử thần, tất cả đã làm tôi đổ hàng chục lít mồ hôi. Nhưng sau này tôi cảm thấy mấy chục lít mồ hôi của tôi đã đổ ra chẳng thấy “dính dáng” gì tới công việc của tôi làm, đó là ngồi chết dí trên ghế bay sáu bảy tiếng đồng hồ một ngày lăn lộn trên trời cao. Tôi chưa bao giờ có một cơ hội nào để liệng một trái lựu đạn vào hầm của địch quân, cho nổ tung tóe ra như trong phim xi- nê, hay núp trong bụi rậm cầm khẩu súng trường nhắm kẻ thù từ lổ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi để bóp cò, ngoài chuyện bóp cò bắn mấy con chuột cống lấp ló dưới mấy chậu bông hồng của ba tôi.
Từ giai đoạn rời quân trường cho đến lúc chân ướt chân ráo mới về phi đoàn, ngồi rụt chân trên ghế bay của chiếc trực thăng võ trang, trố mắt thán phục nhìn vị đàn anh lái con tàu lướt vùn vụt sát trên đầu mật khu Việt Cộng, cho đến giờ phút thứ hai mươi lăm của cuộc chiến này, trong đêm khuya thanh vắng, nghĩ đến quá trình của cuộc đời bay bổng của mình, tôi đã trải qua biết bao nhiêu trận mạc, từ chuyện rượt đuổi những tên du kích lẻ tẻ cho đến đương đầu những trận chiến bùng nổ cấp sư đoàn. Không thể kể xiết bao lần con tàu chậm chạp lơ lững trên đầu trên đủ loại mọi họng súng của quân thù, nhìn thấy quá nhiều những người bạn đồng ngũ của mình gãy cánh, nổ tung ngang lưng trời, giã từ cuộc đời khi còn đang đầy nhựa sống. Còn riêng bản thân tôi, chưa bao giờ bị một viên đạn nào trên trận chiến làm nguy hại tới tính mệnh, hay hư hại con tàu đáng kể, ngoài những lổ lủng vô hại, trong khi tôi phải làm một công việc của một hoa tiêu trực thăng võ trang, luôn luôn phải đối đầu với hỏa lực của địch quân. Có phải đó là số mệnh an bài hay là chỉ là những sự may mắn tình cờ? Câu hỏi đó không ít thì nhiều có lẽ đã làm cho những người đã từng vào sinh ra tử thắc mắc suy tư, nhưng mấy ai tìm được câu trả lời.
Điều đã làm cho tôi cảm thấy éo le, nếu là không nói khôi hài trong cuộc đời chinh chiến, là một lần lãnh một viên đạn vào người và một lần đối diện với những viên đạn trong đường tơ kẽ tóc, mạng sống tưởng chừng như đã đi đứt. Hai lần đó không xảy ra trên trời cao khi đối đầu với quân địch, mà ở dưới đất, sau khi đã an toàn trở về từ mặt trận. Người ta thường hay nói: “ Đi sông đi biển không chết mà chết vì con lạch cỏn con”. Những chuyện tôi sắp viết lên đây để sẽ nói lên sự trớ trêu đó.
Trong những lần đi chơi ngoài phố, ban đêm tôi luôn luôn “lận” khẩu súng 22 ly nhỏ như gói thuốc lá vào lưng quần dấu dưới áo khoác, để bảo vệ tánh mạng trong những trường hợp nguy hiểm xảy ra bất ngờ. Khẩu súng đó đã được phi đoàn trưởng của tôi, Trung Tá Khưu Văn Phát, tặng riêng trong một trường hợp đặc biệt.
Một đêm khoảng hai giờ sáng, sau đi chơi trở về nhà với hai người bạn gái trên xe Jeep của ông bạn tôi, Trung Úy Thủy, Trưởng phòng nhiên liệu Không Đoàn 62/CT. Bước chân vào nhà, người đã mệt mỏi, mạnh cặp nào về phòng nấy. Tôi uể oải thay áo quần. Khi mở giây nịt, tháo nút quần, tôi quên bẵng mất khẩu 22 đang nhét bên hông. Khẩu súng rớt xuống ngay trên sàn gạch bông.
- Đoành!…Một tiếng nổ như tiếng pháo chuột vang lên trong đêm vắng.
Giật mình tôi nhìn xuống dưới, khẩu súng lục xinh xắn màu đen đang nằm trên sàn gạch nhà giửa hai bàn chân tôi. Tôi cúi xuống lượm và ngạc nhiên khi thấy từ ống quần một giòng máu đỏ tươi đang chảy xuống bàn chân trắng bóc suốt ngày mang giày “bốt đờ sô” của tôi. Sững sờ, tôi vén vội quần theo ngược dòng máu đỏ, một lổ nhỏ như đầu đủa nằm ngay bên trong bắp chuối, máu đang trào ra. Vội vã lấy ngón tay bịt ngay lổ để làm ngưng máu chảy, đồng thời tôi nghiêng đầu nhìn bên ngoài bắp đùi “hy vọng” tìm lổ thoát ra của viên đạn. Tôi không thấy gì ngoài một cục u nhỏ trồi lên – viên đạn đã đi xéo trong bắp thịt, tới gần da thì ngừng lại. Tôi bóp nhẹ bên ngoài thấy rõ ràng hình dáng của viên đạn nhỏ như đầu đủa đang nằm “yên nghỉ” trong thớ thịt của tôi. Lạ lùng thay, tôi không có một chút cảm giác đau nhức nào cả.
Vừa lúc đó, người bạn gái tôi từ buồng tắm chạy ra cùng với hai người kia từ phòng khác chạy vào. Tất cả cùng la:
- Trời đất ơi, chuyện gì vậy?
- Không có gì đâu…mẹ,… xui quá, quên hẳn khẩu súng nhét trong người. Tôi cố lấy giọng bình tỉnh, rồi như tự an ủi, tôi nói tiếp:
- May mà nó trúng bắp chuối chứ lên thẳng một chút nữa đúng ngay giữa hai chân thì tàn đời…
Mọi người bu quanh nhìn vào chân tôi, không ai cười cả. Trung Úy Thủy lên tiếng:
- Thôi, tao phải đưa mày đi nhà thương rồi. Hai cô này thay đồ đi. Đại khái thôi, nhanh lên…
Thế là tôi lại phải choàng vai hai người bạn gái khập khểnh leo lên xe Jeep cùng với Thủy nhà thương trực chỉ. Tôi lầm bầm chửi thầm số con rệp khi nghĩ đến phải bỏ chiếc gường êm ấm và người bạn gái để lên nằm trên chiếc băng ca lạnh lẽo trong đêm khuya khoắc như thế này. Đây là viên đạn “oái oăm” độc nhất đã làm tôi bị thương, không phải từ quân thù mà từ một hành động bất cẩn của chính mình.
Một sự kiện thứ hai đã xảy ra cũng không kém phần bất ngờ, nếu không nói là “rức tim” đã xảy ra trong thời gian phục vụ tại phi đoàn Thần Tượng.
Trong một bữa dạ vũ nọ của một đơn vị bạn, tôi tình cờ gặp được một người con gái có một vóc dáng thật đẹp, cao ráo, có khuôn mặt rất Tây phương. Sau một vài câu chuyện trao đổi tôi được biết người đẹp đó là một thư ký riêng cho một vị sĩ quan cao cấp của Mỹ, cố vấn cho Không Đoàn 62 Chiến Thuật tại Nha Trang, ở một mình trong căn biệt thự rộng rãi nằm trong phạm vi của phi trường, kế cận đường Phạm Phú Quốc. Con đường này chỉ dài vài trăm mét, toàn là những villa đẹp đẽ, chạy từ phi đoàn 215 Thần Tượng của tôi ra tới biển, nơi đó có cổng ra vào phi trường cũng mang tên Phạm Phú Quốc. Có một sắc đẹp mặn mà như người bạn gái của tôi, không khác nào một đóa hoa dịu ngọt gần bên một tổ ong mật, đã được sự chú ý, tán tỉnh của rất nhiều chàng phi công hào hoa phong nhã cũng như nhiều người khác.
Phi đoàn 215 Thần Tượng cuối đường Phạm Phú Quốc lúc xưa
Cũng nhờ cơ duyên đưa đẩy, từ lúc gặp gở sau một thời gian lui tới, tôi đã được người đẹp xem như là một người bạn gần gủi thân tình nhất. Từ đó tôi thường xuyên ghé đến nhà nàng. Trong nhà người đẹp lúc nào cũng đầy đủ mọi thứ bia rượu và đầy những đồ ăn mua từ P.X (Post Exchange) dành riêng cho những người Mỹ. Nhờ những tiện nghi cũng như phương tiện vật chất phong phú đó, tôi thường đem mấy người bạn trong phi đoàn của tôi như Trung Úy Thành Râu, Hổ hai của tôi trong phi đội võ trang, hoặc là Trung Úy Tôn Thất Kim cùng phi đoàn, được gọi là Kim “nhi đồng” thường đi vũ trường với tôi, đến nhà bạn gái mới ăn nhậu.
Tuy nhiên cuộc đời đã không đơn giản như tôi nghĩ. Trong đám những chàng trai trồng cây si, đặc biệt có một Thiếu Úy phòng thủ, người vui vẻ, cởi mở, dong dỏng cao có một giọng nói trầm ấm của người Hà Nội. Tuy làm việc cho Đoàn Phòng Thủ Phòng Vệ, nhưng buồn cười thay, anh ta luôn luôn bận đồ bay, đeo súng, đeo flare – súng báo hiệu cho những phi công bị rơi trong rừng – và thường mặc áo lưới cấp cứu (survival vest), một loại áo chỉ để dùng cho những phi công bận khi đi bay. Tôi có nghe phong phanh anh ta là con của một vị Đại Tá Không quân có chức vị lớn ở Tân Sơn Nhất và đã bắn chết một quân nhân Quân Cảnh nên phải thuyên chuyển ra Nha Trang để tránh sự rắc rối. Tôi vẫn xem anh ta như người bạn mới, thỉnh thoảng chúng tôi đi ăn uống với nhau, cho dù tôi có nghe một số người nói anh Thiếu Úy này là một người rất nguy hiểm, có tánh bạo động, nhất là sau khi có năm ba chai bia trong người. Điều này tôi chưa có cơ hội đễ kiểm chứng, cho đến một đêm nọ…
Sau một đêm dạ vũ tại Không Đoàn, tôi và cô bạn gái cùng anh Thiếu Úy phòng thủ trở về nhà trên chiếc xe Jeep của anh ta. Sau khi về đến nhà, cả ba đều khá say. Ông bạn Thiếu Úy muốn ở lại nhà cô bạn tôi ngủ và được nữ chủ nhân mời vào căn phòng dành riêng cho khách.
Mọi việc trôi qua êm đẹp. Tới khoảng ba giờ sáng, tôi đang triền miên trong giấc điệp bổng có tiếng gỏ cửa dồn dập, đồng thời nghe tiếng nói của anh Thiếu Úy phòng thủ:
- Mở cửa…, mở cửa….Mở cửa mau lên.
Mơ mơ màng màng, tôi và người bạn gái gật mình tỉnh dậy, chưa hiểu sự tình gì, thì nghe tiếng nói to qua cánh cửa:
- Mở cửa mau lên, có thằng nào đang ngủ trong đó không?
Tôi bắt đầu tỉnh ngủ nhưng cố làm lơ, hai đứa tôi không trả lời, thì tiếng gỏ cửa dồn dập tiếp tục.
- Mở cửa, mở cửa…, mau lên…
Muốn cho mọi chuyện trôi qua êm đẹp, tôi ghé tai người bạn gái thì thầm:
- Em mở cửa đi, anh vào phòng tắm. Em nói là anh đã về rồi.
Nói xong tôi ngồi dậy bước vội vào phòng tắm khóa cửa lại, xong đứng nép sát bên bức tường, lắng nghe. Sau tiếng cửa mở là giọng nói nhỏ nhẹ của người bạn gái tôi đang còn ngái ngủ:
- Ảnh về rồi, không có ai đây cả, anh có chuyện gì không?
- Đừng nói dối,… tôi thấy xe nó còn đậu trước nhà. Chắc nó đang trốn đâu đây.
Sau câu nói giận dữ của anh Thiếu Úy một khoảng thời gian, tôi không nghe gì cả. Trong phòng tắm tối đen, chỉ còn lại hơi thở dồn dập trong lồng ngực cùng tiếng đập mạnh của trái tim tôi. Câu chuyện người lính bị anh ta bắn chết bất chợt trở về trong đầu tôi. Tôi đứng im, nép sát tường, đang nghĩ cách đối phó, đột nhiên có tiếng dộng cửa rầm rầm ngay cửa buồng tắm tôi đang núp:
- Mở cửa ra không tao bắn. Một, hai, ba,… mở cửa…
Tôi chưa kịp phản ứng thì nghe liên tiếp mấy tiếng nổ chát chúa: đoành, …đoành…, đoành…tiếp theo là tiếng thét lớn của cô bạn gái. Tấm kiếng treo trên tường trong phòng tắm tôi đang đứng vỡ toang rơi loảng xoảng xuống sàn gạch. Mấy viên đạn xuyên qua tấm cửa gổ, chỉ cách tôi chừng vài phân. Trong bóng tối, ánh sáng từ phòng ngoài chiếu qua mấy lổ đạn. Tôi đếm đúng sáu lổ, khẩu súng rouleaux đã hết đạn! Cơn thịnh nộ của tôi bùng vỡ như một hỏa diệm sơn. Tôi mở toang cánh cửa. Trước mặt tôi anh Thiếu Úy đang đứng, tay cầm khẩu súng còn bốc khói. Với tất cả sinh lực còn lại trong người cọng thêm cái đai đen Thái Cực Đạo mà tôi đã để mốc meo trong xó tủ từ ngày vào lính, tôi nhào vào người anh ta, tôi không nhớ rõ đã làm gì, nhưng không hơn mười giây sau, anh chàng điên khùng này biến thành một xác chết bất động nằm sóng soài trên sàn gạch bông. Bên cạnh người bạn gái tôi đang đứng co rúm trong bộ đồ ngủ, gương mặt nhợt nhạt, khiếp đảm. Sau vài phút đứng thở hổn hển để lấy lại hơi thở, tôi cùng người bạn gái hè nhau lôi cái xác xềnh xệch về phòng ngủ, bồng anh ta lên gường, đắp mền cẩn thận. Và trước khi rời phòng tôi không quên tước hết tất cả những viên đạn cũng như cây súng “flare” gắn trên giây súng anh ta treo đầu gường.
Đêm trôi qua, không động tịnh…, cho đến sáng hôm sau.
- Cọc…cọc…, mở cửa…., cọc…, cọc.
Mở bừng mắt dậy, ngoài trời đã sáng, tôi ngồi nhỏm dậy không suy nghĩ, bước nhanh tới mở cửa phòng ngủ. Trước mặt tôi, anh Thiếu Úy đã nai nịt gọn gàng, tay cầm khẩu rouleaux, nòng súng đen ngòm đang chỉa thẳng vào mặt tôi.
- Đ.m…, thằng nào đánh tao hồi tối, mày phải không?
Đinh ninh cây súng không có đạn, tôi trả lời đại khái cho qua chuyện:
- Ai mà đánh bạn, chắc tối hôm qua bạn quá say vấp té đâu đó thôi.
- Đừng có xạo, té sao mà tao bị bầm cả người đây, mày đánh tao phải không?
Người bạn gái đã dậy bước lại đứng cạnh tôi chen vào:
- Đâu đánh anh, tối qua anh say quá mà…
- Mày đánh tao hả, tao bắn chết mẹ mày luôn.
Anh ta hét lớn như muốn ăn tươi nuốt sống tôi, đồng thời một tiếng nổ đoành…như xé nát màng nhỉ. Tai tôi điếc rặc, chỉ còn nghe o…o…như tiếng vo ve của đàn ong đang bay. Cô bạn gái tôi hốt hoảng nhảy núp sau lưng tôi, như muốn dùng tôi làm cái bia đỡ đạn. Tôi đứng sững người bàng hoàng chưa kịp phản ứng, chưa hiểu tại sao tên khùng này lại còn đạn để bắn? Tôi nhớ rõ ràng đã rút từng viên đạn găm trên dây đeo súng của hắn. Hay là cái bao da bò nhỏ màu đen đựng đạn kẹp kế bên con dao mà tôi quên đã không mở ra xem?
Như đã tỉnh rượu, anh ta nhét súng vào bao rồi quay người bước ra khỏi phòng leo lên xe nổ máy chạy, sau khi phán cho một câu:
- Tao tha cho mày đó.
Tôi đứng ngẩn ngơ, lỗ tai còn ù. Còn người bạn gái tôi ôm cứng lấy tôi run rẩy, gần khóc. Chừng khoảng vài tiếng sau, tôi nghe tiếng xe Jeep tắt máy trước nhà. Có tiếng gõ cửa phòng, lần này nhẹ nhàng hơn trước.
- Trễ rồi dậy đi…, tôi xin phép mời hai người đi ăn sáng.
Quá đổi ngạc nhiên, tôi mở cửa. Lại anh chàng Thiếu Úy phòng thủ trong bộ đồ bay, không quên choàng thêm cái áo lưới “bất hủ”, đang tươi cười nhìn tôi trong một giọng nói của người Hà Nội nghe thật ngọt ngào:
- Hai bạn đi ăn sáng với tôi nhé, tôi mời. Cứ thong thả, tôi ngồi chờ ngoài phòng khách…
Anh ta nói như không hề có chuyện gì quan trọng đã xảy ra. Anh ta đã trở lại con người bình thường. Một điều lạ mà tôi vẫn không hiểu, tại sao trong lòng tôi không hề có một thái độ giận dữ hay oán thù người đã “tặng” cho tôi đúng bảy viên đạn rouleaux, suýt nữa đưa tôi qua bên kia thế giới. Hay là tôi đã được thỏa mãn tự ái khi nhìn thấy những vết bầm tím đầy trên thân thể của anh chàng điên khùng này chăng?
Đứng yên một giây, tôi nhìn mặt anh ta dò xét rồi bình thản trả lời:
- O K,.. chờ chút, tôi đi tắm đã…
Mười lăm phút sau, cả ba chúng tôi cùng leo lên xe jeep của phòng thủ chạy đến quán Mộng ăn sáng như ba người bạn thân tình vừa trải qua một đêm “vui” kinh hoàng. Đến nơi, anh ta không ăn, ngồi lau muỗng đũa tiếp chuyện cho hai chúng tôi ăn. Hôm đó tôi có cảm tưởng như đã ăn một bữa ăn sáng lạ lùng nhất trong đời.
Một thời gian sau đó, vì đã gây nhiều rắc rối khác, anh Thiếu Úy phòng thủ điên khùng này đã bị thuyên chuyển lên Pleiku và nghe nói anh ta đã tử thương trong một tai nạn máy bay trực thăng khi ngồi trong một phi vụ phòng thủ phi trường.
Sống chết có số. Đạn tránh người. Đó là những câu nói cho những ai tin vào định mệnh. Cũng như đến giây phút giờ thứ 25 của trận chiến tàn khốc này, tôi vẫn còn được nằm trên chiếc gường trong đêm khuya để suy tư. Ngày mai này dù có đi về đâu tôi phải bình tâm chấp nhận, như tôi đã từng chấp nhận ngay từ giây phút đầu tiên khi leo lên chiếc trực thăng võ trang để lao vào vùng trời ngập đầy máu lửa này.
Giấc ngủ chợt đến lúc nào không hay…, những tư tưởng đang vần vũ quay cuồng trong đầu đột tan biến vào hư vô, sâu thẳm…
Vĩnh Hiếu
https://hon-viet.co.uk/VinhHieu_NgayTanCuocChien3.htm - Nếu một mai ra đi không trở lại
Các Chiến Hữu của Tôi
-
Các Chiến Hữu của Tôi
____________________________
Song Vũ
Những ngày tháng sau hiệp định Paris năm 73 đối với các đơn vị đang chiến đấu là một khoảng thời gian dở khóc dở cười. Cuộc chiến vẫn còn nguyên vẹn nhưng danh nghĩa chiến tranh thì không. Những thương thảo giữa các phái đoàn 4 bên VNCH-Mỹ-VC-CSBV sau những thủ đoạn mánh lới, cuối cùng cũng đã mang đến một bản hiệp ước mà bên nào cũng giải thích cho rằng mình thắng lợi! Duy có một sự thực không thể chối cãi là máu vẫn còn tiếp tục đổ trên lãnh thổ Miền Nam, dưới vĩ tuyến 17.
Về mặt quân sự, hình thái tác chiến cũng đổi. Cộng quân chuyển sang thế chủ động tấn công, quân đội ta rút về vị thế phòng thủ vừa tuyến, vừa khu vực tùy tình hình chiến sự của từng vùng chiến thuật. Trong lúc ấy quân đội Hoa kỳ đặt trọng tâm vào việc rút chân ra khỏi cuộc chiến, và áp lực bạn đồng minh phải tuân thủ các điều khoản trong hiệp định! Các đại đơn vị chính qui Miền Bắc sau thời gian nghỉ khoẻ lần lượt lên đường vượt vĩ tuyến 17. Các đơn vị địa phương của Cộng Sản Miền Nam bò ra khỏi mật khu đánh phá lấn chiếm các thị xã, thị trấn và các trục giao thông. Ngọn roi chí tử B52 không còn, các đơn vị chính qui cộng sản di chuyển nhởn nhơ giữa ban ngày trên các trục xâm nhập. Đặc biệt trên đường mòn Hồ chí Minh, các đoàn xe dài hàng chục cây số nối đuôi nhau chuyên chở vật liệu, quân cụ và người di chuyển ngày đêm. Có lẽ trong quân sử thế giới, chưa có một đạo quân nào như chúng ta đã phải chiến đấu trong một tình trạng tồi tệ đến như thế. Quân trang quân dụng, đạn dược bị hạn chế, những cấp lãnh đạo chiến tranh tất bật với những mưu toan tranh đoạt lẫn nhau, thậm chí ngồi làm vì cho có vẻ đoàn kết. Thủ đô Sài Gòn hỗn loạn không ngày nào không có biểu tình tranh đấu cho đủ mọi thứ rắc rối trên đời.
Trong một tình hình hỗn loạn như thế, đòi hỏi người lính chiến VNCH phải tác chiến có hiệu quả cao có phải là một ảo tưởng không? Thành ra, việc sụp đổ của cuôc chiến trong ngày 30 tháng Tư 75 là một hệ quả có thể hiểu được, và tiên đoán được. Điều đáng buồn là cho đến ngày nay, nhiều vị từng giữ những chức vụ then chốt trong cuộc chiến vẫn chưa nhận ra trách nhiệm của mình. Cuộc đổ lỗi lòng vòng từ các vị nguyên thủ xuống thứ dân, từ người ngoại cuộc sang người cầm súng trực tiếp còn có cơ kéo dài miên man.
Cuộc chiến tranh tự vệ vừa qua là cuộc chiến của chúng ta, những người quốc gia bảo vệ đất nước chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản. Do vậy, khi chúng ta thua trận, mất nước, toàn thể những ai còn nhận mình là người quốc gia đều có lỗi. Lỗi nặng nhẹ tùy theo vị trí và vai trò của mình trong hàng ngũ chiến đấu. Phải xác định như thế để có thể tìm ra những bài học hữu ích cho lịch sử dân tộc, cho các thế hệ tiếp nối và đề ra được những đối sách hiệu quả trong tình hình mới. Còn nếu không, chúng ta sẽ cứ mãi phân hoá, chia rẽ trong đội ngũ, và những ước mơ về tương lai sán lạn của dân tộc vẫn sẽ mãi mãi chỉ là những ước mơ.
Trong thất bại chua cay tháng Tư năm ấy, đành rằng nạn nhân là tất cả những ai đã từng đứng chung, và hãnh diện chung dưới một màu cờ vàng ba sọc đỏ; nhưng không ai có thể phủ nhận được những thiệt thòi, bất công và sự điêu linh thống khổ cùng những hy sinh vô bờ bến cuä các chiến sï QLVNCH. Họ là những người đã coi nhẹ mạng sống của chính mình trong một cuộc giao chiến mà giỏi lắm là thủ huề!
Nhìn lên trên những người chỉ đạo cuộc chiến, các nhà lãnh đạo chính trị đã không thực tâm sống chết với dân tộc. Hãy nhìn sang ngay một lân bang sát cạnh chúng ta. Tôi còn nhớ rõ những cảm xúc dào dạt của mình khi đọc tin trên báo chí trong những ngày tháng 4 năm ấy khi xem lá thư từ chối việc ra đi của thủ tướng Cam Bốt Sirik MaTak gởi cho đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean. Thậm chí ngay cả đến tướng Lon Non em, chỉ huy quân đội, cả hai đều biết chắc chắn họ sẽ mạng vong khi rơi vào tay quân địch. Nhưng họ đã chấp nhận điều ấy trong sự can trường hào hùng của một cấp lãnh đạo. Họ đã chết theo cái chết của dân tộc Campuchia trong cơn cuồng sát tự diệt của Khờ Me đỏ!
Cũng còn may cho chúng ta trong những giờ phút bi tráng nhất của lịch sử dân tộc trong Tháng Tư năm ấy. Chúng ta cũng đã có những gương hy sinh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng tương tự.
Trong quân sử VNCH, chúng ta sẽ vẫn mãi mãi tự hào về những tướng lãnh vị quốc vong thân trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Một Nguyễn khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỹ, Phạm văn Phú và những sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ khác được biết đến tên tuổi, hoặc vô danh. Sự hy sinh của họ theo cung cách của một quân nhân, vừa biểu lộ lòng ân hận với dân tộc vì đã không làm tròn bổn phận của một người lính bảo vệ đất nước, vừa là lời khẳng định quyết liệt không thể cùng tồn tại chung một bầu trời với quân thù. Cái chết của họ đã tự nói lên sự hào hùng dũng cảm của một đạo quân từng làm nên bao chiến tích.
Đời sống con người thực sự có những giới hạn rất ngặt nghèo. Dù cho có ở những địa vị trùm thiên hạ, tiền muôn bạc đống cũng chẳng thể kéo dài đời sống ra được. Nhưng ngược lại, con người có thể làm cho nó ngắn đi theo mong muốn của mình, một thứ cướp quyền của Thượng đế! Lẽ sống chết, tử sinh trong vai trò của một chiến sĩ là một điều gì đó rất lạ lùng. Có những quyết định chỉ hiện đến trong giây lát, có vẻ như rất tình cờ, nhưng thực ra nó đã được hình thành trong suốt chặng đường suy tưởng và va chạm với thực tế. Những hành động dũng cảm, liệt oanh của các vị anh hùng liệt sĩ trong quân sử ta là một dẫn chứng điển hình.
Chắc hẳn khi tự chọn lấy cái chết cho mình, từng vị chẳng hề nghĩ rằng sau khi mình nằm xuống sẽ còn có cơ hội để những người khác tưởng nhớ tới. Ý nghĩ chết theo với sự tan rã của một đạo quân từng dưới quyền chỉ huy của mình, chỉ là sự thể hiện lòng trách nhiệm với quốc gia dân tộc, và đặc biệt là sự trung thành với lý tưởng mà họ đã theo đuổi; với sự nhận thức rõ ràng về danh dự của một chiến binh với đồng đội của mình.
Đọc quân sử thế giới, chúng ta thấy, khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh, nhiều sï quan cao cấp của quân đội Nhật cũng đã từng bày tỏ lòng trung thành với đất nước y như thế. Duy có điều, cái chết của họ ít ra cũng còn được người chịu trách nhiệm cao cấp nhất là hoàng đế Hirohito ghi ơn và làm gương để đưa nước Nhật vào một trang sử mới. Còn các liệt sĩ của chúng ta thì không; thậm chí còn tệ hơn, khi những vị thượng cấp của họ có người vẫn còn bất cố liêm sỉ tới mức độ sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ thù để mưu cầu quyền lợi tư riêng được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc “vì quyền lợi của đất nước, dân tộc”!
Tháng Tư năm nay lại đến, các chiến hữu nổi danh một thời nay đã đi rất xa, đến một vùng trời bình yên không còn lửa đạn và thù hận. Nói theo danh tướng Mac Arthur, những người lính già ấy chỉ mở dần theo thời gian.
Tháng 7 năm 1972, mặt trận Cao nguyên đã trở lại bình thường. Sau ba đợt tấn công mưu đồ chiếm Kontum để lập thủ đô cho cái gọi là mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) của cộng sản thất bại, thế trận trở lại giằng co. Lúc đó các lực lượng chính của mặt trận B3 lui dần vào các mật khu để tái tổ chức, bổ xung quân số, và trang thiết bị. Những đơn vị trực thuộc của Sư đoàn 23 VNCH cũng được tái phối trí phòng thủ mở rộng vòng đai tỉnh lỵ Kontum, và tung các cuộc hành quân an ninh xa ngoài vòng đai hàng chục cây số. Tháng 9, tôi bị thương sau đợt pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly của địch khi vừa bước chân ra khỏi trung tâm hành quân của Trung đoàn 44 đặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu 24 cũ.
Tôi bàn giao đơn vị cho đại tá Võ hữu Hạnh để trở về điều trị vết thương tại quân y viện Đoàn mạnh Hoạch, Phan thiết. Sau hơn hai tháng điều trị và nghỉ dưỡng thương tôi trở lại trình diện BTL/ SĐ tại Kontum. Lúc này tướng Trần văn Cẩm đã thay thế tướng Lý tòng Bá làm Tư lệnh Sư đoàn. Tôi được chỉ định giữ chức vụ trưởng phòng Ba (Phòng hành quân và Huấn luyện) thay thế cho trung tá Điều ngọc Chánh, nguyên trước đây từng là trung đoàn trưởng của tôi. Trung tá Chánh thuyên chuyển về Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia tại Sài gòn. Tưởng cũng nên nhắc lại trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ cuối năm 1972 đến giữa năm 1973 đã có nhiều thay đổi cấp chỉ huy trong Sư đoàn. Trung đoàn 44 do Trung tá Nguyễn hữu Lữ từ sư đoàn 2 điều về làm trung đoàn trưởng. Đại tá Võ hữu Hạnh từ trung đoàn 44 chuyển qua làm trung đoàn trưởng trung đoàn 45 một thời gian ngắn sau đó bàn giao lại cho đại tá Phùng văn Quang. Trung đoàn 53 do trung tá Võ Ân được điều từ Sư đoàn 22 qua giữ chức vụ trung đoàn trưởng thay thế cho đại tá Trần văn Chà bị thương nghỉ điều trị.
Trong những cuộc họp hành quân và qua các buổi tham dự thuyết trình hàng ngày để cập nhật tình hình địch bạn; tôi quen biết trung tá Võ Ân. Nhận xét đầu tiên của tôi về anh là tính tình cởi mở và vui vẻ trong giao tiếp rất dễ gây thiện cảm cho người tiếp xúc với anh lần đầu. Vì anh xuất thân từ một tiểu đoàn trưởng giỏi kinh qua kinh nghiệm tác chiến từ cấp trung đội trưởng trở lên nên nói chung việc chỉ huy tác chiến đối với anh không có trở ngại gì. Anh người Huế và tiếng anh xưng hô với bạn hữu cùng trang lứa luôn dùng “Tau” và “cụ mi” nghe cũng ngồ ngộ. Các sĩ quan tham mưu chính của Sư đoàn lúc đó ngoại trừ Đại tá Bùi hữu Khiêm một sĩ quan pháo binh tốt nghiệp khóa 3 Thủ Đức là lớn tuổi, tính tình trang nghiêm đạo mạo, đám còn lại chúng tôi tương đối trẻ hơn nên sinh hoạt cũng thân mật và vui hơn. Trưởng phòng Một là trung tá Dương đức Sơ cùng khóa 17 với tôi. Trung tá Điều ngọc Chuy, trưởng phòng Hai, tốt nghiệp Khóa 16 trước tôi một khóa. Tôi là trưởng phòng Ba. Trung tá Nguyễn khoa Đài, khóa 4 Thủ đức, trưởng phòng Tư. Trưởng phòng Tổng quản trị là trung tá Nguyễn xuân Thắng, cùng khóa với Chuy, sau đó ít tháng bàn giao cho trung tá Lợi.
Từ cuối năm 1972 cho tới trước ngày hiệp định Paris được ký kết chừng 1 tháng tình hình Kotum sôi động trở lại. Thực ra điều này không nằm ngoài những ước tính tình báo của Sư đoàn căn cứ trên các tin tức kỹ thuật chúng tôi thu thập, và qua cung từ hồi chánh và tù binh chúng tôi bắt được. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận rõ âm mưu của cộng sản gia tăng các cuộc lấn dất giành dân và áp lực quân sự nhằm hỗ trợ cho các đòi hỏi chính trị trên bàn hội nghị lúc đó. Đó chính là thời gian trận Trung Nghĩa xẩy ra.
Trung Nghĩa là một khu dân cư nằm ở phía tây thành phố Kontum, giới hạn bởi hai nhánh sông Dap Bla ở hướng nam, và Dap Kron ở hướng tây. Phía bắc là ngọn Ngok Bay cao độ 669 mét, là ngọn núi cao nhất trong khu vực hành quân đang do địch quân kiểm soát là mục tiêu rất khó chịu.
Lực lượng phòng thủ chính là Trung đoàn 44 và các đơn vị ĐPQ, NQ của Tiểu khu. Vì các trung đoàn 45 và 53 trách nhiệm khu vực bắc Kontum nên BTL/ SĐ yêu cầu BTL/ Quân Đoàn 2 tăng cường lực lượng ngõ hầu tổ chức hành quân quy mô tảo thanh các lực lượng địch trong khu vực Trung Nghĩa.
Bộ Tư lệnh quân khu 2 đã điều động Trung đoàn 42 từ Bình Định lên tăng cường. Lực lượng tham chiến của cộng sản chủ lực là trung đoàn 24, 95, và 66 luân phiên tấn công và một số đơn vị đặc công, pháo và hoả tiễn thống thuộc hỗ trợ.
Trận đánh kéo dài từ khoảng cuối tháng 8 cho tới đầu tháng 9 thì kết thúc. Các lực lượng cộng sản chịu tổn thất năng đành phải bỏ dở mục tiêu rút về hướng bắc. Trung đoàn 42 SĐ 22 sau khi hoàn thành nhiệm vụ được lệnh dời khu vực hành quân trở về lại vùng duyên hải. Trong đêm ăn mừng chiến thắng trận Trung Nghĩa, đại tá Thông có nhã ý mời anh em chúng tôi một bữa cơm thân mật tại nhà hàng Thiên nam Phúc ngay tại thị xã.
Bữa ăn gồm niên trưởng Nguyễn cao Vực, khóa 13, tiểu đoàn trưởng 230 Pháo binh, thiếu tá Đinh ngọc Thạch, khóa 15, Trung đoàn phó 45; Dương đức Sơ, trưởng phòng I/ SĐ, Điều ngọc Chuy, trưởng phòng 2/ SĐ, bác sĩ Tường, tiểu đoàn trưởng 23 Quân y, và tôi, trưởng phòng 3/ SĐ. Tưởng cũng nên nói thêm khi còn là Sinh viên Sỹ quan Võ Bị, niên trưởng Thông và tôi cùng ở chung đại đội 7 SVSQ. Anh người cao lớn và da ngăm đen mắt hơi lộ nên các bạn trong khóa 16 gọi anh bằng một cái tên nghe rất ngộ: Thông Lumumba. Thực tình tôi cũng không hiểu tại sao tên anh lại được gắn với tên của ông tổng thống xứ Congo này. Tôi đoán chừng là tại ngoại hình của anh chăng? Anh vốn dĩ là một người tu xuất nên tính tình thuần hậu hiền lành, trước các lời trêu chọc của các bạn đồng khóa, anh chỉ mỉm cười vui vẻ. Anh tốt nghiệp tháng 11 năm 1962 và được điều về Sư đoàn 1 ở Huế là quê hương của anh, còn tôi về Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho. Tính từ ngày ra trường đến lúc gặp lại, chúng tôi đã xa cách nhau gần 10 năm!
Tôi còn nhớ trước khi bắt đầu bữa ăn, anh mang ra ba chai rượu whiskey hiệu Black and White, là món khó kiếm trong thời gian đó ở Kontum. Anh đĩnh đạc nói: “Hôm nay tôi mời các bạn ăn bữa cơm thân mật, trước là mừng ngày gặp gỡ các niên trưởng Vực và Thạch, các bạn khóa 17, bạn Chuy và bác sĩ Tường. Tôi cũng muốn nói lời cám ơn các bạn đã giúp đỡ đơn vị tôi trong suốt thời gian hành quân vừa qua. Ngày mai chúng tôi sẽ trở lại Bình Định, tôi muốn chúng ta vui với nhau đêm nay để kỷ niệm buổi gặp gỡ thân mật này.” Bác sĩ Tường là người lên tiếng trước tiên “Nếu uống hết rượu đại tá cho chúng tôi uống thêm bia nữa chứ?” Anh Thông cười “Uống líp, tôi bao hết.” Khi người hầu bàn mang thực đơn ra anh giao cho từng người kêu món mình thích. Bàn qua tán lại cuối cùng chúng tôi kêu món gà gói giấy là món ăn có tiếng của tiệm này, thêm món mì xào thập cẩm và thịt bò xào lăn. Đại tá Thông nói tiếp “Moi không uống được rượu thành ra xin lỗi moi sẽ uống nước ngọt còn các toi cứ dùng tự nhiên.” Và sau đó anh kêu một chai xá xị ngồi nhâm nhi với đĩa đậu phọng rang mang ra ngay từ đầu.
Khi nhà bếp nhận xong món đặt làm và bắt đầu chế biến đun nấu thì cũng là lúc chúng tôi kêu nước đá và soda để mở rượu uống. Chắng biết cao hứng thế nào chưa đầy 20 phút, chai rượu đầu tiên cạn láng. Từ đó, cả bàn 6 người chúng tôi bắt đầu nóng máy. Bác sĩ Tường giành khui chai rượu thứ hai đổ cạn vào 6 chiếc ly trên bàn. “Dô, dô… trăm phần trăm mừng đại tá Thông cùng Trung đoàn 42 và buổi gặp gỡ đêm nay!”
Tường nâng ly lên mời và chúng tôi lại… uống. Khi chai rượu thứ ba khui cũng là lúc món gà gói giấy và bò xào được mang ra để trên bàn. Bàn nhậu trở nên nóng bỏng vì các tiếng dô dô và niên trưởng Thạch là người khui chai này.
Chai whiskey Black and White thứ 3 cũng được thanh toán gọn lẹ trong chiều hướng ngưu ẩm như thế rất chóng vánh và cả 6 chúng tôi bắt đầu quờ quạng. Bác sĩ Tường là người đầu tiên ói và lui hui chui dưới ghế để tìm lối đi ra! Niên trưởng Vực, Thạch, Sơ và tôi cùng mờ mịt hết thấy đường về. Chỉ riêng niên trưởng Chuy là còn tương đối tỉnh táo. Tôi nghe giữa những lời đàm thoại có tiếng đại tá Thông “Ơ này các bạn phải ăn đi chứ, đồ ăn kêu ra rồi mà không ai chịu ăn gì hết vậy!?”
Sáng hôm sau trong buổi tiễn đưa trung đoàn 42 rời khu vực hành quân trở về hậu cứ, chúng tôi có mặt đầy đủ nhưng đầu óc lừ đừ mụ mị. Tôi nhớ mãi nụ cười hiền hòa của đại tá Thông và câu nói với chúng tôi. “Moi sợ mấy toi luôn, uống gì đâu mà như trâu uống nước ruộng!” Chúng tôi dơ tay chào anh và cũng từ bữa nhậu không thể nào quên đêm ấy ngờ đâu lại là lần gặp gỡ cuối cùng với anh.
Đại tá Thông cùng đơn vị của anh trở về với vùng Bình Định cũng đang sôi sục mùi thuốc súng sau đó không lâu.
Sư đoàn 23 cho đến giữa năm 73 sau khi hiệp định Paris được ký kết lại thêm một lần tái phối trí lực lượng. Trung đoàn 44 của trung tá Lữ tiếp tục ở lại Kontum. Trung đoàn 45 của đại tá Quang trở về hoạt động khu vực giữa Đèo Tử Sĩ và Hàm Rồng. Trung đoàn 53 của trung tá Võ Ân về lại Ban mê Thuột. Bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn đặt tại Hàm Rồng.
Tháng 7 năm 73, tình hình quân sự thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng Đức trở nên sôi động. Các đơn vị chính quy của địch từ Bình Long, Phước Long tăng cường đánh phá mở rộng vùng kiểm soát vào khu vực giao tiếp giữa vùng 3 và vùng 2 khu quận Kiến Đức thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng đức. Bộ tư lệnh Sư đòan 23 (BTL/ SĐ23) và trung đoàn 53 từ Ban mê Thuột di chuyển đi Quảng Đức để ứng phó tình hình. Vùng giao tranh chính là nơi một đơn vị ĐPQ của tỉnh trú phòng tại Bù Binh đang bị uy hiếp nặng nề và sau đó bị tràn ngập. Khu vực hành quân là vùng đồi núi có cao độ trung bình 600m. Quốc lộ 14 chạy vòng vèo giữa hai bên đồi núi chập chùng, sâu hai bên trong quốc lộ khoảng 2 đến 3 cây số là hai con sông nhỏ Dak Kar ở phía nam, và Dak R’ Lap chay song song theo hướng đông bắc tây nam cùng hướng với quốc lộ ở hướng bắc. Một vị trí lý tưởng cho các cuộc vận động phục kích, công đồn đả viện của địch.
Đại đội 23 Trinh sát của sư đoàn được tung vào trận địa đầu tiên sau khi mục tiêu là đồn Bù Binh được pháo binh và không quân dọn dẹp xong. Trung úy Giáo, đại đội trưởng, là một sĩ quan giàu kinh nghiệm và rất gan dạ cùng toán viễn thám đầu tiên đổ xuống ngoài vòng thép gai của đồn để trực tiếp xung phong chớp nhoáng vào mục tiêu. Cuộc chạm súng ngắn ngủi và đại đội này chiếm lại được vị trí phòng thủ của địch với tổn thất nhẹ. Cuộc hành quân khởi đầu có vẻ thuận lợi. Chuẩn tướng Lê trung Tường ra lệnh tổ chức phòng thủ. Chiều xuống mau. Ban đêm đại đội trinh sát báo cáo nghe nhiều tiếng động của cơ giới từ hướng Bình Long kéo lên. Vừa hừng sáng hôm sau đại đội trinh sát báo cáo bị pháo kích nặng và xin không yểm để ngăn chặn các cuộc xung kích của địch. Tướng Tường nhận định nếu để đại đội trinh sát cố thủ tại vị trí sẽ gây tổn thất cho đơn vị này trước lối đánh biển người của địch. Ông bí mật nói cho trung úy Giáo hiểu ý định vể kế hoạch triệt thoái khỏi mục tiêu để ông rộng tay sử dụng hỏa lực.
Các phi tuần khu trục vần vũ suốt ngày đánh phá, ngăn chặn địch để yểm trợ cho đại đội trinh sát cắt vòng rào rút về hướng đông nam. Sau khi hoàn tất việc rút quân, trời đã về chiều. Không quân ra khỏi vùng hoạt động, pháo binh sử dụng hỏa lực thay thế yểm trợ cho đơn vị bạn. Đồng thời trung đoàn 53 từ quận Kiến Đức xuất phát tham gia giải tỏa áp lực địch.
Tưởng cũng nên nhắc lại tình hình chiến sự trong giai đoạn này. Vì tuân thủ theo những điều kiện đã được quy định trong hiệp định Paris nên những hoạt động quân sự của chúng ta lúc đó là tổ chức phòng thủ khu vực hoặc tuyến trên lãnh thổ cả bốn quân khu. Ngược lại, những đơn vị cộng sản gia tăng vận chuyển quân trang dụng và người từ miền Bắc bổ sung cho chiến trường miền Nam để tổ chức các cuộc tấn công quy mô đều trên cả bốn Vùng chiến Thuật.
Ngoài chiến xa được sử dụng rộng rãi trên các chiến trường lớn từ đầu năm 1972, địch còn được trang bị loại hoả tiễn cá nhân SA7 của Liên xô chế tạo để bắn hạ máy bay, những vũ khí này chỉ được sử dụng hạn chế để thử nghiệm trong thời gian trước đó ở Vùng 1, thì tới giai đoạn này đã được trang bị rộng rãi cho các đơn vị bộ binh của họ ở Vùng 2. Trận đánh giải tỏa áp lực địch tại Bù Binh là trận đánh đầu tiên loại hỏa tiễn này được địch quân sử dụng tối đa. Và trận đánh thứ hai họ cũng sử dụng tối đa loại vũ khí lợi hại này hơn một năm sau khi địch quân tấn công Ban mê Thuột. Tôi nhớ tới những giờ phút ngồi trên trực thăng chỉ huy C&C trong trận đánh ấy mà thấy thương mến các chiến hữu không quân của mình. Lúc đầu là phản lực, tiếp theo là trực thăng và sau cùng là quan sát, tất cả các bạn tôi phần nhào lộn bắn phá mục tiêu hỗ trợ quân bạn dưới đất, phần nhào lộn như làm xiếc tránh né hỏa tiễn cầm tay của địch. Đầy trời là những đốm khói đen trắng xen kẽ nhau, khói của hỏa tiễn nổ hụt mục tiêu, khói của các trái khói lân tinh của các máy bay trực thăng do các xạ thủ đại liên liệng ra nổ ngoài trời để thu hút hỏa tiễn tìm nhiệt của địch…
Tôi cũng nhớ tới tiếng Ân báo cáo về Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TTHQ/SĐ) khi anh tịch thu được 11 cây 57 ly! (mà thực ra sau đó, qua tài liệu của Phòng Hai, chỉ là các vỏ ngoài của loại hỏa tiễn tầm nhiệt này, lần đầu tiên chúng tôi thấy được trên chiến trường Cao nguyên!) Cuộc chiến rõ ràng có sự chênh lệch hẳn về mặt vũ khí. Bên địch được trang bị vũ khí ngày càng tối tân và đầy đủ hơn còn phía chúng ta lại bị hạn chế về sử dụng đạn dược, quân nhu và nhất là không được dùng loại oanh tạc cơ B52 một thứ khắc tinh đối với địch quân, chiếu theo hiệp định Paris!
Trung đoàn 53 và đại đội 53 trinh sát quần thảo với địch gần mười ngày với tổn thất nặng cho cả hai phía. Sau cùng địch cũng phải rút quân khỏi khu vực và Trung đoàn 53 trở về quân Đức Lập thuộc tỉnh Đắc Lắc nghỉ dưỡng quân và bổ sung quân số. Trên đường từ Quảng Đức trở về lại Ban mê Thuột, Tướng Tường, Chuy và tôi có ghé lại Bộ chỉ Huy trung đoàn 53 của anh đóng cách quận lỵ chừng hai cây số trên quốc lộ 14 nối Quảng Đức đi Đắc Lắc.
Võ Ân ra đón chúng tôi. Nhìn khuôn mặt anh tươi tắn trẻ trung tuy rất mệt mỏi sau gần mười ngày hành quân mà cảm thông sự vất vả ưu tư trên nét mặt anh lúc đó. Nói thật lòng, nếu anh mặc áo trắng quần dài xanh, không ai có thể nói anh là một sĩ quan cao cấp và đang đảm nhiệm một chức vụ quan trọng như thế. Anh có dáng dấp một cậu học trò cấp ba hơn là một võ quan. Tháng 3 năm 1974, tôi nhận được quyết định của Bộ Tổng tham mưu trở ra lại đảm nhiệm chức vụ trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 thay thế cho trung tá Nguyễn hữu Lữ thuyên chuyển về quân đoàn 2 chờ lệnh. Rồi tôi đi Kontum nhận đơn vị, sau đó trở về Pleiku hành quân vùng căn cứ 801. Từ đó tôi chỉ thỉnh thoảng gặp lại Ân trong các cuộc họp hành quân sư đoàn, bởi vì trung đoàn của Ân phụ trách khu Đắc lắc và Quảng Đức.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975 Ban mê Thuột bị tấn công. Tôi còn nhớ mãi những bàng hoàng khi được tin hơn nửa đơn vị của mình đã không thể không vận tới nhập cùng mũi tấn công cùng Trung đoàn 45 như theo kế hoạch dự trù để tiến vào giải cứu Ban mê Thuột. Nhìn về hướng thị xã, khói lửa ngút trời. Những đoàn người thuộc đủ mọi thành phần, đủ sắc dân lũ lượt kéo nhau chạy về hướng biển. Những nét mặt ngơ ngác, thất thần, những đôi mắt không còn nước mắt để khóc. Sự khổ đau tột cùng hiện nguyên hình trên khuôn mặt họ đã nói lên điều mà lời nói trở thành vô dụng không diễn đạt được.
Tôi cũng nhớ tới những báo cáo nghe thật buồn của đơn vị bạn khi trình lên thượng cấp những tổn thất về các cuộc chạm súng với địch mà phần hỏa lực yểm trợ pháo binh của ta là số không. Chỉ còn những chiến sĩ võ trang bằng máu hồng, xương trắng, một lòng yêu quê hương dân tộc chống trả lại chiến xa đại pháo của địch quân đang nã đạn dòn dập vào họ. Và những chiến hữu không quân cũng đang vừa yểm trợ vừa làm xiếc với hỏa tiễn SA7 của địch trên vùng trời Ban mê Thuột lúc đó! Tôi nhớ tới những cuộc đối thoại ngắn ngủi với Võ Ân đang cố thủ trong vòng đai phòng thû phi trường Phụng Dực, mà qua những lời nói đứt đoạn, tôi vẫn hình dung ra được niềm hy vọng tràn trề của anh trong ao ước bắt tay được với chúng tôi đang trên đường đi vào thị xã trong ngày 12 tháng 3 năm ấy. Rồi sau đó chỉ ít ngày, chiều 16, tôi nghe tiếng thiếu tá Cẩm, Trưởng phòng 3 Sư đoàn, chuyển lệnh cho anh rời khỏi căn cứ. Trong quân sử VNCH, cuộc chiến đấu oanh liệt này là một trong những nét son cuối cùng trước khi sang trang.Với quân số khoảng 2 tiểu đoàn trong một căn cứ phòng thủ không thuộc loại kiên cố kiểu pháo đài bởi vì đó chỉ là một hậu cứ tiếp liệu. Không có hỏa lực hùng hậu của pháo binh hoặc không quân hỗ trợ, đơn vị của anh đã chiến đấu với tất cả nỗ lực vô song của mình để chống trả một lực lượng tấn công với quân số địch quân đông gấp nhiều lần, có xe tăng và pháo hỗ trợ.
Mặt trận Ban mê Thuột (BMT) nằm trong biển lửa hỏa lực và các đợt xung phong của địch muốn mau chóng thanh toán chiến trường. Cứ điểm của anh là một ốc đảo nhỏ nhoi, đơn vị của anh đã chiến đấu đơn độc như thế để sống còn.
Sau này khi mở đọc hồi ký của các tướng lãnh cộng sản viết về trận đánh BMT, về đơn vị của anh, trận đánh của anh vẫn bị xỉ vả, chửi rủa nhiều nhất! Cái kết thúc bi hùng của trận đánh nằm ở chỗ này: Sau nhiều ngày vây đánh liên tục, các lực lượng chủ công của địch đành phải bỏ qua mục tiêu khó gặm mà tiếng quân sự gọi là “By pass” để thanh toán các mục tiêu khác. Đơn vị của Ân cũng chẳng đầu hàng, anh nhận được chỉ thị của thượng cấp rời bỏ vị trí. Trận đánh không có đợt xung phong cuối cùng bởi vì người “công” không thể chiếm lĩnh trận địa nếu không chịu một tổn thất to lớn, và người “thủ “ mặc dù không còn ở lại cứ địa nhưng đã thực sự làm xong trách nhiệm của mình. Hậu quả của trận đánh còn kéo rất dài sau đó khi Sài gòn thất thủ, anh vẫn còn bị gọi lên trình diện Ủy ban Quân quän để viết lại toàn bộ diễn tiến trận đánh này. Tính tình anh bình dị, dễ mến. Trong chỗ bạn bè thân thiết, anh thuộc loại hiền lành không thích lý sự, ba hoa.
Lúc gặp lại nhau tại Sài gòn sau nhiều năm tháng bị tù đày cộng sản, tôi thấy anh hầu như vẫn chẳng mấy thay đổi. Vẫn thân hình gày gò, xương xẩu, tuy nét mặt có vẻ đăm chiêu hơn ngày nào. Tôi bảo anh: “Tớ thấy cậu chẳng ốm đi chút nào”. Ân cười bảo: “Chỉ còn toàn xương thôi, không thể ốm thêm được!” Anh cũng như bao sĩ quan khác, khi được thả ra khỏi trại giam CS, đều bị cuộc sống thực tế đánh cho những đòn chí tử. Anh đi buôn phụ tùng xe đạp cũ ở chợ Trương minh Giảng kiếm sống qua ngày. Cuộc vật lộn với sinh kế để tự tồn và cưu mang gia đình chiếm trọn vẹn những suy tư của anh. Trong một lần thù tạc trước khi lên đường, anh tâm sự “Mai mốt gặp lại nhau, xếp đặt xong công việc gia đình để vợ con không oán trách chúng mình đã vô trách nhiệm, tụi mình sẽ tính lại món nợ đời với mấy tên cán quốc này!”
Anh sang Hoa kỳ theo diện HO sau tôi gần vài tháng. Từ tiểu bang Washington State, anh điện thoại báo cho tôi biết trong giọng nói vui vẻ hồn nhiên “Gia đình tau qua đây hơn một tuần rồi, trên này đang mùa mưa, chán quá, dưới đó cụ mi ra sao?” Sau đó chẳng bao lâu, tôi được tin anh anh bị stroke, mê man bất tỉnh trong lúc đang chơi cờ tướng với cùng một ông bạn HO gần nhà. Bạn bè kêu cấp cứu và đưa anh vào bịnh viện thì đã quá trễ. Qua điện thoại với cháu gái lớn của anh ít giờ sau, tôi nghe tin anh mất!
Thượng đế thật dị kỳ. Trong suốt quãng đời binh nghiệp vào sinh ra tử, từ một chuẩn úy bộ binh tốt nghiệp khóa 12 Thủ Đức, anh thăng tới cấp đại tá trong quân lực trong vòng 12 năm. Các cấp bực anh mang hầu hết là tại mật trận. Súng đạn quân thù bủa vây tứ hướng, anh vẫn nhởn nhơ vào ra dỡn đùa. Mười ba năm khổ sai hành hạ, anh vẫn bình an trở về. Bây giờ đây, bước chân lên đến xứ sở tự do chưa đầy năm, chưa kịp hít thở cảm nhận hương vị ngọt ngào của tự do thì anh trở về với cát bụi! Anh đã ra đi trong âm thầm bình thản vì ít ra anh cũng đã thực hiện được một điều tâm nguyện đưa cả gia đình tới nơi mong muốn. Anh đã làm được những điều tốt đẹp cho tương lai của gia đình anh mà trong thời gian quân ngũ, cuộc chiến tàn khốc đã không cho phép anh rảnh rang suy nghĩ đến nó. Anh là một trong những anh hùng quân đội thực sự làm tôi kính phục. Can trường, bình dị, thẳng thắn là đức tính của anh. Thời gian rồi sẽ xóa mờ những hình ảnh hào hùng của anh trong lòng những người lính từng chiến đấu bên anh. Nhưng thực ra điều ấy nào có nghĩa gì, khi chính bản thân anh bước vào, và bước ra cuộc chiến chỉ vì mong mỏi làm tròn trách nhiệm đối với Tổ quốc, dân tộc.
Hồi tưởng lại những ngày tháng 4 năm ấy. Hình ảnh những trận chiến không cân sức, giữa một lực lượng cộng quân được bổ sung từ những đại đơn vị hậu bị từ miền Bắc với các đơn vị của ta đã quá mệt mỏi qua những tháng ngày chiến đấu liên tục. Giữa một lực lượng được trang bị đầy đủ những chủng loại vũ khí hiện đại, đối đầu với một đạo quân bị gò bó, hạn chế trong việc tiêu thụ đạn dược, tiếp liệu. Giữa một bên có hậu phương ổn định với một bên hậu phương luôn bị khuấy đảo bằng đủ mọi thứ thù nghịch. Và quan trộng hơn hết, giữa một bên, người chiến binh quốc gia có thể mất tất cả mọi thứ thân yêu trên đời với một bên người lính cộng sản không có gì để mất ngoài trừ sự khốn nạn ma quái của đảng luôn đeo đẳng bên mình.
Người lính VNCH, đã có biết bao mỹ từ viết về họ trước khi cuộc chiến kết thúc. Và cũng có không biết bao điều vu khống, bôi lọ, thậm chí xuyên tạc trút vào họ sau cuộc chiến. Quái gỡ hơn nữa, đạo quân ấy còn bị bôi xoá khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt hơn 20 năm ấy như thể nó đã không tham dự, không có mặt! Những sử gia cộng sản và Hoa Kỳ thường nói đến cuộc chiến Việt Nam là cuộc đối đầu giữa cộng sản và “đế quốc” Mỹ, chứ không phải là cuộc chiến tranh tự vệ giữa nước VNCH, và cuộc xâm lược ngu xuẩn cuả cộng sản miền Bắc.
Tháng Tư sẽ cứ mãi là một tháng Tư Đen cho đến bao giờ những người cộng sản nhận thức ra một điều thật đơn giản: Những ngày tháng ấy lẽ ra không bao giờ nên xẩy ra trong lịch sử dân tộc. Họ đã thực sự làm một quyết định sai khi họ cho rằng dân tộc, đất nước chỉ là phương tiện để họ bước tới một thứ thiên đường theo con đường không tưởng do một chủ thuyết ngoại lai áp đặt.
Đầu tháng Giêng năm nay, khi đọc tin tức trên Web, bất ngờ tôi nhận được thêm thông tin về cái chết của đại tá Thông. Anh đã tự sát trong trận đánh cuối cùng tại Bình Định và được bác sĩ Nguyễn công Trứ và Dương văn Anh chôn cất tại cột cờ quân y viện Quy Nhơn cùng 46 người khác. Trước đó, khi còn trong trại tù cộng sản tôi cũng đã được nghe đồn về anh đã tuẫn tiết nhưng là ở tại một nhà thờ nào đó trong thành phố Quy Nhơn khi cùng thuộc hạ rút về tử thủ tại nơi này. Cái chết của đại tá Thông làm tôi nhớ tới một niên trưởng khóa 16 khác tôi quen biết, trung tá TQLC Nguyễn xuân Phúc, Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 369, hy sinh trên bãi biển Hội An trong lúc rút quân lên tàu. Tôi cũng nhớ tới cái chết của người bạn cùng khóa, Đại tá Võ Toàn, Trung đoàn trưởng trung đoàn 1/ SĐ1 BB. Toàn hy sinh cùng tướng Nguyễn văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB, trên chuyến bay từ miền Trung về Nam.
Những bạn hữu thân quen, những niên trưởng đáng kính của tôi đã nằm xuống trên quê hương. Họ đã cống hiến cả sinh mạng của mình cho đất nước với niềm tin vào sứ mệnh bảo vệ đồng bào chống lại cái ác độc phi nhân. Thế hệ chúng tôi đã làm hết sức trong khả năng hữu hạn của mình. Chúng tôi vào quân ngũ với tấm lòng trong sáng và nhiệt tình của tuổi thanh xuân. Chúng tôi đã chiến đấu không ngại hy sinh gian khổ trong suốt cuộc chiến tranh. Đồng đội chúng tôi hoặc đã nằm lại trên quê hương trong các nấm mộ được chôn cất tử tế, bằng các nghi lễ trang nghiêm, hoặc bỏ thân xác trên các ghềnh đá ven rừng hốc suối, trên vùng núi non hiểm trở không được ai biết tới. Những người may mắn thoát ra khỏi cuộc chiến cũng mang biết bao vết thương vẫn mãi còn rỉ máu trong tâm hồn. Suy cho cùng, cũng may mắn còn những người sống sót trở về để viết về các anh cho những thế hệ tiếp nối biết tới những nét kiêu hùng cuả cha anh họ trong cuộc chiến đấu chống lại cái chủ nghĩa phi nhân của cộng sản trên đất nước mình.
Những ngông cuồng, huyễn tưởng của giới cầm quyền và cái đảng ma quái hiện nay ở trong nước chắc chắn sẽ chấm dứt trong một ngày nào đó. Dân tộc tôi sẽ hồi sinh để sống trong tự do và hạnh phúc. Lịch sử đất nước tôi sẽ được viết lại một cách công bằng và trung thực. Tấm gương hy sinh của các anh, những người con tuấn kiệt của dân tộc sẽ được biết đến và trân trọng.
Tôi vững tin như thế.
Song Vũ
https://hon-viet.co.uk/SongVu_CacChienHuuCuaToi.htm
Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa
-
Người Vợ LínhViệt Nam Cộng Hòa
_____________________________
Mạc Phương Ðình
Xin thuật lại đây câu chuyện người viết được nghe từ lâu về hành động quả cảm của một người vợ lính VNCH có chồng bị Cộng sản bắt đi tù ‘Cải tạo’ tại miền Bắc như sau:
Vào khoảng năm nào, tôi không còn nhớ rõ (có lẽ 1983 hay 1984 gì đó), lúc còn ở tại VN (Sài-Gòn), trong một lần đến chơi nhà người bạn thơ Trần Thiện Hiếu (hiện đang ở Sydney – Úc Châu), tôi gặp ông Hà Thượng Nhân và một người nữa vừa được Cộng sản trả tự do sau thời gian bị tù gọi là ‘bị Học tập cải tạo’. Lúc bấy giờ ông Hà Thượng Nhân chưa biết tôi.
Trong buổi hôm đó, tôi được nghe người cùng đi với ông Hà Thượng Nhân kể lại câu chuyện như sau:
“Có một ông Thiếu Tá bị đưa đi tù tận miền Bắc. Lúc được cho phép gia đình tiếp tế, thăm nuôi, vợ ông Thiếu Tá ra thăm ông, thấy chồng tiều tụy, gầy guộc, ốm o, bệnh hoạn. Năm sau, Bà lại ra thăm nuôi chồng nhưng không được gặp. Bà hỏi thì quản giáo bảo là ‘không biết’. Bà nổi sùng lên bảo: “Chồng tôi năm trước còn ở đây, sao bây giờ, các ông bảo là ‘không biết’? Như thế, một là chồng tôi bị chuyển sang một trại khác, hai là chồng tôi đã chết hoặc chồng tôi trốn trại bị bắn chết hay đã thoát rồi, như vậy, các ông phải biết chứ?”. Người quản giáo vẫn bảo: “Chồng bà không có ở đây”. Bà tức giận, lớn tiếng hỏi mãi, cuối cùng, quản giáo nói là “chồng bà chết rồi”. Bà lại hỏi: “Chồng tôi chết, tại sao chết, chết thì chôn ở đâu?”. Do dự mãi, lát sau, quản giáo cho biết mộ chồng bà ở phía sau trại giam. Bà ta lân la hỏi các người tù đang đi lao động, được biết chồng bà bị đau rồi chết và chỉ chỗ chôn.
Bà ta tìm đến mộ chồng, giở đồ tiếp tế bày ra, cúng chồng. Ðêm đó, Bà ở lại ngủ bên mộ chồng. Quản giáo ra đuổi bà đi thì Bà nói to lên: “Sao các ông tàn nhẫn, không cho người vợ được ngủ bên mộ chồng mình sao? Có luật pháp nào cấm việc đó không?”. Thấy Bà cương quyết quá, quản giáo đành làm ngơ. Sáng ra, Bà phân phát các thứ tiếp tế cho các bạn tù lao động gần đó rồi bẻ một nhánh cây cắm trước mộ chồng, nhổ một ít tóc treo vào nhánh cây đó.
Năm sau, Bà lại lặn lội, đem theo thực phẩm tiếp tế ra thăm chồng lần nữa. Quản giáo bảo: “Chồng Bà chết rồi, sao Bà còn thăm nuôi, tiếp tế làm gì nữa?”. Bà bảo: “Tôi thương, tôi nhớ chồng tôi, xin các ông cho phép tôi được ngủ bên chồng tôi lần nữa”. Quản giáo ngạc nhiên, biết ngăn cản cũng khó vì ngại Bà lại lớn lời như trước nên đành chịu. Như lần trước sáng ra, Bà dựng lại nhánh cây năm trước đã bị ngã xuống đất, cắt một nắm tóc buộc vào (nắm tóc năm trước đã bay đi hết, chỉ còn đôi sợi lẫn vào trong đất) rồi ra về.
Năm thứ ba, Bà lại ra thăm nuôi chồng. Quản giáo hỏi: “Ðã hai lần rồi, Bà còn ra thăm nuôi người chết sao?”. Bà bảo: “Tôi còn trẻ, lần nầy, tôi ra xin ngủ với chồng tôi lần thứ ba để ‘đoạn tang’ chồng, như thế cho trọn nghĩa phu thê, tôi mới có thể bước đi bước nữa sau nầy. Xin quản giáo cho cho phép tôi được toại nguyện, đây là lần chót…”. Quản giáo có lẽ cảm động ít nhiều, đồng ý.
Bà lại ra ngủ bên mộ chồng lần thứ ba, thắp nhang, đốt nến. Vào khuya, Bà mở túi xách, lấy một cái xẻng nhỏ cùng túi nylong, đào mộ, hốt ít xương cốt chồng, bỏ vào túi nylong, đổ formol vào rồi mang túi xác chồng lần ra lộ. Bị cán bộ bắt được, quản giáo bảo bà phải bỏ túi nylong đó lại. Bà bảo: “Chồng tôi chết rồi, có gì các ông phải lo ngại. Tôi đem xương cốt chồng tôi về thờ cho trọn nghĩa thủy chung, điều nầy có gây khó khăn gì cho các ông đâu? Tôi có lấy chồng khác thì tôi cũng thấy trọn nghĩa với chồng trước và người chồng sau của tôi càng kính trọng tôi thêm”.
Quản giáo nhất định bắt Bà phải để túi nylong xác chồng lại rồi mới cho Bà đi. Bà tức tối, la lớn: “Ðời thưở nhà ai, vợ hốt cốt chồng lại bị ngăn cấm! Ðược, tôi gởi túi xác chồng tôi nơi đây, các ông phải giữ kỹ. Tôi sẽ về Hà-Nội, gõ cửa các quan lớn, hỏi cho ra lẽ. Có phép nào, có luật nào không cho vợ được giữ hài cốt của chồng mình, thờ phụng không? Chuyện gì xảy ra thì các ông phải chịu trách nhiệm”.
Thấy sự việc gây cấn, biết người đàn bà nầy sẽ làm lớn chuyện, có thể không hay nên quản giáo đành để Bà đi nhưng cho một cán bộ đi theo Bà ra đến lộ, ngăn cấm tất cả mọi loại xe: xe đò, xe hàng, xe ôm, xe đạp, cả xe chở củi, không cho chở Bà. Thế là Bà cuốc bộ hàng chục cây số, len lỏi đến nhà ga Hàng Cỏ, hối lộ nhân viên trên tàu, leo lên xe lửa, len lỏi qua bao nhiêu toa, rốt cuộc sau bao ngày về đến Sài-Gòn”
o0o
Rất tiếc, người viết không hỏi rõ người vợ lính đó cùng chồng tên gì, bị giam tại trại tù nào.
Nhà thơ Mạc Phương Ðình đã cảm khái viết lên một bài thơ từ câu chuyện Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa như sau:
- “Năm sau nữa, đội mưa đạp nắng
Nửa vừng trăng, nếp trán rưng rưng
Mồ hoang lại ngủ bên chồng
Tóc thề thêm một thủy chung đất trời…
Năm sau nữa, rừng hoang núi vắng
Ðêm cùng ngày gió đắng mưa cay
Ðến bên quản giáo tỏ bày
Chồng tôi mộ đã xanh dày cỏ hoang
Xin cho lần nữa đoạn tang
Dù thêm bước mới, cũng tròn thủy chung….
Xin được viết trên lá rừng vạn dặm
Một chữ tình chung nhất để yêu em
Dòng suối nhỏ mang lá về với biển
Ðể nghìn năm tình ấy vẫn mênh mông”…
Mạc Phương Ðình
(Nguồn tin lấy từ website “Phi Đoàn Trực Thăng Ác Điểu 225”)
https://hon-viet.co.uk/MacPhuongDinh_Ng ... ongHoa.htm - “Năm sau nữa, đội mưa đạp nắng
50 năm sau chiến tranh: Hà Nội vẫn nuôi thù cả những nấm mồ
-
50 năm sau chiến tranh:Hà Nội vẫn nuôi thù
cả những nấm mồ
_____________________________
Najma Sambul _ Bản lược dịch của Khiết Văn
Nghĩa trang quân đội Biên Hòa.
Đã 50 năm kết thúc chiến tranh, nhưng Hà Nội vẫn giữ sự căm thù với cả binh sĩ tử trận của phía VNCH. Thật khó hiểu khi thân nhân của của những ngôi mộ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa 4 cải táng hoặc dựng lại mộ cũng gặp vô cùng vàng những điều khó khăn từ ABC News của Úc Châu mới đây đã có phóng sự về điều này, với bài viết mang tựa đề “Người dân miền Nam Việt Nam muốn tìm và chôn cất những tử sĩ trong chiến tranh. Tại sao lại khó khăn đến vậy?”
(South Vietnamese want to find and bury their war dead. Why is it so hard?)
Ông Hùng Trần ngập ngừng khi kể lại một ký ức ám ảnh ông trong nhiều thập kỷ, giọng ông run lên vì tức giận và buồn bã.
“Tôi vẫn có thể nhìn thấy khuôn mặt của họ – những người đàn ông đã cùng tôi chiến đấu, những người không trở về nhà. Họ đã chiến đấu, họ đổ máu và họ đã hy sinh vì đất nước”, người đàn ông 73 tuổi, người đã chiến đấu cho phía Việt Nam Cộng Hòa trong Chiến tranh Việt Nam, cho biết.
Nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, ông Trần và những người khác như ông vẫn đang đấu tranh để tìm kiếm và chôn cất thi thể những người đồng đội đã hy sinh.
“Họ không có mộ. Không có tên. Giống như họ chưa từng tồn tại vậy”, ông nói.
Quỹ Người Mỹ gốc Việt và các thành viên, bao gồm cả Hùng Trần đã làm việc để hồi hương thi thể của những người lính Nam Việt Nam trong nhiều thập kỷ.
Ông Trần, người đã sống ở Úc 40 năm sau khi chạy trốn khỏi Việt Nam với tư cách là người tỵ nạn, cho biết Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa bên ngoài Sài Gòn – nay gọi là Thành phố Hồ Chí Minh – đó là một “nơi linh thiêng” trước năm 1975 đối với người miền Nam.
“Nhưng sau khi cộng sản tiếp quản, họ đã phá hủy nó. Họ đập vỡ bia mộ, đào bới các ngôi mộ và trồng cây để phủ kín đất.
“Mục đích của họ rất rõ ràng: xóa tên chúng ta khỏi lịch sử “, ông Hùng Trần nói.
Ông Hùng Trần (bìa bên phải)
Nhà sử học người Úc Robert Hall, người đã hỗ trợ chính phủ Việt Nam tìm kiếm nơi chôn cất binh lính Bắc Việt và trả lại các hiện vật cá nhân thu được từ chiến trường, cho biết thời gian tìm kiếm hài cốt của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang cạn dần.
“Tình hình vô cùng tồi tệ ngay sau chiến tranh. Các nghĩa trang quân đội Nam Việt Nam đã bị chính quyền cố ý san phẳng”, ông nói.
Mặc dù thời gian đã giúp cho thái độ của Hà Nội dịu đi và đã có tiến triển, Tiến sĩ Hall cho biết “những yếu tố nhạy cảm gia tăng” khiến cho việc tìm kiếm hài cốt trở nên khó khăn hơn.
Đại sứ Việt Nam tại Úc, Phạm Hùng Tâm, cho biết Hà Nội đã cho phép người thân khôi phục và di dời các ngôi mộ của binh lính Việt Nam Cộng Hòa tại các nghĩa trang như Bình An – trước đây là Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa – hiện là nghĩa trang dân sự.
“Hàng ngàn ngôi mộ như thế này đã được người thân trùng tu, nhiều ngôi mộ trong số đó đã được đổ xi măng”, ông Tam nói với ABC News.
Ông cho biết thêm rằng nghĩa trang đã tiến hành các nỗ lực dọn dẹp và tân trang, bao gồm cả việc dựng các bàn thờ bằng đá.
Về thách thức lớn hơn trong việc tìm kiếm hài cốt, ông Tâm cho biết: “Nhiệm vụ tìm kiếm hài cốt của những cá nhân này là rất lớn, đầy thách thức, tốn kém và mất thời gian.
“Thậm chí hàng ngàn liệt sĩ yêu nước (Bắc Việt) của chúng tôi vẫn còn mất tích.”
Thách thức trong việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam
Theo Trung tâm Phi tiêu của Đại học Columbia, sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, ước tính có khoảng 165.000 binh lính đã được đưa đến các “trại cải tạo” ở Bắc Việt Nam, thực chất đó là những trại tù không án, và không thời gian trả tự do cụ thể.
Ông Hùng Trần, một người sống sót từ một trong những trại tập trung như vậy, mô tả đây là “nơi tra tấn” đối với những người chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa của ông.
“Nhiều người chết vì đói, tra tấn hoặc bệnh tật. Họ được chôn cất trong những khu rừng và ngọn núi xa xôi, ngôi mộ của họ không có bia mộ”, ông nói.
“Gia đình họ không có cách nào tìm thấy họ, chứ đừng nói đến việc đưa họ về nhà. ”
Tiến sĩ Hall, một cựu chiến binh người Úc và là giảng viên danh dự tại UNSW Canberra, giải thích rằng việc tìm kiếm hài cốt của những người lính đã hy sinh sau Chiến tranh Việt Nam đặc biệt khó khăn.
“Đối với những người lính Việt Cộng, thi thể của họ thường vẫn nằm lại trên chiến trường”, ông nói.
“Họ không có báo cáo chi tiết hoặc địa điểm chôn cất chính xác như chúng tôi. Trong nhiều trường hợp, họ sẽ báo cáo về các vụ chôn cất một cách mơ hồ — như một đồn điền cao su hoặc một quận rộng hàng ngàn mét vuông.”
Các tổ chức như Quỹ Người Mỹ gốc Việt hơn 50 năm vẫn tiếp tục vận động trả lại hài cốt của những người lính Việt Nam Cọng Hòa cho gia đình họ.
Đến nay đã tìm thấy 504 hài cốt, và còn rất nhiều hài cốt khác đang chờ nhận dạng và trao trả.
Tổ chức này đã khai quật nghĩa trang trại cải tạo Láng Đá ở tỉnh Yên Bái vào năm 2010 và thu thập được 12 bộ xương, trong đó có 11 bộ xương có chứa DNA còn sống.
Một bộ xương người được đặt trước bức ảnh của một người lính Việt Nam Cộng Hòa sau khi khai quật thành công ở Việt Nam (Ảnh: VAF)
Hài cốt của một người lính Nam Việt Nam được tìm thấy vào năm 2006 trong khuôn khổ nỗ lực của Quỹ người Mỹ gốc Việt và một nhóm chuyên gia bao gồm một nhà khảo cổ học. (Cung cấp: Quỹ người Mỹ gốc Việt – VAF)
Nhà khảo cổ học Julie Martin sau đó đã viết trên một tạp chí học thuật rằng một nhóm đã khai quật bộ xương và phát hiện ra những vật dụng cá nhân như bát gốm và bàn chải đánh răng trong nhiều ngày bất chấp điều kiện đất đai và khí hậu khắc nghiệt.
Nhưng ông Hùng Trần cho biết những nỗ lực vận động của Quỹ người Mỹ gốc Việt với chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam thường chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.
Quỹ này đã đề xuất xây dựng lại Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa, nhưng vẫn chưa có hồi đáp từ chính quyền CSVN.
“Chúng tôi không muốn bất kỳ sự phô trương hay chính trị nào, chỉ cần một nơi an nghỉ trang nghiêm,” Ông Hùng Trần cho biết.
Hai người đang dùng xẻng đào đất khô trong khi nhiều người khác đang nhìn theo.
Quỹ Người Mỹ gốc Việt đã thu hồi được 504 hài cốt của những cựu chiến binh Nam Việt Nam sau nhiều thập kỷ làm việc. (Nguồn: Quỹ Người Mỹ gốc Việt)
‘Hà Nội muốn xóa bỏ chúng tôi’
Hàng năm, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và Úc trở lại Việt Nam để tưởng niệm những người đã khuất.
Cựu chiến binh Úc trong Chiến tranh Việt Nam giúp tìm thấy những người lính đã bị chôn vùi từ lâu. Họ thậm chí còn tham gia vào các sự kiện kỷ niệm Trận Long Tân.
Đối với ông Hùng Trần, điều đó làm tăng thêm nỗi đau khi nhìn thấy mà không thể giúp những người đồng đội của mình được yên nghỉ.
“Làm sao những người cộng sản Việt Nam có thể tuyên bố hòa giải với kẻ thù cũ trong khi lại đối xử với chúng tôi – những người có cùng ngôn ngữ, màu da và lịch sử – như kẻ thù?
“Đây là sự tàn ác mà không ai ngoài người Việt Nam có thể thực sự hiểu được”, ông nói.
Nhưng ông Tâm của Đại sứ quán Việt Nam cho biết những người Việt ở nước ngoài, bao gồm cả những thành viên cấp cao của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã được chào đón trở về nước như một phần của nỗ lực hòa giải.
“Chính phủ Việt Nam luôn coi người Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”, ông nói.
Mặc dù các cựu chiến binh Úc có thể tưởng niệm những người đã ngã xuống ở Việt Nam, nhiều binh lính Việt Nam Cộng Hòa nói họ không bao giờ có được cơ hội như vậy.
Ông Hùng Trần cho biết việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam mất tích vẫn là cuộc chiến lớn nhất mà ông từng chiến đấu.
“Chúng tôi không còn chính phủ nào đại diện cho chúng tôi nữa. Chúng tôi giống như cát bụi – mọi người đều muốn cuốn chúng tôi đi”, ông nói.
“Nhưng chúng tôi sẽ không ngừng chiến đấu. Những người chiến binh VNCH đó đã hy sinh mạng sống của mình vì điều họ tin tưởng. Họ xứng đáng được ghi nhớ.”
Nguồn: https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich ... ng-nam-mo/
https://hon-viet.co.uk/NajamaSambul_50N ... gNamMo.htm
Tháng Tư lại về
-
Tháng Tư lại về
_____________________________
Vương Mộng Long
Bây giờ là tháng Tư, trong ký ức tôi những kỷ niệm 30 năm trước lại hiện về, rõ mồn một như thể là nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia. Bây giờ là tháng Tư, tôi lại nhớ đến trận đánh oai hùng cuối cùng của QLVNCH, trận Xuân-Lộc! Tôi bùi ngùi hồi tưởng những vinh quang nhận được từ chiến thắng để đời này, cùng những tủi nhục nhận lãnh trong những ngày đen tối tiếp theo sau đó, khi quê hương nát tan. Những dòng này viết lên để tưởng niệm những thuộc cấp của tôi đã ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét (Xuân-Lộc), trên một ngọn đồi không tên ở Long-Thành, và trong đường phố Hố-Nai (Biên-Hòa).
Đầu tháng Tư năm 1975, Quân đoàn 2 không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ chỉ huy và hướng dẫn Liên đoàn 24/ Biệt Động Quân từ Quảng-Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan-Thiết thì Tiểu đoàn 82 BĐQ được đưa thẳng về sân bay Long-Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của BTL/ SĐ 18 BB. Tại đây, suốt 10 ngày đêm ròng rã, Tiểu đoàn 82/ BĐQ đã tả xung hữu đột chặn đứng mọi mũi tiến công dũng mãnh của lực lượng xe tank Cộng-Sản Bắc-Việt nhắm vào sân bay Xuân-Lộc và Tòa Hành Chánh Long-Khánk vùng đông nam thành phố. Với tôi, trận Long-Khánh là một trận đánh “để đời” cho những tay cầm quân chuyên nghiệp.
Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về “Con Cáo Sa Mạc” này, và tôi mơ tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm. Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Long-Khánh (6/4/1975) tôi thật khó mà tưởng tượng ra rằng tại nơi này mình lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất vài ngày sau đó. Trận Xuân-Lộc là lần đầu trong đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ hơn về quân số. Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của CSBV gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 37 ly. Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 37 ly bắn trực xạ vào trại 181 Pháo Binh/ SĐ18BB, nơi tôi đặt bản doanh BCH Tiểu đoàn 82 BĐQ. Ấy vậy mà đoàn quân hung hăng của “Con Cháu Bác” không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là cái trại 181 PB bé tí teo để xông thẳng vào tòa Hành Chánh tỉnh, nơi ông Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc (K10VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank CSBV.
Rạng đông 9/4/1975 chiến trận bắt đầu bùng nổ. Chiến trường mịt mù dưới đất, tóe lửa trên trời. Những cánh F5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc Khủng Long AC 119 bao vùng cả ngày lẫn đêm, những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm; đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những chiếc T54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch. Trong những ngày đầu tháng Tư Long-Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn!
Khi chiếc PT 76 vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của trại 181 Pháo Binh Sư Đoàn 18 thì cũng là lần đầu đoàn quân xâm lăng khựng lại hoảng hồn bởi những tiếng hô, “Biệt Động! Sát! “ ... “Biệt Động! Sát!” Chiếc xe tank đầu tiên lãnh một quả M72. Chiếc PT 76 xấu số cháy bùng. Những tên bộ đội Cộng-Sản tùng thiết rút lui trối chết về hướng rừng lau. Chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa CSBV ngay từ giờ đầu súng nổ. Nơi góc đông nam thị xã, những người xâm lăng đã biết chúng tôi là Biệt Động Quân.
“Biệt Động! Sát!” , “Biệt Động! Sát!” tiếng hô vang dậy một góc trời. Biệt Động Quân đang có mặt nơi đây!
Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số 12 BĐQ Pleime tử trận ở Long Khánh tháng 4/1975 đã có 7 người chết trong khi săn đuổi xe tank CSBV. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái “gót chân Achilles” của xe tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói.
Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là “tỉa” tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng “bùm! “ rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ “lóc! tóc!... ùm! ùm! “ ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong!
Mỗi lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng.
-Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!
- Hằng Minh, Tiên Giao nghe!
- Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Okay?
- Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!
- Okay! You're a man! Don't let 'em run away! Okay?
- Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!
- Kill 'em! Kill 'em! Okay!
- Vâng! Đây là cái tank thứ (2) (3)... đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!
- Okay! I like the way you fight!
- Vâng, tôi nghe rõ 5!
- You're great! You're excellent!
Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận hướng Tây thị xã. Trên đường bay, ông liên tục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân-Lộc, Đại tá Trung đoàn trưởng Tr/Đ 43/ SĐ18 BB Lê xuân Hiếu (K10) cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ. Người Anh Cả của mặt trận này là Thiếu tướng Lê Minh Đảo (K10) Tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của ông. Trung tá Lê Hằng Minh là người hùng TQLC Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ Trâu Điên năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa-Thiên. Tiên Giao là tên đứa con gái út của tôi, danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận đánh này. Ngày qua ngày, pháo địch như mưa, T 54 có bộ binh tùng thiết, từng đợt, từng đợt ào ạt xung phong vào vòng đai phòng thủ thị xã. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ 82/ BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T 54 này đến con cua T 54 khác. Tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Có cả một giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành! Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó “tà đầu” như ý của Thiếu Tướng Tư Lệnh mặt trận. Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M 72 từ toán diệt tank của Đại Đội 1/ TĐ82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐT82BĐQ cùng với anh phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài xa. Trong máy PRC 25 tiếng Th/úy Học, ĐĐT1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T 54 đã nằm bất động, anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa; thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như suối. Anh phóng viên và một người lính trong toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Sĩ Quan Trợ Y Tiểu đoàn phải dùng cả một tấm băng lá to bằng hai bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra.
Mặt Thọ tái xanh, môi run run,
- Thiếu tá đừng la em nhé! Em thấy cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em!
Tôi an ủi Thọ,
- Ừ Thiếu tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe. Hoàng Long sẽ đem em đi tản thương!
Hoàng Long là danh xưng của Đại úy Ngũ văn Hoàn, Tiểu đoàn phó TĐ 82/ BĐQ.
Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1 TĐ1 Trung đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long-Khánh đã bị đan chằng đan chịt kẽm gai vòng. Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là chiếc T54 thứ tư bị sơn lên pháo tháp dòng chữ “Tiểu đoàn 82/ BĐQ diệt tank”. Năm 1981 tại trại Cải Tạo Z30 C Hàm-Tân, có một Thiếu úy thuộc LĐ 81/ BCND tên là Nguyễn văn Vinh tìm gặp tôi. Anh nói, “Tháng 5/1975 em bị nhốt ở Long-Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ 'Tiểu đoàn 82 BĐQ diệt tank' viết trên bốn cái tank T54 và một cái lội nước PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân-Lộc. Công nhận tiểu đoàn anh đánh tank tuyệt quá!”
Chiếc xe tản thương của Trung đoàn 43 BB đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba Tân-Phong, tháp tùng có Đại úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và một anh y tá BĐQ. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông Đại úy Tiểu đoàn phó kể lại chuyện dưới đây. Xe tới BTL/ SĐ18/ HQ thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa lưng vào một gốc xoài. Ông Đ/úy Hoàn đi tìm Sĩ quan Quân Y Sư đoàn để xin tải thương. Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước ra, thấy Thọ, ông hỏi,
- Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài-Gòn hả?
Thọ im lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh thấy vết thương của mình. Bất ngờ, bộ ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương; máu anh tuôn xối xả.
Anh y tá vội thưa,
- Trình Thiếu tướng, anh này là lính TĐ 82 BĐQ , ảnh bị phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu tá em cho phép ảnh được tản thương về Sài-Gòn đó Thiếu tướng.
Tư Lệnh la lớn,
- Quân y đâu băng bó cho chú em ngay.
Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh.
Đại úy Hoàn vừa kịp quay lại chưa kịp chào trình diện thì Tư Lệnh đã lớn tiếng,
- Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về Cộng-Hòa cho tôi.
Quay qua Thọ, Tướng nhẹ giọng,
- Em là lính của Thiếu tá Long, em can đảm lắm, qua sẽ cứu em!
Thọ lí nhí,
- Cám ơn Thiếu tướng.
Rồi anh quay qua Đại úy Hoàn,
- Cho em điếu thuốc đi Đại úy.
Đại úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc cho Thọ, thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính can trường. Ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ. Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, mắt Thọ long lanh, chợt anh ngoác miệng cười,
- Khẩu phòng không còn mới cáo cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại úy ơi!
Ông Đại úy Hoàn an ủi,
- Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp cho Thiếu tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày không mê nó đến đổ ruột luôn!
Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn.
Cái bảng nhôm sơn đỏ có sao trắng được lật mặt ra đàng sau đã trở thành cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng sao, chiếc trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường, như ngàn vạn chiếc tàu khác. Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Đại úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm,
- Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng cho Thiếu tá. Đại úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà phê cho Thiếu tá thì cho ít đường thôi! Thiếu tá không thích uống ngọt lắm đâu. Nhờ Đại úy nhắn với Thiếu tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với Thiếu tá ngay. Thôi em đi đây!
Không rõ Tư Lệnh có nghe lời nhắn của anh lính BĐQ gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư Lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống. Đây không phải là lần đầu cái can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi, không thiếu những ngưới lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng-Nam đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng “tắc cù” là chú Hạ sĩ Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói,
- Em phải che cho Thiếu úy, em trúng đạn có mình em chết. Thiếu úy trúng đạn cả chục người chết theo.
Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt khi đưa thân che chở cho tôi, khi Đại đội tôi chạm địch gần ga Hương- An, Tam-Kỳ.
Năm 1969 trong trận Bình-Tây 49 dưới chân đỉnh Chư-Pa, Đại đội 1/ TĐ11BĐQ của tôi đánh cứu viện cho Đại đội 4/ TĐ11 BĐQ của Tr/ úy Nguyễn Lạn (K20). Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều. Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông phải. Đã có nhiều chuyến tải thương đi, mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân bua,
- Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của Trung úy xong em mới yên lòng đi về.
Tôi ngỡ ngàng kêu lên,
-Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại cho ông thường vụ! Lên tàu ngay! Luẩn quẩn ở đây đến chiều, hết tàu tản thương. Qua đêm máu ra hết thì chết!
Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân Y Viện Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được giải ngũ lãnh tàn phế 100%. Những người lính của tôi dễ thương như thế ấy! Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến-Đức tới Lâm-Đồng rồi về Xuân-Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh quang mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh cho cái vinh quang mà mình đã một thời nhận được.
Là người cầm quân, vinh quang là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân-Lộc, khách sạn Long-Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng Tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng Tư Long-Khánh 1975, TĐ 82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi. Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung tá (K15) Nguyễn văn Đỉnh làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu tá (K20) Vương mộng Long, TĐT82BĐQ chỉ huy, gồm TĐ 82 BĐQ tăng cường thêm 1 Đại đội của TĐ 1/ 43 BB, 1 Đại đội Địa Phương Quân Tiểu Khu Long-An và 1 Đại đội Điạ Phương Quân từ Bình-Long di tản về. Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm đe cho Dù thì quả là mất mạng như chơi! Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên quán Pleiku.
Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sài-Gòn, đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với ĐĐ1 TĐ82 BĐQ của Th/úy Học; anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của trại 181 PB/ SĐ18. Giữa tháng Tư Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào một Trung đoàn CSBV trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia. Từ nơi đồn điền Thống tướng Tỵ, cán binh CSBV từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc-Việt bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn...
Những tiếng hô “Biệt Động! Sát!” hoà lẫn tiếng súng M16, M60 làm cho một số cán binh CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại bìa rừng.
Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu. Thế là họ đầu hàng!
- Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa?
- Dạ cháu nghe rõ ạ!
Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm.
- Cậu mấy tuổi rồi?
- Dạ thưa Thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ!
- Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à?
- Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi. Chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ!
- Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào?
- Thưa Thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ!
- Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài-Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ!
- Thủ trưởng có nói thật không hử Thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm Thủ trưởng ơi!
Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi...
Thì ra thế! Những cậu bé này được đưa vào đây là để... tiếp thu Miền Nam!
Một hôm, Đại tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại! Rồi Đại tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời, “không trở ngại!” Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe B52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng “ủn ủn” theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km. Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang của 1 Box B52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một cột bụi dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ chắc chiếc C130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là 1 trong 2 trái CBU 55 (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân-Lộc. Một trái được thả xuống vùng núi Tre hướng Tây Bắc Long-Khánh, tôi không nghe báo. Trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang tiến vào khu vực phòng thủ của Trung đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có TĐ 82 BĐQ tăng cường.
Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài-Gòn đã bay ra tới tận cuối sân bay Long-Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ. Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-mê-Thuột, Pleiku... Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân-Lộc. Đại tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại 181 PB không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích! Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng. Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân-Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.
Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975 Đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu,
- Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-Khánh rút về Bà-Rịa. Ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị. Chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau. Tôi ngồi với Đ/Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư Lệnh. Đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long-Khánh là từ Tổng Thống. Địch không vây Long-Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên-Hòa và thủ đô Sài-Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân-Lộc, về bảo vệ Thủ Đô. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép Sư đoàn này thi hành lệnh lui binh.
Tôi được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngã ba Tân-Phong trước 8 giờ đêm, chờ lệnh. Tiểu đoàn 82 BĐQ cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi. Cuối tháng ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến-Đức; chúng tôi đã bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị BĐQ một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến-Đức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình bên QL14. Quận Kiến-Đức và Đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2! Lần này 12 người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh.
Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành Chánh tỉnh Long-Khánh thì Đại tá BĐQ Phạm văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó. Đại tá yêu cầu tôi cho Tiểu đoàn 82 BĐQ đi với đoàn quân của Tiểu khu Long-Khánh, và ông xin được tháp tùng Tiểu đoàn 82 BĐQ trong cuộc rút lui. Tôi từ chối với lý do,
- Đại tá có cả một Tiểu Khu, Đại tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ. Đại tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.
Đại tá Phúc hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại tá trong trại cải tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân-Lộc, Bà-Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó. Ra tới QL1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân-Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng balô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Một người lính bộ binh chạy băng ngang từ bên phải sang bên trái đường. Anh trượt chân té, chiếc xe cam nhông chạy qua đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn thành Long, sinh quán Long-An. Hai bên đường người cứ đi như chảy hội, trên đường, xe cứ nối đuôi nhau...
Vương Mộng Long K20
https://hon-viet.co.uk/VuongMongLong_ThangTuLaiVe.htm